Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN Phong tục tập quán Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (160.02 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI </b>

<b>BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN </b>

<b> HỌC KỲ: II NĂM HỌC: 2020-2021 </b>

<b> </b>

<b> Học phần: Phong tục tập quán Việt Nam (VH6017) </b>

<b>Hình thức thi: Tự luận nộp bài sau </b>

<b> Ngày thi: 27/7/2021 </b>

<b> Giảng viên: TS. Vũ Hồng Thuật Sinh viên: Triệu Thị Kim Nhân Mã sinh viên: 61DLH28128 Mã lớp: N08 </b>

<b> Hà Nội, 2021 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>Bài thi môn: Phong tục tập quán Việt Nam Sinh viên:Triệu Thị Kim Nhân </i>

<i>Lớp: N08 </i>

người Việt (người Kinh)? Qua đó, anh (chị) nhận xét về phong tục đốt vàng mã của

<b>người Việt (người Kinh) hiện nay? </b>

<b>Câu 02 (06 </b>điểm): Anh (chị) hãy trình bày quan niệm về cái chết và phong tục thờ cúng tổ tiên trong gia đình người Việt (người Kinh)? Nhận xét sự thay đổi trong phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay so với trước đây?

<b>BÀI LÀM </b>

Như chúng ta biết, phong tục tập quán là một phần của cuộc sống con người và

cư trú và tộc người. Điều này cũng giống như đặc tính của phong tục tập quán là

như các hoạt động sống hằng ngày của con người. Phong tục tập quán cũng luôn ln thay đổi để phù hợp với hồn cảnh đương đại. Để chứng minh điều này, chúng ta cùng

(người Kinh)? Qua đó, anh (chị) nhận xét về phong tục đốt vàng mã của người Việt (người Kinh) hiện nay?

Tết là dịp lễ truyền thống được lưu truyền từ thuở xưa, có ý nghĩa vơ cùng quan trọng đối với người Việt chúng ta. Từ ngày xa xưa, hoạt động sản xuất buôn bán luôn gắn liền với vấn đề nông nghiệp. Nổi bật như là nền văn minh lúa nước, nền văn minh

này đã được thể hiện trong những câu truyện dân gian truyện cổ tích, như câu chuyện bánh chưng bánh giày… chính vì vậy nguồn gốc của tết người Việt được bắt nguồn từ đầu là Tết cơm mới 10/10 (âm lịch). Hiện nay, Tết cơm mới được thể hiện trong nhiều văn hóa lưu truyền ở nhiều dân tộc địa phương, tiêu biểu như người dân tộc Hà Nhì

Việt ta gồm có 9 ngày lễ tết chính trong một năm. Bản chất của tết chính là một dấu mốc về thời gian, khởi đầu cho một mùa vụ mới và cầu cho sức khỏe dồi dào, mùa

<b>màng bội thu. Nhắc đến tết, thứ không thể thiếu đó chính là nén nhang. Chẳng biết từ </b>

hương như một chiếc cầu nối thiêng liêng giữa cuộc sống hiện hữu của con người với

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

cõi tâm linh của trời đất. Có thể nói, hương đã len lỏi vào tận cùng ngóc ngách của đời

Một năm có 12 tháng cũng gắn liền với 12 ngày rằm. Có 3 ngày rằm quan trọng, rằm tháng Giêng, ngày trăng tròn đầu tiên của năm mới, tục xưa gọi là Tết Nguyên Tiêu. Tết Nguyên Tiêu còn gọi là Tết Thượng Nguyên, bởi còn có Tết Trung Nguyên (rằm tháng bảy) và Tết Hạ Nguyên (rằm tháng mười).

Nếu Tết Nguyên Tiêu có nghĩa là đêm rằm đầu tiên của năm mới, cầu mong một năm mới vạn sự như ý, an lành cho bản thân và gia đình (dành cho người sống).

<b>Thì Tết Trung Nguyên là để con cháu tỏ lịng hiếu thảo với ơng bà tổ tiên, những </b>

người đã khuất.

Người ta nói rằng “Cúng quanh năm khơng bằng rằm tháng 7”. Tết rằm tháng

nơi địa phủ. Dân gian cho rằng, vào rằm tháng 7 thì mọi tội nhân, trong đó có những

vàng mã cho vong linh người thân của gia đình. Ngày này có 2 lễ khác nhau: đó là Tết

khơng nơi nương tựa, khơng cịn người thân ở trần gian để thờ phụng hoặc thất lạc, hoặc vì một oan khiên nào đó.

một trong số ít đệ tử xuất chúng của Ðức Phật. Ngài có quyền pháp vơ biên. Mẹ ngài là bà Thanh Đề đã qua đời, ngài tưởng nhớ và muốn biết bây giờ mẹ như thế nào nên đã dùng tuệ nhãn quan sát khắp “bốn phương tám hướng”. Tôn giả Mục Kiền Liên thấy mẹ mình đang chịu cảnh tội đồ, là quỷ đói trong ngục A tỳ, thân thể gầy héo, xanh xao, chỉ cịn da bọc xương, khổ đau khơn xiết. Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam, độc ác, sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng ngài vẫn không khỏi thương xót. Dùng pháp thuật của mình, Tơn giả Mục Kiền Liên mang cơm dâng lên mẹ. Nhưng, do nghiệp quá lớn nên bát cơm bà Thanh Ðề cầm trên tay bỗng hoá thành than đỏ.

Chứng kiến cảnh tượng ấy, ngài rất đau lòng, về bạch lại với Phật, mong Ðức Phật cứu vớt để linh hồn mẹ ngài được siêu thoát. Cảm động trước tấm lịng hiếu nghĩa của Tơn giả Mục Kiền Liên, Ðức Phật đã chỉ cách để Ngài có thể cứu vớt được mẹ ra khỏi cảnh đoạ đầy.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Ðức Phật nói: “Ơng tuy quyền phép vơ biên, lại hiếu thảo hơn người, tấm lịng của ông làm cảm động cả trời đất nhưng tội ác của mẹ ơng q nặng, một mình ơng không thể cứu được mẹ. Ðến ngày rằm tháng bảy, Chư Phật hoan hỉ, Chư Tăng tự tứ, hãy sửa soạn lễ vật cúng dàng, thành tâm thỉnh cầu Chư Tăng chú nguyện thì mẹ ơng mới có thể siêu thốt được”.

Theo lời Phật dạy, nhằm ngày Rằm tháng Bảy, Tôn giả Mục Kiền Liên lập bồn Vu Lan (chậu đựng đồ lễ cúng), thỉnh mời Chư Tăng đến chú nguyện. Nhờ đó bà Thanh Ðề mới được siêu thoát. Các vong linh khác cũng nhờ phúc lành của Chư Tăng mà được siêu thốt.

Noi gương hiếu đễ của Tơn giả Mục Kiền Liên, cứ đến ngày rằm tháng bảy hàng năm các tín đồ, Phật tử khắp nơi lại tưng bừng tổ chức ngày lễ Vu Lan với tín tâm cầu cha mẹ, ơng bà, tổ tiên mình sẽ được thoát khỏi tội đồ.

Lễ Vu lan là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo vì vậy mà dân gian ta có câu “Tết cả năm không bằng rằm tháng bảy”. Đây là đại lễ báo hiếu ông bà, cha mẹ, tổ tiên – một tập tục đáng quý của người Việt.

Lễ cúng cô hồn câu chuyện xá tội vong nhân.

Về lễ cúng cơ hồn, theo đạo Phật cũng có 2 tích. Chuyện kể rằng ngày trước, quỷ thường hay quấy phá, làm hại người, khiến họ không thể yên ổn làm ăn, khổ quá bèn kêu lên Phật. Đức Phật giúp con người trục quỷ, đày chúng xuống địa ngục. Thế nhưng vì lượng cả từ bi, ngài cho phép chúng trở lại dương gian mỗi năm một lần vào dịp rằm tháng 7. Do đó, vào tháng 7 âm lịch, người ta quan niệm trên dương thế có rất nhiều quỷ đói nên phải cúng cháo, gạo, muối hối lộ cho chúng để chúng khơng quấy nhiễu cuộc sống bình thường.

Một tích khác liên quan đến câu chuyện giữa ông A Nan Ðà, thường gọi tắt là A Nan, với một con quỷ miệng lửa (diệm khẩu) cũng gọi là quỷ mặt cháy (diệm nhiên). Có một buổi tối, A Nan đang ngồi trong tịnh thất thì thấy một con ngạ quỷ thân thể khô gầy, cổ nhỏ mà dài, miệng nhả ra lửa bước vào.

Quỷ cho biết rằng ba ngày sau A Nan sẽ chết và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ miệng lửa mặt cháy như nó. A Nan sợ quá, bèn nhờ quỷ bày cho phương cách tránh khỏi khổ đồ. Quỷ đói nói: “Ngày mai ơng phải thí cho bọn ngạ quỷ chúng tôi mỗi đứa một hộc thức ăn, lại vì tơi mà cúng dường Tam Bảo thì ơng sẽ được tăng thọ mà tôi đây cũng sẽ được sanh về cõi trên”.

A Nan đem chuyện bạch với Ðức Phật. Đức Phật bèn đặt cho bài chú gọi là “Cứu Bạt Diệm Khẩu Ngạ Quỷ Ðà La Ni”, đem tụng trong lễ cúng để được thêm phước. Phật tử Trung Hoa gọi lễ cúng này là phóng diệm khẩu, tức là cúng để bố thí và cầu nguyện cho lồi quỷ đói miệng lửa. Nhưng dân gian thì hiểu rộng ra và trại đi thành cúng cơ hồn, tức là cúng thí cho những vong hồn vật vờ khơng nơi nương tựa vì khơng có ai là thân nhân trên trần gian cúng bái. Vì vậy, ngày nay mới có câu: “Tháng bảy ngày rằm xá tội vong nhân”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Cịn theo tín ngưỡng dân gian của người Việt, lễ xá tội vong nhân bắt nguồn từ công việc đồng áng của người nông dân trước kia. Hàng năm, cứ đến tháng 6-7 âm lịch là vào vụ thu hoạch mùa màng. Để công việc được may mắn, không gặp trắc trở, người dân thường cầu xin thần linh, thổ địa... bắt giam những yêu ma, oan hồn lại cho khỏi quấy nhiễu. Và đến đúng ngày 15/7, mọi việc phải được hoàn tất, đó cũng là lúc "ơng thần tha ma, chủ nhà tha thợ cấy", "mở cửa ngục xá tội vong nhân".

Vào ngày này, người ta thường làm một lễ cúng tạ ơn các thần linh, một mâm tưởng nhớ ông bà tổ tiên để cầu nguyện cho các vong hồn siêu thốt và cầu bình an cho gia đình.

Khác với cúng dân hương lúc giao thừa là cúng ngoài trời vào nhà, cúng lễ rằm tháng 7 được thực hiện từ trong nhà ra ngoài trời: cúng Gia Thần, cúng Gia Tiên, cuối cùng mới cúng chúng sinh.

Vì ngày rằm tháng 7, cửa ngục mở cho tất cả các cô hồn nên người ta thường cúng vào ban ngày và cúng trước ngày rằm tháng 7 để đảm bảo cho người thân của mình dễ dàng nhận đồ cúng. Theo tục lệ của người Việt, lễ cúng gia tiên nên có một mâm cơm, có thể là món mặn, có thể là món chay tùy thuộc vào hồn cảnh của người đang sống. Tuy nhiên, theo quan niệm đạo Phật cho rằng nên cúng gia tiên bằng món chay để tránh gia tiên tiếp tục mắc nghiệp sát sinh. Ngồi cơm cúng, người ta cịn chuẩn bị tiền vàng và những vật dụng cần thiết cho người quá cố được làm bằng giấy tượng trưng. Vì ngày rằm tháng 7, sẽ có rất nhiều vong hồn vất vưởng nên các món đị cúng như áo quần, vàng mã,… phải được ghi rõ tên người nhận.

Ngoài việc cầu siêu cho gia tiên, người Việt cịn có lễ cầu siêu cho các vong nhân khi tại thế đã thất cơ lỡ vận, phiêu bạt bơ vơ,… bằng việc đặt mâm lễ ngoài trời hoặc trước cửa ngôi nhà. Vật phẩm thường đơn giản như cháo lỗng, bỏng ngơ,… Cúng cơ hồn khôn nơi nương tựa cũng được gọi là cúng chúng sinh, được thực hiện ngoài trời, ngoài cửa chứ không cúng trong nhà. Cúng chúng sinh thể hiện đạo đức từ bi của con người nhân dịp “xá tội vong nhân”. Sau khi cúng cô hồn xong phải thực hiện mời các vong đi; tức là phải có thủ tục “tiễn khách” để tránh đưa vong hồn vào nhà.

Về bản chất đây là một lễ báo hiếu của người sống với người chết, con cháu với ơng bà tổ tiên thơng qua hình thức ngày 15/7 cúng đốt đồ mã vàng cho người đã mất. Thể hiện truyền thống uống nước nhớ nguồn. Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều gia đình thể hiện những lễ cúng rất rầm rộ, nhiều người đốt cung điện, đốt biệt thự, đốt máy bay thậm chí cịn đốt cả người giúp việc cho người đã khuất. Thực chất vật phẩm cúng là thể hiện sự văn minh, biết ơn, nhưng nhiều người đã thể hiện thái quá vượt tầm giới hạn truyền thống. Chúng ta lầm tưởng, cách cúng đấy không liên quan gây tác hại, nhưng chúng sẽ khiến cho người sống trở về cái bất nhân bất nghĩa. Ví dụ như việc đốt người giúp việc, cha mẹ chúng ta có nghèo khó đến đâu cũng khơng nhờ người khác để ni con mình, mà trực tiếp bằng mồ hôi nước mắt công sức để nuôi, nhưng đến khi chúng ta lớn lên rồi sinh sang bổng lộc, bây giờ lại nhờ người khác chăm sóc ni

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

dưỡng ơng bà cha mẹ mình, đấy là sự bất hiếu. Cịn việc đốt vàng mã lại thêm một tội giả tạo bởi vì cảnh giới khác nhau thì khơng thể chung phương tiện, chẳng hạn như thế giới chúng ta đi xe ô tô, đi máy bay nhưng ở thế giới bên kia họ có đi như vậy khơng. Đó chính là chúng ta đang lừa dối chúng ta, đồng thời chúng ta đang đồng lóa với những trị mê tín dị đoan. Khơng có cơng đức nào lớn hơn việc báo hiếu cha mẹ, giúp đỡ người thân và khơng có việc thiện nào tốt đẹp hơn là giúp đỡ những người khó khăn. Nhưng chắc chắn đó khơng phải là việc đốt vàng mã tràn lan, khơng phải là những khóa lễ cúng cầu đến hàng trăm triệu đồng. Mà thay vào đó là gắng tu sửa lại nét sống của bản thân, đi vào bếp nấu một bữa ăn đơn giản cho bố mẹ, mua một chút quà nhỏ biếu ông bà hoặc là tham gia một đợt tình nguyện dọn vệ sinh môi trường, thăm nom giúp đỡ những đứa trẻ bất hạnh hơn mình. Thực chất, thế giới âm cũng chính là suy nghĩ trong ý thức của con người chứ khơng hồn tồn tồn tại thật sự, chính vì vậy những đồ vàng mã mà chúng ta đốt cũng chỉ là biểu trưng suy nghĩ của mình, chúng ta cần thể hiện tốt tâm ý của mình. Tránh thể hiện thái quá gây lãng phí vơ ích mà cịn rơi vào trạng thái mê tín dị đoan, bất nhân bất nghĩa.

Vậy ta thấy rằng, tết lễ chính là sự đánh dấu thời vụ, chuyển giao thời gian. Nếu đầu năm là dành cho người cõi trần thì cuối năm sẽ mở màng các hoạt động cho người âm như mồ mả. Tết Trung Nguyên (15/7), thể hiện sự báo hiếu của người sống với người chết, con cháu với ông bà tổ tiên. Đồng thời cũng là cơ hội để xá tội cho những vong nhân khi tại thế đã cơ lỡ, không nơi nương tựa. Là sự dung hợp văn hóa trong phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo và Phật giáo. Thông qua câu truyện Mục Kiền Liên tôn giả nhìn thấy mẹ mình bị đánh đập qua đó giáo dục con người

cõi trần dương xuống âm phủ không bị trừng trị, thể hiện rõ quan niệm “ác giả ác báo”. Đây cũng chính là một sự thừa nhận của xã hội về cõi trầm âm “chết không phải là hết, mà là sự chuyển giao sự sống từ cõi dương sang cõi âm” trần sao âm vậy.

Có thể nói, tết Trung Nguyên là một dịp lễ tết quan trọng mà cần phải bảo tồn và phát huy, là một phong tục lưu truyền. Thuộc hệ thống phong tục tập quán liên quan đến chu kỳ thời tiết trong năm, qua đó cũng thể hiện chu kỳ vòng đời con người.

Việc cúng lễ tết Trung Nguyên của người Việt không chỉ đơn thuần là việc cầu cúng theo mê tín mà thể hiện tấm lịng của người cịn sống với người đã khuất, cũng là một dịp để tưởng nhớ cơng ơn những người đã hy sinh vì đất nước. Từ đó thấy ý nghĩa nhân văn, hướng thiện, là dịp thể hiện lòng hiếu thảo của con cháu với ông bà cha mẹ, không chỉ với người quá cố mà còn cả với người đang sống. Đó chính là hạnh hiếu của nhà Phật và tâm hiếu của con người đồng thời cũng là nét đẹp trong truyền thống văn hóa trọng đạo lý của con người Việt Nam.

tiên trong gia đình người Việt (người Kinh)? Nhận xét sự thay đổi trong phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt hiện nay so với trước đây?

*Trả lời:

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Từ xa xưa người Việt Nam sống với tâm thức: Con người ta sanh ra, lớn lên, dựng vợ gả chồng, sinh con đẻ cái, tạo lập công danh sự nghiệp… cuối cùng cũng theo quy luật sinh lão bệnh tử. Do xem và chấp nhận cái chết là quy luật nên người Việt Nam đón nhận cái chết trong tinh thần chủ động thư thản như sắm trước quan tài (gọi là Thọ), xây dựng sanh phần (gọi là Kim tỉnh) cho chính bản thân khi còn sống. Nhân sanh quan người Việt xưa nay cũng cho là "sống ở, thác về", xem cuộc sống trên mặt đất chỉ là cõi trọ tạm bợ, và chết không phải là hết, mà về cõi vĩnh cữu. Do vậy "người chết cần được mồ yên mả đẹp", việc "động mồ động mả" rất kiêng cử ví có thể ảnh hưởng đến sự nghiệp của con cháu nhiều đời. Người Việt còn sống theo đạo lý: "nghĩa tử là nghĩa tận", tức là bao nhiêu hờn ốn đều xóa bỏ khi đối tượng đã chết, vì chết là dứt nợ trần gian. Không ai truy cứu người chết bao giờ. Trong dân gian tới nay ngay vẫn còn một bộ phận lớn người tin vào linh hồn, cho rằng người chết rồi thì linh hồn sẽ sống ở cõi âm, nơi đó linh hồn cũng sinh hoạt như ở dương thế.

Dù quan niệm cái chết thế nào thì tang lễ là một hình thức bày tỏ lịng nhớ ơn và thương xót của người sống đối với người chết. Người Việt quan niệm lễ tang là một phần của đạo hiếu mà con cháu dành cho ông bà cha mẹ khi quá cố. Do vậy, việc tổ chức tang lễ được diễn ra rất trọng thể.

Trình tự lễ tang ngày trước như sau: người chết được tắm rửa sạch sẽ, Lúc tắm

đứng dậy. Cha thì con trai vào tắm, mẹ thì con gái vào tắm. Lấy vuông vải dấp vào ngũ vị, lau mặt, lau mình cho sạch rồi lấy lược chải tóc lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn

lược thìa và nước đem đi chơn; rước thi thể đặt lên giường.

Thay quần áo tươm tất, rồi lấy một chiếc đũa đặt giữa hai hàm răng, bỏ vào miệng một dúm gạo và ba đồng tiền xu gọi là lễ ngậm hàm. Lễ này theo tục xưa, bỏ

được siêu thoát. Lễ này ngày nay nhiều nơi đã bỏ, có nơi thay thế bằng may một cái túi, trong túi đựng một ít tiền gạo và một vài đồ lặt vặt mà khi sống, người đó hay dùng đến. Theo "Thọ mai gia lễ", lễ này được tiến hành như sau: Lấy ít gạo nếp xát

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Sau đó đặt người chết nằm xuống chiếu trải sẵn dưới đất (theo quan niệm "từ đất sinh ra lại trở về với đất"). Tiếp đó là lễ khâm liệm (liệm bằng vải trắng) và lễ nhập quan (đưa thi hài vào quan tài). Sau khi nhập quan là lễ thành phục, chính thức phát tang. Con trai, con gái và con dâu của người quá cố, đội khăn sô, mũ chuối (hoặc mũ tết bằng rơm), mặc áo sô. Cháu chắt họ hàng, thân thích chít khăn để tang. Những ngày quàn người chết trong nhà đều phải cúng cơm sớm, chiều. Phường nhạc cử nhạc ai, bà con, bạn bè, làng xóm đến viếng. Sau khi chọn được ngày, giờ tốt làm lễ đưa tang. Đám tang có câu đối, linh sàng, nhà táng (nơi đặt linh cữu). Người đưa tang đi sau linh cữu, dọc đường có rắc vàng thoi (bằng giấy). Đến huyệt làm lễ hạ huyệt và đắp mộ. Chôn cất xong về nhà làm lễ tế.

Ba ngày sau tang chủ làm lễ viếng mộ (lễ mở cửa mả), được 49 ngày làm lễ chung thất (thôi cúng cơm cho người chết). Sau 100 ngày làm lễ tốt khốc (thơi khóc). Sau một năm làm lễ giỗ đầu, sau ba năm (ở nhiều nơi là hai năm) làm lễ hết tang.

Ngày nay, lễ tang được tổ chức theo nghi thức đơn giản hơn: lễ khâm liệm, lễ nhập quan, lễ viếng, lễ đưa tang, lễ hạ huyệt và lễ viếng mộ. Người trong gia đình để tang bằng cách chít khăn trắng hoặc đeo băng tang đen.

bà cha mẹ những người đã khuất thì ngày lễ tết hằng năm thì khơng nhà nào là khong làm việc này. Ngoài cúng các ngày này, thì trong một tháng người Việt đều cúng vào ngày Rằm và mùng 1 hằng tháng. Đây là tục không nhà nào không cúng, bởi theo quan niệm, mùng 1 gọi là ngày “Sóc”, Rằm gọi là ngày “Vọng”. Bởi người Việt ta coi ngày “Sóc, Vọng” là ngày để tưởng nhớ tổ tiên, trời đất thần phật cầu những điều tốt đẹp cho tổ tiên nơi suối vàng và nhờ ơn tổ tiên phù hộ cho bản mệnh được tốt lành công việc được tiến tới.

chuẩn bị xong các đồ vật thì tiến tới hành dâng cúng tổ tiên. Trước khi cúng một lần nữa phải lau dọn bàn thờ cúng cẩn thận, rồi mới tiến hành đặt các đồ vật lên. Đối với người Việt điều quan trọng nhất trong việc thờ cúng tổ tiên đó là cái tâm, sự hiếu kính của con cháu với tổ tiên. Miễn sao, bàn thờ phải cao ráo lúc nào cũng sạch sẽ. Dù bàn thờ đơn giản hay cầu kỳ thì nhiều người cho rằng, cốt ở tấm lịng. Việc thờ cúng tổ tiên phải đặt đạo hiếu ở đầu và sự hướng vọng về tổ tiên mới là điều quan trọng. Bàn thờ có cầu kỳ đến mấy mà con cháu chỉ lo hình thức, thì việc hành lễ cũng chẳng thể yên lòng tổ tiên. Đấy chính là ý nghĩa nhân văn lớn nhất trong việc thờ cúng tổ tiên.

đi xa,… người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo, để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công.

cũng như người chết”. Họ luôn tin rằng, linh hồn của những người tân đã khuất vẫn luôn hiện hữu trong gia đình, dịng tộc và tác động đến đời sống của con cháu. Trong quan niệm văn hóa thờ cúng tổ tiên của người Việt, sau khi qua đời linh hồn của

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

những người thân trong gia đình thường ngự trên bàn thờ để dõi theo giúp đỡ những người thân nơi dương thế. Chính vì vậy, ln có mối quan hệ mật thiết và tác động đến

việc cúng giỗ là việc thực hiện giao lưu giữa cõi âm và cõi dương.

Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt xuất phát từ Nho giáo, ý muốn thực hiện lời dạy của Khổng Tử, lấy chữ “hiếu” làm đầu, tuy nhiên nhiều người lại biến hóa thành hủ tục rườm rà, phiền toái đánh mất đi sự giản dị và trong sáng của việc thể hiện chữ “hiếu”.

ông bà tổ tiên. Thờ cúng tổ tiên là thờ những vong linh của những ngưởi trước thế hệ mình, thuộc dịng dõi của gia đình mình, dịng họ mình. Điều này thể hiện tư tưởng đạo hiếu, chữ hiếu. Thơng qua đó, ni dưỡng tâm thức đạo lý “uống nước nhớ

nguồn” của người Việt. Trong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt cịn có tục thờ bà cô Mãnh, tưc là những người chưa có gia đình, người ta quan niệm đó là những người rất lương thiện, và thường bảo trợ cho những người sống trong gia đình gia tộc. Nên người ta thường có một ban thờ riêng dành cho bà cô Mãnh và rất tôn trọng.

nhiệm đối với bậc sinh thành mà còn để giáo dục con cháu lưu truyền nòi giống theo một hệ thống văn hóa dịng tộc giàu tính nhân văn.

Tập tục thờ cúng tổ tiên thể hiện được tính nhân văn của dân tộc Việt, những người đã khuất không bị lãng quên trong tâm tưởng của những người còn lại, chứng tỏ dân tộc Việt là một dân tộc đặc biệt mang trong máu một thứ tình cảm thiêng liêng hơn bao giờ hết

Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt cũng cịn có mặt ưu là duy trì được tình thân trong quan hệ thân tộc. Những ngày lễ, ngày Tết hoặc ngày kỷ niệm một người thân qua đời, là những dịp để con cháu ở các nơi khác hội tụ lại, cùng nhau gặp gỡ hàn huyên để kết chặt mối thâm tình, đồng thời thăm nom an ủi ơng bà cha mẹ, nếu như họ cịn sống. Đây là một việc làm thiết thực và cao quý nhất trong việc thể hiện chữ hiếu của một dân tộc giàu tình cảm như người Việt.

Trong quan niệm dân gian Việt Nam, qua việc thờ cúng tổ tiên, giới vơ hình và giới hữu hình ln ln như có một sự liên lạc mật thiết. Sự thờ cúng chính là mơi trường gặp gỡ của thế giới hữu hình và vũ trụ thần linh.

Đối với người Việt Nam cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng

Thế nhưng, tục ta lại tin rằng dương sao âm vậy, người sống cần gì, sống làm sao thì người chết cũng như vậy và cũng có một cuộc “Sống” ở cõi âm như cuộc của người trên dương thế, nói khác đi, người chết cũng cần ăn, uống, tiêu pha, nhà ở như người sống.

Tin như vậy, việc cúng lễ là cần thiết, và việc thờ cúng tổ tiên khơng thể khơng có được. Tục ta lại cịn tin rằng vong hồn người khuất thường ln ngự trên bàn thờ để

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày và giúp đỡ con cháu trong từng trường hợp cần thiết.

Sự tin tưởng vào vong hồn ông bà cha mẹ ngự trên ban thờ, có ảnh hưởng nhiều đến hành động của người sống. Nhiều người vì sợ vong hồn cha mẹ buồn đã tránh những hành vi xấu xa, và đôi khi định làm một cơng việc gì cũng suy tính kỹ lưỡng, xem cơng việc lúc sinh thời cha mẹ có chấp nhận hay không. Người ta sợ làm cho vong hồn cha mẹ phải tủi hổ qua hành động của mình và mang tội bất hiếu.

Tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt là một loại hình tín ngưỡng dân gian đậm tính nhân bản, tuy có mặt tích cực về phương diện đạo đức làm người và là một truyền thống văn hóa tốt đẹp của người Việt, nhưng ngược lại cũng bộc lộ sự mê tín, huyễn hoặc, khi tin rằng tổ tiên đã chết có quyền lực che chở phù hộ cho con cháu. Tập tục này cũng gây nhiều khó khăn và hao phí tiền của, cơng sức của con cháu. Vì trong thực tế, trong một xã hội văn minh như hiện nay, ai ai cũng đều hiểu người chết không thể về ăn những mâm cỗ cúng của con cháu. Làm giỗ cũng có khi chỉ là để “trả nợ miệng” cho nhau và cũng để không bị miệng đời đàm tiếu cho rằng con cháu bất hiếu để cho ông bà tổ tiên phải đói lạnh!

Thực chất, thờ cúng tổ tiên khơng thể được xem là một tôn giáo, mà đây chỉ là một loại tín ngưỡng dân gian, bắt nguồn từ sự thể hiện tấm lòng hiếu thuận của con cháu đối với ông bà, cha mẹ tổ tiên đã khuất. Vì trong tơn giáo khơng có khái niệm quốc gia, khơng có biên giới trong sự hiện hữu và tồn tại của con người. Mục tiêu của tôn giáo là phần đời sau cái chết thuộc thể, tơn giáo hoạt động có tổ chức, có hệ thống chặt chẽ, có trường lớp đào tạo cơ bản, có nơi chốn riêng để thực hành các nghi thức thờ phụng. Tôn giáo hoạt động trên lĩnh vực tâm linh, lấy đức tin làm chính. Đối tượng thờ tự của mỗi tôn giáo đều khác biệt nhau.

phong tục cúng tổ tiên. Tuy nhiên, nhiều gia đình trẻ, do đặc thù cơng việc, họ đã dần mai một cũng như là biến cách rất nhiều trong phong tục này.

Việc thực hành thờ cúng tổ tiên mang nhiều niềm tin, sự ngưỡng vọng và mong muốn những điều tốt đẹp nhất sẽ đến với những người đang sống.

</div>

×