HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA CÔNG NGHỆ SINH HỌC
------- -------
BÀI THI KẾT THÚC HỌC PHẦN
SH03006 - CÔNG NGHỆ TẾ BÀO ĐỘNG VẬT
ĐỀ TÀI:
Họ tên sinh viên
: Đinh Thị Hiên
Mã sinh viên
: 620576
Lớp
: K62CNSHC
Khoa
: Công nghệ sinh học
HÀ NỘI – 04/03/2021
MỤC LỤC
1. Giới thiệu công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm ở người ................................... 1
1.1. Lịch sử của công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm ở người.......................... 1
1.2. Ý nghĩa của công nghệ thụ tinh ống nghiệm ở người ................................... 6
1.3. Những trường hợp được y khoa chỉ định sử dụng công nghệ thụ tinh
trong ống nghiệm ở người....................................................................................... 7
1.4. Phân biệt thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm ở người ........... 8
2. Yêu cầu chung về cơ sở vật chất, trang thiết bị để thụ tinh trong ống nghiệm ở
người ............................................................................................................................. 9
2.1 Điều kiện về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện IVF ở người ....... 9
2.2. Điều kiện về cơ sở vật chất .............................................................................. 9
2.3. Điều kiện về trang thiết bị y tế ...................................................................... 10
3. Các kỹ thuật chính thụ tinh trong ống nghiệm ở người .................................... 10
3.1. Kỹ thuật IVF cổ điển ...................................................................................... 10
3.2. Kỹ thuật vi thụ tinh (Microinsemination) .................................................... 12
3.3. Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm ........................................................... 15
3.3. Hỗ trợ phơi thốt màng ................................................................................. 17
3.4. Tỷ lệ thành cơng của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm ở người .. 17
3.5. Những vấn đề hạn chế thường gặp khi tiến hành thụ tinh trong ống
nghiệm ở người ...................................................................................................... 18
4. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người trên thế giới và tại Việt Nam ..... 18
4.1. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người trên thế giới .......................... 18
4.2. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người tại Đông Nam Á và Việt Nam
................................................................................................................................. 20
4.3. Chi phí thực hiện của các quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam ................ 21
5. Kết luận ................................................................................................................... 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 22
1. Giới thiệu công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm ở người
1.1. Lịch sử của công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm ở người
Thụ tinh trong ống nghiệm (In Vitro Fertilization - IVF) là một phương pháp
thụ tinh theo đó trứng được thụ tinh bằng tinh trùng bên ngoài cơ thể (trong
hộp lồng, Petri, ống nghiệm tạo thành phôi). Các điều kiện cho quá trình IVF
giống như trong cơ thể người mẹ. Sau một thời gian ni cấy bên ngồi
(thường 2-5 ngày), phôi sẽ được đưa trở lại buồng tử cung của người mẹ. Đây
là một phương pháp được áp dụng sau khi kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thất bại,
được áp dụng cho những được dành cho những cặp vợ chồng hay những người
phụ nữ đang ở độ tuổi sinh sản, vì bất kỳ lý do nào đó, tinh trùng không thể thụ
tinh cho trứng bằng phương pháp tự nhiên.
Các nghiên cứu thụ tinh trong ống nghiệm đã có lịch sử hơn một thế kỷ và đạt
được những thành tựu to lớn, mang lại hạnh phúc cho hàng triệu gia đình trên
khắp thế giới.
Lịch sử của Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) và chuyển phôi (Embryo
Transfer - ET) bắt đầu từ những năm 1890 khi Walter Heape, giáo sư và bác sĩ
tại Đại học Cambridge, Anh, người đã tiến hành nghiên cứu về sinh sản ở một
số loài động vật, đã báo cáo trường hợp cấy phôi thai đầu tiên được biết đến ở
thỏ, rất lâu trước khi các ứng dụng vào khả năng sinh sản của con người thậm
chí cịn được đề xuất. Nghiên cứu này mở ra một hướng đi mới trong việc ứng
dụng nghiên cứu thụ tinh trong ống nghiệm ở người trong thế kỷ XX tới hiện
nay.
Năm 1934 Pincus và Enzmann, thuộc Phịng thí nghiệm Sinh lý học tổng hợp
tại Đại học Harvard, công bố một báo cáo trong Kỷ yếu của Viện Hàn lâm
Khoa học Mỹ về việc nâng cao khả năng trứng động vật có vú có thể trải qua
sự phát triển bình thường trong ống nghiệm. Mười bốn năm sau, vào năm
1948, Miriam Menken và John Rock lấy hơn 800 tế bào trứng từ những phụ nữ
ở các điều kiện khác nhau, lọc lấy 138 tế bào trứng cho tiếp xúc với tinh trùng
trong ống nghiệm. Họ đã công bố kinh nghiệm của mình trên Tạp chí Sản khoa
và Phụ khoa Mỹ.
Tuy nhiên, phải đến năm 1959, bằng chứng không thể chối cãi của thụ tinh ống
nghiệm mới thu được bởi MC Chang (Chang MC, Thụ tinh buồng trứng thỏ
trong ống nghiệm. Nature, 1959 8: 184 (suul 7) 466), người đầu tiên đạt được
thành công trong sinh sản ở động vật có vú (thỏ) bằng cách thụ tinh ống
nghiệm. Những quả trứng mới rụng đã được thụ tinh trong ống nghiệm bằng
cách ủ với tinh trùng trong bình Carrel nhỏ trong 4 giờ, mở ra phương thức để
hỗ trợ sinh sản trên người.
1
Năm 1961, Palmer từ Pháp mô tả đầu tiên việc thu hồi tế bào trứng bằng phẫu
thuật nội soi.
Năm 1965, Robert Edwards cùng với Georgeanna và Howard Jones tại Bệnh
viện Johns Hopkins, Hoa Kỳ đã cố gắng thụ tinh trong tế bào trứng của người
trong ống nghiệm (Edwards RG, Donahue RP, Baramki TA, Jones HW Jr.
Những nỗ lực ban đầu để thụ tinh cho tế bào trứng của người trưởng thành
trong ống nghiệm. Tạp chí Am J Obstet Gynecol. 1966; 15; 96: 192-200).
Năm 1973, lần mang thai IVF đầu tiên được báo cáo bởi nhóm nghiên cứu
Monash gồm các Giáo sư Carl Wood và John Leeton ở Melbourne, Australia.
Thật không may, điều này dẫn đến sẩy thai sớm (dDe Kretzer D, Dennis P,
Hudson B, Leeton J, Lopata A, Outch K, Talbot J, Wood C. Chuyển hợp tử
người. Lancet, 1973 29; 2: 728-9).
Năm 1976, Y. Menezo đã phát triển môi trường nuôi cấy B2 đầu tiên trên thế
giới, được gọi là “môi trường Pháp”. Môi trường cụ thể này phản ánh môi
trường nang trứng, ống dẫn trứng và tử cung của cừu, thỏ và người. Cũng trong
năm này, Steptoe và Edwards đã xuất bản một báo cáo về trường hợp mang
thai ngồi tử cung sau khi chuyển phơi người ở giai đoạn phôi dâu muộn/phôi
nang sớm. (Steptoe PC, Edwards RG. Việc cấy lại phơi thai người với q
trình mang thai trong ống dẫn trứng sau đó. Lancet, 1976; 24: 1: 880-2).
Năm 1978, đứa trẻ đầu tiên (Louise Brown) ra đời ra bằng phương pháp thụ
tinh ống nghiệm ở Oldham, Anh vào ngày 25 tháng 7, năm 1978. Thành công
này là kết quả của sự hợp tác giữa Patrick Steptoe và Robert Edwards.
Hình 1.1. Hình ảnh Louise Brown là em bé đầu tiên chào đời bằng phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm. (Nguồn: Internet.)
2
Năm 1979, Pez và đồng sự bắt đầu theo dõi sự phát triển của nang trên siêu
âm. Họ đã cho thấy một mối quan hệ đáng kể giữa các quan sát bằng siêu âm
và nội soi. Việc sử dụng siêu âm được công bố đầu tiên để xác định các nang
đang phát triển.
Năm 1980 đánh dấu sử ra đời của mơi trường ni cấy.
Năm 1981, nhóm Clamart ở Pháp đã phát triển một xét nghiệm LH có thể phát
hiện sự gia tăng LH ban đầu trong huyết tương cho phép dự đốn chính xác
thời gian lý tưởng cho việc thu hồi các tế bào trứng.
Năm 1983, cột mốc đánh dấu ca cho – nhận trứng đầu tiên. Nhóm Monash đạt
được thành công trong thụ tinh ống nghiệm ở một phụ nữ khơng có buồng
trứng bằng cách sử dụng trứng của người cho trứng, tạo ra các chu kỳ kinh
nguyệt nhân tạo và một cơng thức kích thích tố đặc biệt trong 10 tuần đầu của
thai kỳ. Nhóm này cũng báo cáo về sự ra đời em bé đầu tiên từ phơi thai đơng
lạnh. Trong năm đó, Gleicher và nhóm của ông đã báo cáo việc thu trứng qua
đường âm đạo lần đầu tiên, sử dụng siêu âm bụng.
Năm 1984, Chính phủ Victoria đã thiết lập một cuộc đánh giá nghiên cứu và
thực hành IVF, dẫn đến việc công bố Đạo luật Vô sinh (Thủ tục Y tế) năm
1984, đạo luật đầu tiên điều chỉnh IVF và nghiên cứu phôi thai người liên
quan.
Em bé chuyển phôi mang thai hộ đầu tiên được sinh ra ở California.
Cặp sinh tư IVF đầu tiên trên thế giới được sinh ra vào ngày 6 tháng 1 năm
1984, tại Melbourne.
Năm 1985, mang thai em bé đầu tiên bằng cách thụ tinh ống nghiệm sử dụng
tinh trùng hút từ mào tinh. Báo cáo đầu tiên về việc sử dụng siêu âm bụng cho
việc cấy phôi.
Năm 1986 IVF Monash báo cáo sự mang thai và ra đời của em bé đầu tiên từ
các hoạt động phục hồi tinh trùng thực hiện trên một bệnh nhân tắc ống dẫn
tinh.
Năm 1987, thụ tinh tế bào trứng của con người bằng vi tiêm một tinh trùng duy
nhất dưới màng trong suốt.
Năm 1989, báo cáo đầu tiên về việc sử dụng kỹ thuật laser trong lĩnh vực hỗ
trợ sinh sản, áp dụng với giao tử hoặc phôi. Gonen và các đồng nghiệp ở
Toronto đi tiên phong trong việc sử dụng siêu âm chất lượng nội mạc tử cung
liên quan đến mang thai thụ tinh ống nghiệm.
3
Năm 1990, Gonen, Jacobson và Casper đi tiên phong trong việc sử dụng thuốc
tránh thai để đồng bộ hóa nang và lập kế hoạch chu kỳ thụ tinh ống nghiệm.
Năm 1991, trưởng thành trong ống nghiệm (IVM) trong một chu kỳ khơng
kích thích dẫn đến mang thai với bệnh nhân cho – nhận trứng.
Năm 1992, báo cáo thai kỳ đầu tiên sau khi tiêm tinh trùng vào bào tương
(ICSI) của nhóm tại Brussel.
Năm 1993, báo cáo đầu tiên về việc sử dụng tese (chiết xuất tinh trùng từ tinh
hoàn) và ICSI.
Năm 1995, ca sinh nở đầu tiên sau khi phát triển phôi nang từ trứng IVM được
ICSI, cộng với hỗ trợ phơi thốt màng (Assisted Hatching).
Năm 1996, nhóm Valencia báo cáo về ca mang thai đầu tiên sử dụng tinh trùng
của tinh hoàn trữ lạnh sau IVF-ICSI.
Năm 1997, em bé đầu tiên sinh ra từ tế bào trứng đông lạnh sau khi ICSI.
Năm 1998, lần đầu tiên thiết lập mang thai sử dụng FSH tái tổ hợp và GnRH
đối kháng. Báo cáo đầu tiên về ca sinh nở từ trứng GV đông lạnh và trứng cho.
Năm 2000, em bé đầu tiên sinh ra từ tế bào trứng và tinh trùng đông lạnh.
Năm 2001, sự ra đời của một trẻ sơ sinh từ phôi trữ lạnh từ tế bào trứng IVM
của bệnh nhân khơng kích thích trứng, PCOS.
Năm 2002, em bé đầu tiên ra đời, áp dụng kỹ thuật sinh thiết phơi nang và
phân tích PGD (chẩn đốn di truyền tiền cấy phơi - một kỹ thuật có khả năng
phát hiện các bất thường về nhiễm sắc thể và gen).
Năm 2004, báo cáo đầu tiên về bảo tồn khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung
thư sử dụng IVM và tế bào trứng đông lạnh nhanh.
Năm 2007, sự ra đời cặp song sinh đầu tiên từ tế bào trứng đông lạnh của bệnh
nhân ung thư.
Năm 2008, người mẹ IVF già nhất trên thế giới Rajo Devi Lohan đã 69 tuổi
vào thời điểm cô đã sinh ra một bé gái, Naveen, sau khi thụ tinh trong ống
nghiệm ở Ấn Độ.
Năm 2009, giáo sư Laufer tại Trung tâm Y tế Hadassah ở Jerusalem đã thành
cơng khi giúp một phụ nữ có gen BRCA2 bị lỗi mang thai sau khi phôi thụ tinh
trong ống nghiệm được thử nghiệm và cấy ghép.
Năm 2010, Robert G. Edwards, bác sĩ phát triển phương pháp này, đã được
trao Giải Nobel Sinh lý và Y khoa.
4
Năm 2018, dựa trên bộ sưu tập dữ liệu IVF tồn cầu của Ủy ban Quốc tế về
Giám sát Cơng nghệ Hỗ trợ Sinh sản (ICMART) ước tính rằng kể từ khi
Louise Brown's sinh năm 1978, hơn 8 triệu trẻ sơ sinh đã được sinh ra từ thụ
tinh ống nghiệm trên khắp thế giới. (Nguồn: />Tại Việt Nam, việc nghiên cữu thụ tinh trong ống nghiệm ở người diễn ra từ
những năm 90 của thế kỷ 20 và cũng có những thành tựu đáng kể.
Năm 1995: Thực hiện thành công trữ lạnh tinh trùng người. Thực hiện thành
công IUI với tinh trùng lọc rửa.
Năm 1997: Ngày 19/8/1997, hơn 30 phụ nữ vô sinh đầu tiên tại Việt Nam đã
được chuyển phôi làm thụ tinh trong ống nghiệm.
Năm 1998: Ngày 30/4/1998, tại Bệnh viện Từ Dũ, ba đứa trẻ đầu tiên được
sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm.
Hình 1.2: Bé gái đầu tiên chào đời bằng phương pháp thụ tinh trong ống
nghiệm năm 1998 (Nguồn ảnh của BV Từ Dũ).
5
Hình 1.3: Hình ảnh Phạm Tường Lan Thy, Mai Quốc Bảo, Lưu Tuyết Trân (từ trái
qua) ba bé đầu tiên ra đời bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm kỷ niệm 1
năm ngày sinh 30-4 – 1998. Nguồn: Internet.
Năm 1999: Em bé ICSI đầu tiên ra đời.
Năm 2000: Em bé TTTON-cho trứng đầu tiên ra đời.
Năm 2001: Em bé mang thai hộ đầu tiên ra đời (hiện nay cấm thực hiện).
Trường hợp sinh đầu tiên ra đời sau kỹ thuật giảm thai.
Năm 2002: Em bé đầu tiên từ ICSI với tinh trùng hút từ mào tinh
(MESA/PESA).
Năm 2003: Em bé đầu tiên ra đời từ phôi người đông lạnh ra đời.
Năm 2004: Em bé đầu tiên từ ICSI với tinh trùng lấy từ tinh hoàn.
(TESA/TESE)Em bé đầu tiên từ cả trứng và tinh trùng và người đơng lạnh.
Năm 2018: Có khoảng 40.000 đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh
trong ống nghiệm tại Việt Nam.
1.2. Ý nghĩa của công nghệ thụ tinh ống nghiệm ở người
Sự ra đời của công nghệ thụ tinh trong ống nghiệm ở người đã đánh dấu một
bước đột phá đặc biệt trong ngành cơng nghệ sinh học nói chung và ngành
cơng nghệ y sinh nói riêng. Kỹ thuật y khoa phức tạp này được sử dụng để điều
trị các trường hợp vô sinh, hiếm muộn hoặc các vấn đề di truyền liên quan đến
giới tính. Hiện nay, đây là phương pháp y khoa mang lại hiệu quả cao nhất của
công nghệ hỗ trợ sinh sản. Đây được xem là biện pháp cứu cánh cuối cùng
6
dành cho các cặp vợ chồng vô sinh, hiếm muộn sau khi các phương pháp hỗ
trợ sinh sản khác như dùng thuốc hay thụ tinh nhân tạo không thành công.
IVF ra đời mang đến niềm hy vọng làm cha mẹ cho các cặp đôi vô sinh không
rõ nguyên nhân hoặc gặp những vấn đề nghiêm trọng ở cơ quan sinh sản trên
toàn thế giới. Bên cạnh ý nghĩa khoa học, IVF mang lại tính nhân văn rất lớn
khi đem lại hạnh phúc cho hàng triệu gia đình trên khắp thế giới.
1.3. Những trường hợp được y khoa chỉ định sử dụng công nghệ thụ tinh trong
ống nghiệm ở người
Không phải trường hợp hiếm muộn nào cũng có thể thực hiện thụ tinh trong
ống nghiệm. Phương pháp này chỉ khả thi đối với các cặp vợ chồng có ngun
nhân gây vơ sinh khơng làm mất đi hồn tồn khả năng thụ tinh của trứng và
tinh trùng.
Những nguyên nhân đó có thể bao gồm:
• Ống dẫn trứng bị tổn thương hoặc bị tắc nghẽn: Tình trạng tắc ống
dẫn trứng hoặc vịi trứng bị tổn thương có thể khiến trứng khó thụ tinh
hoặc phôi thai không thể di chuyển về tử cung và làm tổ ở tử cung.
• Rối loạn phóng nỗn (rối loạn rụng trứng): Việc rụng trứng xảy ra
không thường xuyên khiến q trình thụ thai khó có thể diễn ra.
• Suy chức năng buồng trứng sớm: Là tình trạng mất chức năng buồng
trứng diễn ra trước tuổi 40. Suy buồng trứng sớm khiến buồng trứng
không tạo ra lượng estrogen cần thiết hoặc trứng khơng rụng thường
xun.
• Lạc nội mạc tử cung: Lạc nội mạc tử cung xảy ra khi nội mạc tử cung
nằm bên ngoài tử cung, gây ảnh hưởng đến chức năng của buồng trứng,
tử cung, ống dẫn trứng và khả năng thụ thai.
• U xơ tử cung: Xơ là những khối u lành tính trong thành tử cung và
thường gặp ở phụ nữ ở độ tuổi 30 – 40, khiến việc thụ thai tự nhiên trở
nên khó khăn. Những phụ nữ bị u xơ tử cung có thể mang thai bằng cách
thụ tinh trong ống nghiệm.
• Đã thắt ống dẫn trứng: Nếu bạn đã thực hiện thủ thuật triệt sản này,
song lại muốn mang thai và sinh con thì IVF là phương pháp hỗ trợ sinh
sản hữu ích.
• Lượng tinh trùng thấp hoặc tinh trùng yếu: Nồng độ tinh trùng của
người chồng dưới mức trung bình, tinh trùng chuyển động yếu hoặc có
7
bất thường về kích thước và hình dạng… sẽ khó có thể thụ tinh cho
trứng. Do đó, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện thụ tinh nhân tạo hoặc
IVF.
• Vơ sinh nam: Tinh trùng ít, yếu, xuất tinh ngược hoặc không xuất tinh.
Không tinh trùng trong tinh dịch (lấy tinh trùng bằng phẫu thuật mào
tinh, tinh hoàn). Đứt niệu đạo sau do di chứng vỡ xương chậu.
• Vơ sinh không biết nguyên nhân hoặc bơm tinh trùng vào buồng tử
cung nhiều lần nhưng thất bại.
• Rối loạn di truyền liên quan đến giới tính: Nếu vợ hoặc chồng được
chẩn đốn là mắc một rối loạn di truyền có nguy cơ truyền sang con, bác
sĩ có thể chỉ định làm IVF. Mục đích của IVF trong trường hợp này là
nhằm sàng lọc những phôi thai khỏe mạnh để cấy vào tử cung người vợ.
• Bảo vệ khả năng sinh sản cho bệnh nhân ung thư hoặc mắc các bệnh
liên quan nghiêm trọng đến sức khỏe: Nếu người phụ nữ sắp tiến hành
xạ trị hay hóa trị để điều trị bệnh ung thư hoặc bị bệnh tim thì bác sĩ có
thể đề nghị làm IVF nhằm bảo vệ khả năng sinh sản. Trong trường hợp
này, trứng sẽ được lấy và trữ đơng, hoặc trứng cũng có thể thụ tinh và
phơi được làm đơng lạnh để sử dụng sau.
• Ngồi ra, với những phụ nữ mắc các bệnh nghiêm trọng không thể mang
thai hoặc có bất thường ở tử cung khiến khó thụ thai cũng có thể chọn
thụ tinh ống nghiệm và nhờ người mang thai hộ. Trong trường hợp này,
trứng của người phụ nữ được thụ tinh với tinh trùng, phôi thai sẽ được
cấy vào tử cung của người mang thai hộ.
1.4. Phân biệt thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm ở người
Thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm đều là những phương pháp hỗ
trợ sinh sản được áp dụng trong điều trị vô sinh hiếm muộn, tuy nhiên, vẫn có
nhiều người nhầm lẫn giữa hai phương pháp này hoặc cho rằng hai phương
pháp này là một. Hai phương pháp này khác nhau về phương pháp thực hiện.
Thụ tinh nhân tạo
Là phương pháp bơm tinh trùng
vào buồng tử cung.
Thụ tinh trong ống nghiệm
Quá trình thụ tinh của trứng và tinh trùng
được xảy ra hoàn toàn bên ngoài cơ thể con
người, chỉ sau khi đã tạo thành hợp tử (phơi
thai) có từ 4 – 8 tế bào mới được đưa vào
buồng tử cung của nữ giới.
8
Tinh trùng được lọc rửa, lựa chọn
ra những tinh trùng khỏe mạnh
nhất để bơm trực tiếp vào buồng tử
cung của nữ giới.
Lựa chọn những tinh trùng khỏe mạnh nhất,
hút noãn từ buồng trứng của nữ giới để nuôi
trong ống nghiệm với những điều kiện thích
hợp nhất để q trình thụ tinh xảy ra.
Q trình thụ tinh tạo thành phơi
thai diễn ra trong cơ thể nữ giới,
phôi được tạo thành sẽ di chuyển
xuống buồng tử cung để làm tổ.
Quá trình thụ tinh xảy ra hoàn toàn trong
ống nghiệm – bên ngoài cơ thể con người,
sau khi tạo thành phôi mới cấy vào buồng tử
cung.
Điều kiện để có thể áp dụng
phương pháp này đó là tinh trùng
của nam giới vẫn trong giới hạn có
thể thực hiện, nữ giới có buồng tử
cung, buồng trứng và ít nhất một
vịi trứng hoạt động bình thường.
Phương pháp này được áp dụng cho mọi đối
tượng vô sinh khi tinh trùng đáp ứng yêu
cầu trong giới hạn cho phép, nữ giới có
buồng trứng và tử cung hoạt động bình
thường. Những trường hợp vơ sinh do tắc
nghẽn vịi trứng vẫn có thể áp dụng.
2. Yêu cầu chung về cơ sở vật chất, trang thiết bị để thụ tinh trong ống nghiệm ở
người
2.1 Điều kiện về cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện IVF ở người
Cơ sở thực hiện kỹ thuật này phải thuộc một trong các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh sau đây:
- Cơ sở phụ sản, sản – nhi của Nhà nước từ tuyến tỉnh trở lên;
- Bệnh viện đa khoa tư nhân có khoa sản, khoa sản – nhi;
- Bệnh viện chuyên khoa phụ sản, chuyên khoa sản – nhi tư nhân;
- Bệnh viện chuyên khoa nam học và hiếm muộn.
2.2. Điều kiện về cơ sở vật chất
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải đáp ứng các điều kiện về cơ sở vật chất như
sau:
- Có phịng hồi sức cấp cứu;
- Có xét nghiệm nội tiết sinh sản;
- Có đơn nguyên riêng cho việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
gồm các phòng: Chọc hút nỗn; lấy tinh trùng; lab ni cấy; xét nghiệm và lọc
rửa tinh trùng đáp ứng các tiêu chuẩn theo khuyến cáo của Tổ chức Y tế thế
giới.
9
2.3. Điều kiện về trang thiết bị y tế
Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh phải có tối thiểu các trang thiết bị y tế sau:
- 02 tủ cấy CO2;
- 02 tủ ấm;
- 01 bình trữ tinh trùng;
- 01 máy ly tâm;
- 01 bình trữ phơi đơng lạnh;
- 01 máy siêu âm có đầu dị âm đạo;
- 01 kính hiển vi đảo ngược;
- 02 kính hiển vi soi nổi;
- 01 bộ tủ thao tác.
3. Các kỹ thuật chính thụ tinh trong ống nghiệm ở người
- Hiện nay có hai kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm chính là: IVF cổ điển và vi thụ
tinh (Microinsemination).
3.1. Kỹ thuật IVF cổ điển
* Giới thiệu:
- IVF là quá trình kết hợp giữa tinh trùng với trứng để tạo hợp tử bên ngoài cơ
thể mẹ (trong hộp lồng, Petri, ống nghiệm).
- IVF thành công trên chuột đồng (1963), chuột trắng (1968), người (1969) sau
đó IVF được hồn chỉnh dần trong thu nhận tinh và ni trứng chín.
- Với kỹ thuật IVF cổ điển, trứng được trộn lẫn với hàng ngàn tinh trùng trong
một đĩa đặc biệt, sau đó đặt trong một tủ cấy mơ phỏng các điều kiện tự nhiên.
- Quá trình thụ tinh diễn ra trong điều kiện phịng thí nghiệm và sau khi đảm
bảo thụ tinh, các phôi thai được đưa vào tử cung của người phụ nữ bằng một
ống chuyển phôi đặc biệt qua cổ tử cung.
- Trong kỹ thuật này, trứng và tinh trùng gặp nhau, hòa nhập một cách “tự
nhiên” để hình thành phơi.
* Vật liệu:
Giao tử:
- Trứng dùng cho IVF ở 3 dạng: trứng non, trưởng thành và hậu tưởng thành.
10
- Trứng thường thụ tinh với nồng độ 100.000 tinh trùng bình thường/ml => tỷ
lệ thụ tinh sẽ giảm nếu tăng nồng độ tinh trùng quá cao.
* Môi trường thụ tinh:
- Mơi trường cho tinh trùng thuộc 3 nhóm: muối, cơ chất năng lượng và
protein, Ca ++, bicarbonate, tỷ lệ Na +/K +, pH= 7,4.
- Phôi phát triển kém ở môi trường acid.
- Khi thực hiện IVF cần phủ lên bề mặt mơi trường 1 lớp dầu khống.
* Thời gian thụ tinh:
- Ở người: trứng sẽ được thụ tinh trong vài giờ.
- Thông thường, một ca thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) sẽ mất khoảng thời
gian tối thiểu là 1 tháng.
* Các hệ thống thụ tinh trong ống nghiệm:
- Thụ tinh trong ống nghiệm 5ml.
Hình 3.1. Ống nghiệm 5ml(Nguồn ảnh: internet)
- Thụ tinh trong đĩa 1 hay 4 giếng.
11
Hình 3.2. Đĩa 4 giếng. (Nguồn ảnh: internet)
- Thụ tinh trong ống mao quản và cọng rạ.
Hình 3.3. Cọng rạ. (Nguồn ảnh: internet)
- Thụ tinh vi giọt.
3.2. Kỹ thuật vi thụ tinh (Microinsemination)
* Giới thiệu:
- Là phương pháp vi tiêm tinh trùng vào trứng thơng qua nhiều hình thức.
* Thiết bị và dụng cụ đặc thù:
- Kính hiển vi đảo ngược vi thao tác.
- Các dụng cụ vi tiêm chuyên biệt:
• Pipette cố định trứng (holding pipette).
• Pipette chọc và tiêm tinh trùng (injectionpipette).
* Các kỹ thuật vi thụ tinh cơ bản: Bao gồm 6 kỹ thuật:
- (1) Khoan màng zona (ZD - Zona Drilling):
• Gordon và Talansky (1986), thực hiện khoan thủng 1 lỗ nhỏ trên màng
trong suốt => tinh trùng dễ chui vào trong trứng.
• Ngay sau khi lỗ được tạo ra, tiến hành rửa trứng vài lần bằng mơi trường
ni cấy mới để trung hịa pH.
• Lấy trứng này thụ tinh in vitro.
- (2) Tách bỏ một phần màng trong suốt (PZD - Partial Zona Dissection):
• Tránh việc sử dụng hệ đệm acid, Malter và Cohen (1990) đã tạo ra
phương pháp phẫu tích từng phần màng trong suốt gọi là PZD.
12
- (3) Tiêm tinh trùng vào dưới màng trong suốt (SUZI - Surzonal sperm
injection):
• Dùng 1 ống hút nhỏ đưa thẳng tinh trùng xuyên qua màng trong suốt vào
khoảng không quanh nỗn tương.
• Các thử nghiệm đầu tiên thường tiêm chỉ 1 tinh trùng, kết quả khơng khả
quan. Sau đó, khi tiêm từ 2 tới 10 tinh trùng, kết quả thụ tinh tăng lên
nhưng kèo theo nguy cơ đa thụ tinh cũng tăng.
- (4) Bơm tinh trùng vào bào tương trứng (ICSI - Intracytoplasmic sperm
injection):
• Tinh trùng có hình thái bình thường được làm bất động và hút vào kim.
• Kim được chọc qua vùng trong suốt của màng noãn, vào sâu trong bào
tương ở vị trí đã được loại bỏ hoàn toàn thể cực thứ nhất, ống hút được
kéo ra nhanh khi để tinh trùng ở lại vị trí đó.
• Chuẩn bị giao tử và các thao thác thực hiện:
13
+ Kích thích buồng trứng để tăng tối đa số nang noãn phát triển trong
phác đồ điều trị.
+ Trứng được thu nhận vào môi trường nuôi cấy (IVF-20) trong tủ ấm
CO2. Sau đó, đưa trứng vào mơi trường Gamete -20 chứa
menhyaluronidase (80IU/ml) để tách các lớp tế bào xung quanh nang
bằng pasteur pipette dưới kính sơi nổi.
+ Thu nhận tinh dịch, tiến hành lọc ,rửa tinh trùng.
+ Trứng tốt được thu nhận, sau đó đưa vào các giọt mơi trường trên đĩa
cấy.
+ Tinh trùng cũng được cho vào giọt PVP 10% trên đĩa cấy. Tất cả các
giọt môi trường được phủ 1 lớp dầu (Ovoil-15), sau đó đặt đĩa cấy vào
kính hiển vi đảo ngược với nhiệt độ 37 độ C, với độ phóng đại 200 lần.
+ Trong quy trình ICSI ,thường có 1 thể tích nhỏ thủy ngân (0.5l) được
hút vào trong đầu injection pipette và 1 ít dầu khoáng vào bên trong .
- (5) Kỹ thuật ICSI được hỗ trợ bởi áp điện (Piezo-ICSI):
• Nguyên lý của Piezo-ICSI là dụng cụ vi thao tác có áp điện để tạo lỗ
xuyên màng zona và noãn tương nhằm đưa tinh trùng vào trong trứng.
• Trứng được định vị sao cho phần nhân quay về hướng 6 giờ. Đưa đầu
pipette tiêm đến tiếp xúc với màng zona ở vị trí ba giờ ,cùng lúc 1 vài
xung điện piezo được tạo ra giúp cho việc xuyên màng dễ dàng.
• Khi đầu của pipette xuyên vào trong, một mảnh nhỏ của màng zona có
thể tống vào theo. Đầu của pipette nhẹ nhàng xuyên sâu vào bào tương,
tinh trùng được đẩy nhanh ra khỏi ống khi đầu của nó nằm gần đầu của
pipette.
• Ở vị trí 3 giờ, đầu pipette chỉ làm cho màng nỗn căng, thủng mà khơng
vỡ.
14
- (6) ROSI (Round spermatid injection):
• ROSI là kỹ thuật ICSI, nhưng sử dụng các tinh trùng khơng đi, hình
trịn, là những tế bào hình thành trong quá trình sinh tinh (1n).
• ROSI được ứng dụng cho đơng khơ tinh trùng, liệu pháp gen, chuyển
gen vào kỳ metaphase II và nghiên cứu sự hoạt hóa trứng của tinh trùng.
3.3. Quy trình thụ tinh trong ống nghiệm
Quy trình này trải qua 5 bước gồm:
Bước 1: Kích thích trứng (hay cịn gọi là kích trứng)
• Người vợ sẽ được tiêm thuốc kích thích buồng trứng liên tục mỗi ngày,
thường trong khoảng thời gian 10-12 ngày. Trong thời gian tiêm thuốc,
người vợ sẽ được hẹn để siêu âm và xét nghiệm máu để theo dõi sự phát
triển của nang noãn.
15
• Khi nang nỗn đạt kích thước theo u cầu, người vợ sẽ được tiêm mũi
thuốc cuối cùng để kích thích trứng trưởng thành (cịn gọi là mũi kích
rụng trứng). Mũi thuốc này sẽ cần phải tiêm đúng giờ.
Bước 2: Chọc hút trứng
• Khi trứng đạt yêu cầu, việc chọc hút trứng được tiến hành qua đường
âm đạo vào khoảng 36 giờ sau mũi tiêm thuốc cuối cùng. Thời gian
chọc hút trứng chỉ từ 10-15 phút cho mỗi ca. Cùng lúc, người chồng
lấy tinh trùng để chuẩn bị cấy phôi hoặc được thông báo lấy mẫu tinh
trùng đông lạnh (nếu đã được trữ đơng trước đó).
• Sau khi chọc hút trứng, người vợ sẽ nằm theo dõi tình trạng sức khỏe
tại bệnh viện 2-3 giờ.
Bước 3: Tạo phơi
• Trứng và tinh trùng sẽ được chuyển đến phòng labo để thụ tinh và tạo
phơi. Phơi sẽ được ni cấy bên ngồi 2-5 ngày.
• Trong thời gian này, người vợ sẽ được dùng thuốc đường uống và đặt
âm đạo để chuẩn bị cho q trình chuyển phơi.
• Nếu được chuyển phơi ngay sau khi tạo phơi thì gọi là chuyển phơi
tươi.
• Trong trường hợp người vợ không đủ điều kiện sức khỏe để được
chuyển phơi tươi, tồn bộ số phơi đạt chất lượng sẽ được trữ đông và
người vợ sẽ được chuyển phơi trữ vào chu kỳ tiếp theo.
Bước 4: Chuyển phơi
• Khi niêm mạc tử cung đủ độ dày cần thiết và chất lượng tốt, tạo
thuận lợi cho sự làm tổ và phát triển của phôi sau khi đặt vào buồng
tử cung, bác sĩ sẽ tiến hành chuyển phơi.
• Trong trường hợp chuyển phôi trữ, người vợ sẽ được siêu âm và dùng
thuốc theo dõi niêm mạc từ ngày thứ 2 của chu kỳ kinh tiếp theo
trong vòng từ 14-18 ngày. Sau đó, bác sĩ sẽ chọn thời điểm phù hợp
để chuyển phơi trữ.
Bước 5: Thử thai
• Hai tuần sau, người vợ sẽ thưc hiện xét nghiệm βeta HCG để xác
định kết quả thụ thai. Nếu nồng độ βeta HCG ở mức > 25 IU/l được
16
xác định là có thai, nồng độ này cao hay thấp cịn phụ thuộc vào mỗi
người.
• Trong trường hợp chưa có thai nhưng cịn phơi trữ, người vợ sẽ tiếp
tục dùng phôi trữ để chuyển vào tử cung ở các chu kỳ tiếp theo mà
không cần phải thực hiện lại các bước kích thích trứng, chọc hút
trứng.
3.3. Hỗ trợ phơi thoát màng
- Sau khi trứng và tinh trùng thụ tinh với kỹ thuật IVF hoặc ICSI, phôi được
chuyển vào buồng tử cung để làm tổ và phát triển thành thai.
- Bao bên ngồi phơi là màng trong suốt. Trong một số trường hợp, lớp màng
này bị cứng chắc bất thường hoặc khơng mỏng đi trong q trình phơi phát
triển. Khiến phơi khơng thể thốt ra và bám vào nội mạc tử cung để làm tổ.
- Kỹ thuật làm mỏng hoặc làm thủng màng trong suốt bên ngồi phơi đã ra đời,
phơi dễ thốt ra và làm tổ. Kỹ thuật này được gọi là kỹ thuật thốt phơi màng,
giúp cải thiện tỉ lệ thành công khi làm thụ tinh trong ống nghiệm (10-15%).
Phơi thốt ra khỏi màng trong suốt để làm tổ. Nguồn: Internet.
3.4. Tỷ lệ thành công của phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm ở người
Tỷ lệ thành công của phương pháp này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như nguyên
nhân vô sinh, tuổi tác của người vợ, quá trình điều trị trước đó, chun mơn
của bác sĩ thực hiện và chất lượng của bệnh viện…Theo số liệu thống kê ở Mỹ,
tỉ lệ phần trăm chu trình IVF cho kết quả sinh được ít nhất một em bé là
khoảng:
- 40% ở những phụ nữ dưới 34 tuổi.
- 31% ở những phụ nữ trong độ tuổi từ 35 – 37.
17
- 21% ở những phụ nữ trong độ tuổi từ 38 – 40.
- 11% ở những phụ nữ trong độ tuổi từ 41 – 42.
- 5% ở những phụ nữ trên 42 tuổi.
3.5. Những vấn đề hạn chế thường gặp khi tiến hành thụ tinh trong ống nghiệm ở
người
Thụ tinh trong ống nghiệm, giống như hầu hết các thủ thuật y tế đều có một số
rủi ro và cũng mang một số hạn chế nhất định:
- Các loại thuốc nội tiết tố (FSH + hCG và hoặc Lupron) được sử dụng để kích
thích buồng trứng nhằm tạo ra số lượng trứng cao bất thường trong quá trình
thụ tinh ống nghiệm dẫn đến nguy cơ mắc Hội chứng quá kích buồng trứng
(OVHSS). OVHSS gây đau đớn và có thể gây buồn nơn, chóng mặt, nơn mửa,
và trong những trường hợp đặc biệt nghiêm trọng, phải nhập viện, suy nội tạng
hoặc tệ hơn.
- Nguy cơ thụ tinh ống nghiệm dẫn đến đa thai và sinh con có thể tăng từ 1 đến
30% khi chuyển nhiều phôi. Bội số dẫn đến nguy cơ cao hơn theo cấp số nhân
đối với một số bệnh nghiêm trọng như bại não, chảy máu nhiều trong khi sinh,
sinh non (và các vấn đề liên quan đến nhận thức) và tử vong ở trẻ sơ sinh. May
mắn thay, rủi ro này hầu như có thể được giảm bớt bằng cách chuyển từng phơi
một. Chuyển từng phơi một có thể làm giảm tỷ lệ chuyển phôi đầu tiên rất nhẹ,
nhưng không ảnh hưởng đến tỷ lệ sinh sống do chính chu kỳ IVF (bằng cách
sử dụng chuyển phơi đơng lạnh hình thành cùng một kích thích IVF).
- Có thể xảy ra về bất thường về giới tính.
- Tỉ lệ sẩy thai khỏang 16%. Tỉ lệ thai ngòai tử cung khỏang 5%.
- Nguy cơ trong lúc chọc hút trứng 0.1% do chảy máu từ điểm đâm kim trên
buồng trứng, tử cung và mạch máu …có thể tổn thương ruột, nội tạng gây xuất
huyết nội, v.v…
4. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người trên thế giới và tại Việt Nam
4.1. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người trên thế giới
Ngày 25/7/1978, Louise Brown – em bé đầu tiên trên thế giới được sinh ra
bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm tại anh. Sự kiện này đã đánh dấu
bước phát triển vượt bậc của y học thế giới.
Ca sinh thành công thứ hai của một em bé trong ống nghiệm xảy ra ở Ấn Độ
chỉ 67 ngày sau khi Louise Brown chào đời. Cô gái tên là Durga thụ thai trong
18
ống nghiệm bằng một phương pháp được phát triển độc lập bởi Tiến sĩ
Subhash Mukhopadhyay , một bác sĩ và nhà nghiên cứu từ Kolkata, Ấn Độ.
Tại Mỹ, tính sẵn có của IVF nói chung vào năm 2005 là 2,5 bác sĩ IVF trên
100.000 dân, và tỷ lệ sử dụng là 236 chu kỳ IVF trên 100.000. 126 thủ tục
được thực hiện trên một triệu người mỗi năm. Mức độ sử dụng tăng cao theo
tính sẵn có và bảo hiểm IVF, và ở một mức độ đáng kể cũng theo tỷ lệ người
độc thân và thu nhập trung bình. Ngày 28 tháng 12 ngày, năm 1981, Elizabeth
Jordan Carr được sinh ra qua mổ lấy thai là em bé thụ tinh ống nghiệm đầu tiên
của Mỹ.
Hàng năm Hiệp hội Sinh sản người và phôi học châu Âu (ESHRE) đều thống
kê kết quả các chương trình thụ tinh trong ống nghiệm trên toàn châu Âu. Theo
báo cáo của ESHRE năm 2010, tỷ lệ có thai trung bình sau làm thụ tinh trong
ống nghiệm ở châu Âu là 32-33%. Châu Âu hiện là khu vực mà thụ tinh trong
ống nghiệm phát triển nhất trên thế giới.
Bắt kịp kỹ thuật hiện đại của thế giới, chỉ 4 năm sau đó, ngày 04/11/1982 em
bé IVF đầu tiên của Séc chào đời khỏe mạnh tại Brno, nặng 3,65 kg và cao 51
cm. Tiếp đó, 2 năm sau khi em bé đầu tiên trên thế giới được sinh ra nhờ kỹ
thuật ICSI (intra-cytoplasmic sperm injection), năm 1994 em bé ICSI đầu tiên
của Séc cất tiếng khóc đời tại Trung tâm sinh sản Prague – trung tâm hỗ trợ
sinh sản hàng đầu của Cộng hòa Séc.
So với nhiều quốc gia khác, Cộng hòa Séc là điểm đến hàng đầu của nhiều
bệnh nhân hiếm muộn không chỉ ở châu Âu mà cịn từ các quốc gia khác trên
tồn thế giới. Theo số liệu của Hiệp hội Sinh sản và Phơi học Châu Âu
(ESHRE), có gần 30.000 chu kỳ điều trị hỗ trợ sinh sản được thực hiện hàng
năm tại Cộng hòa Séc, đưa đất nước này trở thành quốc gia thực hiện chu kỳ
điều trị/ đầu người cao nhất Châu Âu.
Israel có tỷ lệ thụ tinh ống nghiệm cao nhất trên thế giới, với 1657 thủ thuật
được thực hiện trên một triệu người mỗi năm. Các cặp vợ chồng khơng có con
có thể nhận được tài trợ cho IVF cho tối đa hai con. Nguồn tài trợ tương tự
cũng được cung cấp cho những phụ nữ khơng có con, những người sẽ nuôi tối
đa 2 con trong một ngôi nhà cha mẹ đơn thân . IVF có sẵn cho phụ nữ từ 18
đến 45 tuổi. Bộ Y tế Israel cho biết họ chi khoảng 3450 đô la cho mỗi thủ
thuật.
Mức độ thâm nhập của thị trường IVF ở Ấn Độ hiện nay khá thấp với chỉ
2.800 chu kỳ / triệu phụ nữ vô sinh trong độ tuổi sinh đẻ (20–44 tuổi) so với
Trung Quốc có 6.500 chu kỳ. Những thách thức chính là thiếu nhận thức, khả
năng chi trả và khả năng tiếp cận. Năm 2018, Ấn Độ trở thành điểm đến của
19
Du lịch Sinh sản vì chi phí điều trị IVF phải chăng nhất. Chi phí điều trị IVF ở
Ấn Độ dao động từ $ 2000 đến $ 4000 (khoảng từ 150000 /- INR đến 250000/INR bao gồm tất cả các khía cạnh của điều trị IVF bằng thuốc, thấp hơn gần 5
lần so với Chi phí IVF ở các nước phương Tây trên thế giới.
Đến năm 2012, Costa Rica là quốc gia duy nhất trên thế giới cấm hồn tồn
cơng nghệ thụ tinh ống nghiệm, nó đã bị Tịa án Tối cao của quốc gia này phán
quyết vi hiến vì nó "vi phạm cuộc sống".
4.2. Kết quả thụ tinh trong ống nghiệm ở người tại Đông Nam Á và Việt Nam
Tại các nước trong khu vực ASEAN, IVF lần lượt thành công ở Singapore,
Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines trong những năm 1980. Mãi đến
năm 1998, em bé IVF đầu tiên ở Việt Nam mới ra đời, sau thế giới 20 năm và
sau các nước trong khu vực từ 10 - 15 năm.
Thái Lan và Singapore là những nước đi đầu về dịch vụ IVF tại Đông Nam Á,
đang thu hút rất nhiều bệnh nhân nước ngoài sử dụng dịch vụ này nhờ du lịch y
tế phát triển.
Ở Thái Lan, phần lớn các trung tâm thụ tinh trong ống nghiệm có quy mơ lớn, kỹ
thuật tốt, có các bác sĩ kinh nghiệm… Khách nước ngồi đến điều trị thường là
nhóm khách hàng có thu nhập cao, có khả năng chi trả nhiều hơn.
Singapore thu hút nhiều người thuộc giới thu nhập cao từ các nước trong khu vực
và Trung Quốc đến để thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm. Ước tính có khoảng
50% trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm ở Singapore là người nước ngoài.
Trong những năm gần đây, theo kinh nghiệm phát triển của Singapore và Thái
Lan, dựa trên nền tảng du lịch và y tế phát triển, Malaysia cũng đầu tư nhiều
cho du lịch y tế.
Thụ tinh trong ống nghiệm ở Indonesia và Philippines ít phát triển hơn và chi phí
cũng khá cao.
Từ năm 2010, Việt Nam bắt đầu trở thành trung tâm đào tạo về thụ tinh trong
ống nghiệm của khu vực, mỗi năm có 20-30 chuyên viên các nước trong khu vực
đến Việt Nam để tìm hiểu và học tập. Từ năm 2017 trở đi, số ca thụ tinh trong
ống nghiệm thực hiện mỗi năm ở Việt Nam đã cao nhất khu vực ASEAN. Năm
2019, cả Việt Nam có gần 35.000 trường hợp thụ tinh trong ống nghiệm được
thực hiện.
Việt Nam đang được xem là nước có chuyên ngành kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phát
triển mạnh trong khu vực ASEAN, nhờ vào các yếu tố: quy mô lớn nhất, nhiều
20
kinh nghiệm, có nhiều chuyên gia được biết đến trong giới chun mơn khu vực,
có hoạt động học thuật mạnh nhất trong khu vực…
Với số lượng công bố khoa học thường xuyên trên các tạp chí y học uy tín nhất
của ngành thụ tinh trong ống nghiệm thế giới (khoảng 10 bài mỗi năm), có thể
nói, về học thuật, thụ tinh trong ống nghiệm Việt Nam tương đương với các nước
phát triển.
Tuy nhiên, so với các nước, ngành du lịch của Việt Nam chưa phát triển bằng,
dịch vụ y tế nói chung cịn nhiều bất cập, do đó mặc dù thụ tinh trong ống
nghiệm Việt Nam chi phí rẻ, kỹ thuật tốt nhưng chưa thu hút được nhiều bệnh
nhân nước ngồi (chỉ khoảng 1-2%).
4.3. Chi phí thực hiện của các quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam
Ở Mỹ, chi phí thực hiện một ca IVF lên tới 25.000 USD (khoảng 570 triệu đồng).
Cịn tại Đơng Nam Á, ở các nước như Philippines, Singapore, Thái Lan, chi phí
IVF khoảng từ 10.000 USD/ca (khoảng 230 triệu đồng). Ở Malaysia hay
Indonesia, chi phí dao động từ khoảng 6.000 - 7.000 USD (khoảng 140 triệu
đồng - 160 triệu đồng).
Trong khi đó, TS.BS Hồ Mạnh Tường - Tổng thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vơ
sinh TP.HCM đánh giá chi phí cho một ca IVF tại Việt Nam gần như thấp nhất
thế giới, chỉ hơn 3.000 USD (khoảng 70 triệu).
Các cặp vợ chồng đang có nhiều lựa chọn, với các mức chi phí khác nhau. Ở các
bệnh viện cơng, mức giá một ca IVF thường vào khoảng từ 70 triệu đồng, còn ở
các bệnh viện tư là từ 75 triệu trở lên.
5. Kết luận
Với sự ra đời của kỹ thuật thụ tinh nhân tạo đã mở ra chân trời mới về khoa học y sinh,
đem lại hy vọng cho hàng triệu gia đình vơ sinh hiếm muộn trên thế giới. Mang lại hạnh
phúc cho hàng triệu gia đình trên tồn cầu.
Tại Việt Nam kỹ thuật này cũng ngày càng phát triển, đem lại hy vọng cho hàng nghìn
gia đình Việt. Với trình độ kỹ thuật tốt và giá cả phải chăng, dịch vụ thụ tinh trong ống
nghiệm không chỉ mang lại cơ hội cho gia đình Việt mà cịn là cơ hội để ngành du lịch
y tế chất lượng cao tại Việt Nam phát triển. Đây cũng mở ra cơ hội việc làm cho các y
bác sỹ, các kỹ sư tốt nghiệp chuyên ngành công nghệ sinh học – công nghệ y sinh trong
tương lai.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. />2. />3. />4. />5. Các kĩ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
/>4799000&aut=42653671b3a89095197a4d7dee5a0407
6. Thụ tinh trong ống nghiệm và những điều bạn cần biết
/>7. />8. />9. />10. />11. />
22