Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 33 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM NGHỆ THUẬT TRUNG ƯƠNG
<b> KHOA SAU ĐẠI HỌC</b>
<b>“Bảo tồn và phát huy giá trị văn hố dân gian truyền thống dân tộc Sán Dìu trên địa bàn xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, </b>
<b>tỉnh Quảng Ninh”</b>
<b>Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Phương ThảoHọc viên: Nguyễn Đăng Kiếm</b>
<b>Lớp: Cao học Quản l礃Ā Văn hóa K12</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>PHẦN I: MỞ ĐẦU1. Đặc điểm tình hình</b>
Vân Đồn là huyện đảo nằm ở phía Đơng Bắc tỉnh Quảng Ninh, có tổng diện tích tự nhiên hơn 2.170km2 trong đó diện tích đất tự nhiên trên 553,2km2, bao gồm 600 hòn đảo lớn nhỏ, trong đó đảo Cái Bầu là lớn nhất với diện tích hơn 300km2. Tổng số hộ dân là 12.532 với 47.635 người; huyện có 12 đơn vị hành chính (11 xã, 01 thị trấn).
Vân Đồn có vị trí địa lý đặc biệt thuận lợi cho phát triển kinh tế, nhất là các ngành kinh tế biển như nuôi trồng đánh bắt thủy hải sản, du lịch nghỉ dưỡng, sinh thái biển đảo… Từ những chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và Chính phủ phê duyệt xây dựng khu Hành chính - Kinh tế đặc biệt, những năm gần đây Vân Đồn đang thu hút mạnh mẽ các dự án động lực như: dự án Cảng hàng không quốc tế và khu đô thị Bắc Cái Bầu, dự án khu phi thuế quan - khu công nghiệp sạch, cơng trình hạ tầng thiết yếu như: dự án đường cao tốc Hạ Long - Vân Đồn, Vân Đồn - Móng Cái cùng các tuyến đường trục chính nối các khu chức năng chính của khu kinh tế Vân Đồn, cùng với đó hệ thống thơng tin liên lạc, dịch vụ du lịch ngày càng được nâng cao thu hút du khách trong nước và quốc tế. Những động thái tích cực trên đang là tiền đề bệ phóng đưa khu kinh tế Vân Đồn cất cánh phát triển toàn diện.
Trên góc độ phát triển tài nguyên nhân văn phục vụ du lịch trước mắt và lâu dài trong tiến trình gia tăng đơ thị hóa Vân Đồn hiện nay, đang đặt ra yêu cầu cấp bách giữa áp dụng khoa học công nghệ trong phát triển nền kinh tế tri thức với phát huy các giá trị văn hóa dân gian truyền thống bản địa giàu bản sắc (văn hóa tâm linh, phong tục tập qn, nghi lễ tín ngưỡng, lễ hội truyền thống Vân Đồn (xã Quan Lạn), lễ Đại phan (xã Bình Dân) nhằm đưa các giá trị văn hóa này trở thành sản phẩm OCOP phi vật thể phục vụ phát triển du lịch đang là mối quan tâm trăn trở mà Đảng bộ, chính quyền và nhân dân trong huyện đặt ra cần giải quyết.
Trong bối cảnh chung đó, đặt vấn đề bảo tồn, phát huy lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian của người Sán Dìu trên địa bàn huyện Vân Đồn thơng qua khảo sát, nghiên cứu có hệ thống và khoa học là việc làm cấp thiết góp phần
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, cũng là phù hợp với chính sách dân tộc của Đảng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tế sau hơn 60 năm bị gián đoạn, đến năm 2008, Lễ hội Đại phan được phục dựng ở xã Bình Dân đã có giá trị to lớn về mặt văn hóa trong đời sống cộng đồng người Sán Dìu nói riêng và nhân dân nói chung. Lễ hội Đại phan góp phần vào việc tơn vinh các giá trị truyền thống của người Sán Dìu, đó là biết ơn đối với thiên nhiên, với tổ tiên…, là dịp để các thế hệ trẻ tham gia, chứng kiến các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc tự hào với truyền thống văn hóa của tổ tiên để có ý thức bảo tồn. Lễ hội cũng là dịp để người Sán Dìu và các dân tộc anh em trên địa bàn huyện tụ họp, vui chơi và giao lưu với nhau, gắn kết cộng đồng làng xóm, cũng như các mối quan hệ họ tộc… góp phần quảng bá giá trị văn hóa dân gian truyền thống phục vụ cho hoạt động du lịch của địa phương. Đây là việc làm kịp thời, có giá trị thiết thực của Sở Văn hóa và Thể thao Quảng Ninh để bảo tồn các giá trị văn hóa của người Sán Dìu xã Bình Dân nói riêng và tồn huyện nói chung. Tuy nhiên đề tài nghiên cứu khoa học của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch mới dừng lại ở việc phục dựng nguyên gốc lễ hội Đại phan, các bước tiếp theo sau phục dựng nhằm bảo tồn, phát huy giá trị của lễ hội cùng các giá trị văn hóa dân gian truyền thống của người Sán Dìu từ đó đến nay do nhiều ngun nhân chưa thực hiện được đã làm hạn chế việc phát huy giá trị phục vụ du lịch cũng như phục vụ đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên địa bàn.
Mặt khác, Lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian của người Sán Dìu (vật thể, phi vật thể) được lưu giữ, truyền dạy từ thế hệ này sang thế hệ khác theo cách truyền khẩu và thực hành thành thói quen (hầu như khơng có văn bản, cũng như các phương tiện lưu giữ hình ảnh, âm thanh). Do đó, việc nghiên cứu, bảo tồn Lễ hội Đại phan nếu không được các cơ quan chức năng, các ngành, các cấp quan tâm tiến hành kịp thời thì những người già cùng các thầy cúng am hiểu về lễ hội này sẽ dần mất đi, những tư liệu truyền khẩu sẽ bị thất truyền, Lễ hội Đại phan và các giá trị văn hóa dân gian của người Sán Dìu trên địa bàn huyện có nguy cơ mất hẳn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">Bởi lẽ đó, nghiên cứu, bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân gian của người Sán Dìu ở Vân Đồn không những phù hợp với tinh thần Nghị quyết TW 5 khóa VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” và Nghị quyết số 33 (Hội nghị Trung ương 9 khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, mà còn giúp cho việc phát huy những giá trị này trong nhịp sống đương đại, góp phần vào cơng cuộc xây dựng nơng thơn mới, phục vụ văn hóa du lịch, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội chung của huyện trước mắt và lâu dài.
Với những lý do trên học viên lựa chọn đề tài “Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian truyền thống dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn,
<b>tỉnh Quảng Ninh” làm tiểu luận bộ mơn Chính sách văn hố.2. Cơ sở pháp l礃Ā</b>
- Luật Di sản Văn hóa số 28/2001/QH10 ngày 29/6/2001 và Luật số 32/2009/QH12 sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa năm 2001;
- Luật tín ngưỡng, tơn giáo số 02/2016/QH14;
- Nghị định 162/2017/NĐ-CP ngày 30/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành luật tín ngưỡng, tơn giáo;
- Nghị định số 98/2010/NĐ-CP ngày 21 tháng 09 năm 2010 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Di sản Văn hóa và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Di sản Văn hóa;
- Nghị định số 05/NĐ-CP ngày 14/01/2011 của Chính phủ về cơng tác dân tộc;
- Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, ngày 06/7/1998 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc;
- Nghị quyết số 33-NQ/TW (Hội nghị Trung ương 9 khóa XI) ngày 09/6/2014 về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước;
- Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày 05/01/2010 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa nơng thơn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020”;
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">- Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án “Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020”;
- Thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL ngày 30/6/2010 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch “Quy định việc kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia”;
- Quyết định số 4071/QĐ-UBND ngày 01/11/2007 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt Quy hoạch bảo tồn và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số tỉnh Quảng Ninh đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020;
- Quyết định số 1296/2009/QĐ-TTg ngày 19/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Quy hoạch chung khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định số 786/2006/QĐ-TTg ngày 31/5/2006 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “Phát triển kinh tế - xã hội khu kinh tế Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh”;
- Quyết định số 1418/QĐ-UBND ngày 04/7/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định số 1419/QĐ-UBND ngày 04/7/2014 của UBND tỉnh Quảng Ninh về việc phê duyệt đề án phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Quyết định số 173/QĐ-UBND ngày 18/01/2016 của UBND tỉnh Quảng Ninh phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội huyện Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Nghị quyết số 08-NQ/HU ngày 31/5/2016 về phát triển dịch vụ, du lịch huyện Vân Đồn đến năm 2020, định hướng đến năm 2030;
- Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 10/8/2016 thông qua Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch huyện Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">- Quyết định số 3594/QĐ-UBND ngày 27/9/2016 của UBND huyện Vân Đồn về việc phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch huyện Vân Đồn đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030;
- Thơng báo số 499-TB/HU ngày 30/10/2019 của Thường trực Huyện ủy tại Hội nghị giao ban thường kỳ ngày 28/10/2019;
- Thông báo số 465/TB-UBND ngày 05/11/2019 của UBND huyện ý kiến chỉ đạo của UBND huyện về việc thực hiện Thông báo số 499-TB/HU ngày 30/10/2019 của Thường trực Huyện ủy tại Hội nghị giao ban thường kỳ ngày 28/10/2019.
- Các căn cứ khác:
+ Thực trạng và tiềm năng phát triển văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Sán Dìu xã Bình Dân, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh;
+ Một số tư liệu khác có liên quan.
<b>3. Mục tiêu</b>
<b>3.1. Mục tiêu chung</b>
- Bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Sán Dìu trên địa bàn huyện mang tính chất đầu tư tổng hợp, đồng bộ, khôi phục lại tất cả các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể trọng tâm của người Sán Dìu (nếp sống, sinh hoạt, các trị chơi dân gian, lễ Đại phan và các yếu tố văn hóa truyền thống tích hợp trong đó…)
- Trên cơ sở bảo tồn để nhân rộng và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống đặc trưng của người Sán Dìu gắn với phát triển kinh tế du lịch, góp phần thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội phát triển trong lộ trình trở thành Khu hành chính - kinh tế Vân Đồn.
<b>3.2. Mục tiêu cụ thể</b>
- Khảo sát giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc Sán Dìu trên địa bàn. - Bảo tồn và phát huy công năng nhà Văn hóa dân tộc, miếu thờ Thành hồng làng ở xã Bình Dân.
- Bảo tồn thơng qua hình thức các lớp truyền dạy để phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể truyền thống trọng tâm: trang phục, ẩm thực; cây
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">trồng, vật ni; âm nhạc, dân ca dân vũ; trị chơi dân gian; ngữ văn dân gian và tiếng nói, chữ viết; nghề thủ công truyền thống; nghi lễ cấp sắc; lễ Đại phan.
PH N II<b>Ầ</b>
<b>ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG GIÁ TRỊ VĂN HÓA DÂN GIANTRUYỀN THỐNG CỦA DÂN TỘC SÁN DÌU </b>
<b>XÃ BÌNH DÂN, HUYỆN VÂN ĐỒN</b>
<b>1. Thực trạng dân số </b>
Vân Đồn là huyện đảo thuộc tỉnh Quảng Ninh, có diện tích tự nhiên khoảng 2171,33km<small>2 </small>(trong đó diện tích đất tự nhiên 581,83km<small>2</small>, phần vùng biển rộng 1.589,8km<small>2</small>), phía Bắc và Đơng Bắc giáp huyện Tiên n, Đầm Hà, phía Đơng Nam giáp huyện Cơ Tơ, phía Tây giáp thành phố Cẩm Phả và thành phố Hạ Long.
Dân số huyện Vân Đồn trên 47.000 người, được phân bố trên 12 xã, thị trấn, với 9 tộc người: Kinh, Sán Dìu, Hoa, Dao, Tày, Mường, Thái, Nùng, Sán Chay (Cao Lan, Sán Chỉ) . Mỗi dân tộc đều có những sắc thái và đặc trưng văn hóa riêng của mình tạo nên bức tranh văn hóa đa dạng, phong phú đóng góp quan trọng trong quảng bá mảnh đất con người Vân Đồn với khách du lịch trong nước và quốc tế. Người Sán Dìu là dân tộc thiểu số có số dân đông nhất đứng thứ hai sau người Kinh chiếm 12,95% dân số tồn huyện, có mặt ở hầu hết các địa phương trong huyện: Đơng Xá, Hạ Long, Bình Dân, Đồn Kết, thị trấn Cái Rồng…trong đó tụ cư đơng nhất tại xã Bình Dân là 1.382 người, chi m 95% dân s toàn xã.ế ố Đời sống kinh tế của tộc người này chủ yếu là nông nghiệp, khai thác lâm thổ sản.
Nghiên c u t p t c và nghi l chu kỳ vòng đ i c a t c ngứ ậ ụ ễ ờ ủ ộ ười Sán Dìu s giúp chúng ta hi u sâu nh ng giá tr văn hóa phong phú c a hẽ ể ữ ị ủ ọ đóng góp vào kho tàng văn hóa các dân t c Qu ng Ninh nói chung,ộ ả trong đó có Vân Đ n. Vi c nghiên c u này giúp chúng ta nh n th c đ yồ ệ ứ ậ ứ ầ đ văn hóa c a m t t c ngủ ủ ộ ộ ười được tích lũy, ch t l c tr i qua hàngắ ọ ả ngàn năm l ch s , đó có nhi u nghi th c, nghi l đ c s c, trong đó cóị ử ở ề ứ ễ ặ ắ l Đ i phan. ễ ạ
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>2. Thực trạng các nghi lễ tín ngưỡng* Lễ cấp sắc</b>
Cũng như người Sán Dìu trong cả nước, người Sán Dìu ở Vân Đồn có tập tục cấp sắc. Lễ cấp sắc là nghi lễ quan trọng trong lễ hội Đại phan, cấp sắc cũng là một trong những nghi lễ quan trọng trong chu trình đời người đàn ơng Sán Dìu (khoảng 16 tuổi trở lên được làm lễ cấp sắc nhưng không bắt buộc ai cũng phải cấp sắc), xác định sự trưởng thành của họ trước cộng đồng, tổ tiên. Theo quan niệm của người Sán Dìu người được cấp sắc có thể bái, tiếp xúc với thần linh, không sợ ma quỷ làm hại mà cịn có thể bảo vệ được mọi người trong gia đình và làm ăn thịnh vượng. Người được cấp sắc khi chết linh hồn được qua 12 cửa cầu (chọi kéo) lên với Ngọc Hoàng ở thiên đình, tên tuổi người được cấp sắc được các đệ tử thờ phụng đời này qua đời khác. Trong lễ cấp sắc, người đàn ông được đặt pháp danh – tên âm, khi cúng bái chỉ dùng pháp danh – tên âm. Nghi lễ cấp sắc được tiến hành với mục đích làm lễ phụ phong cấp bậc, mọi chứng chỉ văn bằng cho những người thầy cúng theo yêu cầu của Đạo giáo dân gian.
Quá trình hành nghề, người được cấp sắc ở bậc cao nhất là chủ trì Đại phan (phan chúy). Những người được cấp sắc không nhất thiết phải làm nghề thầy cúng, nhưng muốn làm thầy cúng thì phải qua lễ cấp sắc. Lễ Đại phan ở xã Bình Dân cịn cấp sắc cho phụ nữ là vợ thầy cúng hay phụ nữ khơng có gia đình hoặc khơng có con. Theo quan niệm của đồng bào, người phụ nữ được cấp sắc khi chết các con không phải làm lễ phá ngục, ăn huyết của mẹ, linh hồn không phải qua 18 ngục, được đi lên cầu, phong tước làm “tương nữ” làm quan ở thiên đình và linh hồn vợ chồng ln ở bên nhau, được thần thánh công nhận.
Người được cấp sắc phải theo thầy học chữ Hán Nôm, học cúng... Trước đó, họ phải chuẩn bị tiền, của khi nào đã đủ điều kiện mới tổ chức lễ Cấp sắc. Tục Cấp sắc của người Sán Dìu là sự cột chặt con người trong phạm vi bản làng bằng những sợi dây khe khắt của thần quyền.
Từ sáng sớm người chủ lễ (phan chúy) đã làm lễ cấp sắc theo danh sách những người có nhu cầu do Thơng dẫn sư tập hợp từ trước lễ hội cung cấp.
<i><b>Lễ cấp sắc có 2 hình thức: Cấp sắc tại lễ hội Đại phan; cấp sắc tại gia đình.</b></i>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><i>- Cấp sắc tại lễ hội Đại phan: phải có từ 15 – 20 thầy cúng, trước đó các</i>
thầy tổ chức viết sớ điệp thông báo về thời gian, địa điểm tổ chức lễ hội Đại phan và cử người mang điệp từ tới các vùng có người Sán Dìu. Ai có nhu cầu cấp sắc thì mua và gửi hồ sơ về Đạo tràng.
<i> - Cấp sắc tại gia đình: Gia đình phải đi mời được 9 thầy cúng thì mới đủ</i>
điều kiện tổ chức làm lễ cấp sắc.
Dù tổ chức tại lễ hội Đại phan hay tại gia đình thì nghi lễ cấp sắc cũng tuân thủ các quy định của các thầy, trong đó có 2 thầy làm chủ lễ cùng các thầy giúp việc. Thầy thứ nhất là Thầy cả là người cấp pháp cho đệ tử. Thầy thứ hai làGia bổ chức sư. Các thầy như Chứng Minh, Bảo Quý, Truyền Phép, Kết Quy,
Đinh Đẩu, Dẫn Đàn là những người dẫn dắt đệ tử thực hành các nghi lễ. Ngồi ra, cịn có hai người chuyên dâng lễ lên tất cả các ban thờ gọi là Đơng hồng cơng và Tây mẫu vương.
<i><b>Lễ cấp sắc có 3 cấp:</b></i>
- Cấp thứ nhất là Pháp sư (Sơ ca): Pháp sư có quyền hạn thấp, chỉ được cầu khấn, trả lễ thông thường như: cúng hạn, giải hạn, kỳ yên nhà, làm ma cho những người đàn ông, đàn bà chết bình thường, không được làm ma cho những người học thầy ở cấp cao hơn mình. Người cấp sắc được thay tên gọi theo tên mới được gọi là Pháp danh, nhưng tên này chỉ được sử dụng khi hành nghề thầy cúng. Sau khi được cấp sắc, muốn được cấp sắc ở cấp cao hơn thì phải lấy Điệp tử. Điệp tử do Phan chủ thay mặt thiên đình cấp, cấp cho các đệ tử thông qua Đại phan.
Trong trường hợp người được cấp sắc lần thứ nhất, nếu cha truyền cho con, anh truyền cho em mà sống chung trong một gia đình thì không phải lập bát hương thờ Bản sư mà chỉ làm thêm một ấn Phật đặt ngang hàng với bát hương tổ tiên. Trường hợp người được cấp sắc đã ra ở riêng hay không phải gia truyền mà đi học của dịng họ khác thì sau khi được cấp sắc phải lập bát hương thờ thầy cả, bát hương được đặt ở bên trái ngang với bát hương tổ tiên. Người được cấp sắc lần đầu được sắm thanh la, não bạt, tù và…Mỗi khi có cúng lễ, thầy cả gọi đi học nghề: quy cách viết sớ, luyện giọng đọc, cách nhảy múa ma, bắt quyết yểm bùa và quy trình một lễ cúng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">- Cấp thứ hai là Chức sư (chếch ca), chức vị này được cấp ấn chức sư và được khắc họ, tên pháp danh của thầy vào ấn. Người được cấp sắc lần thứ hai tên pháp danh cũng được thay đổi. Chức sư có quyền cao hơn Pháp sư đó là có thêm quyền cưỡng chế, trừ ma và được xã hội tơn kính. Những người hành nghề thầy cúng sau khi có chức Pháp sư cần thiết phải tổ chức lễ cấp Chức sư.
- Cấp thứ ba là Thứ gia Tổng xuyến, chức vị này yêu cầu phải có thời gian hành pháp lâu năm.
Cả ba chức vị này đều có quyền hành pháp và truyền pháp cho đệ tử cấp dưới mới học.
Trong nghi lễ cấp sắc có các điệu múa rất phong phú như: Múa hành quang nghênh tiếp thần và tống thần. Múa hành quang còn thể hiện vui chơi và lao động sản xuất như: Hồng mẫu giã gạo, xay thóc, trồng cây, chải đầu và thủy ngưu vọng nguyệt; Hoàng mẫu xây đập, đào kênh…
<b> Thông thường một lễ cấp sắc bao gồm 10 bước chính (thỉnh thánh, phát giấy</b>
thơng hành đi mời thánh, đàn tế, khao quân, dâng sớ báo cáo tổ tiên, trình sớ để được cấp ấn và cấp sắc, cúng bát tiên, đi lấy nước Hà Bá, cấp phép, làm lễ khao quân).
Tiến trình của mỗi bước được diễn ra từ khoảng 1 đến 2 tiếng. Nội dung của các bước chủ yếu là hát, nhảy, đọc sớ…Nhạc cụ dùng để nhảy và hát là thanh la, não bạt, cùng tù và.
Suốt những năm qua, lễ cấp sắc ở Bình Dân chỉ được tổ chức duy nhất một lần vào năm 2008 tại lễ hội Đại phan, cấp sắc được cho trên 20 thầy cúng ở các cấp khác nhau, ở nhiều địa phương như Tiên Yên, Ba Chẽ, Đầm Hà, Hải Hà, Bắc Giang, Vĩnh Phúc…cịn hình thức cấp sắc tại gia đình do những yêu cầu về việc mời thầy (09 thầy) theo quy định cùng những thủ tục liên quan đến kinh phí tương đối lớn nên hình thức này chưa có gia đình nào ở Bình Dân mời thầy tổ chức tại gia đình được.
Như vậy có thể thấy, hơn 60 năm qua, tại Bình Dân mới tổ chức được một lần cấp sắc cho hơn 20 thầy thơng qua lễ hội Đại phan, trong đó số lượng thầy được cấp sắc ở Vân Đồn rất ít (06 đến 07 thầy) còn lại là cấp sắc cho các thầy ở địa phương khác. Do không tổ chức Đại phan thường xuyên, nên số lượng thầy
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">cúng ở Vân Đồn ngày càng giảm hiện chỉ cịn 4 – 5 thầy trong đó ít tuổi nhất cũng khoảng gần 60 tuổi, còn người cao tuổi nhất đã trên 80 tuổi. Năm 2008 xã Bình Dân phải mời các thầy ở địa phương khác đến mới đủ số lượng 20 thầy để tổ chức lễ Đại phan.
<b>* Hát Soọng cô</b>
Soọng cô là làn điệu dân ca độc đáo của dân tộc Sán Dìu. Trước kia vào mỗi dịp xuân về, những dịp nông nhàn, lễ hội hay các đám cưới hỏi, đám mừng nhà mới…thanh niên nam nữ dân tộc Sán Dìu thường tìm nhau hát Soọng cơ. Tóm lại, Soọng cơ hiện diện trong rất nhiều lĩnh vực của đời sống văn hóa xã hội làng xã, truyền tải những tâm tư, tình cảm và ước muốn của người Sán Dìu trong đời sống thường ngày được thể hiện qua lời ca, tiếng hát, là mơi trường gìn giữ văn hóa tộc người, do đó Soọng cơ khơng những là nét đẹp văn hóa phục vụ nhu cầu văn hóa văn nghệ của nhiều tầng lớp người Sán Dìu ở nhiều lúc, nhiều nơi mà cịn là nét sinh hoạt văn hóa khơng thể thiếu trong lễ hội Đại phan.
Năm 2015, phịng Văn hóa và Thơng tin phối hợp với UBND xã Bình Dân thành lập câu lạc bộ hát Soọng cô, với 22 thành viên. Năm 2016, 2017 UBND huyện đã lập hồ sơ gửi Hội Văn nghệ Dân gian tỉnh Quảng Ninh trình Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Dân gian cho 04 cụ: Tô Thị Tạ, Trương Thị Choong, Trương Thị Chúc, Tô Văn Quảng là thành viên của câu lạc bộ Soọng cô Bình Dân. Từ khi thành lập, câu lạc bộ này đã có tổ chức tham gia giao lưu với các câu lạc bộ Soọng cô ở các tỉnh như Bắc Giang, Vĩnh Phúc…
Hiện nay các thành viên câu lạc bộ Soọng cơ Bình Dân tuổi đời ngày càng cao (người ít tuổi nhất cũng trên 40 tuổi, người nhiều tuổi nhất 70 tuổi). Việc tổ chức truyền dạy để thu hút thế hệ trẻ của câu lạc bộ còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ chưa tổ chức được thành những lớp học bài bản, bên cạnh đó sự du nhập âm nhạc đương đại đang là mối quan tâm chung của tuổi trẻ, do đó Soọng cơ chưa thấm vào được lớp trẻ, chưa tạo nên được niềm yêu thích của lớp trẻ với Soọng cơ Bình Dân.
<b>* Vũ điệu hành quang</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Vũ điệu hành quang về mặt bản chất là sự tích hợp giữa các nghi lễ và nghi thức xuyên suốt phục vụ các nội dung chạy đàn, cúng tế, cầu an, cầu mùa, xua đuổi tà ma, dịch bệnh trong lễ hội Đại phan. Trong một chỉnh thể âm nhạc diễn xướng, cầu khấn hòa quyện với nhau, vũ điệu hành quang tạo nên một không gian vừa tôn vinh những giá trị nghi lễ, vừa lan tỏa lay động thổi bùng lên ngọn lửa cho phần hội.
Những năm qua, kể từ khi lễ hội Đại phan Bình Dân được phục dựng (năm 2008), đã góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc Sán Dìu, đồng thời vũ điệu hành quang (vũ điệu chủ đạo của lễ Đại phan) được chọn tham gia Liên hoan văn hoá các dân tộc Việt Nam năm 2009 đã được đánh giá là tiết mục đặc sắc, do đó được chọn là tiết mục đặc biệt tham gia vào trình diễn bản sắc các dân tộc Quảng Ninh tại Lễ hội Carnaval thường niên của tỉnh.
<b>3. Thực trạng lễ Đại phan</b>
Đại phan với ý nghĩa là lễ cầu an, cầu mùa, xua đuổi tà ma, dịch bệnh tại một cộng đồng làng, xã hoặc cộng đồng người Sán Dìu. Lễ Đại phan là hoạt động tín ngưỡng dân gian có quy mơ lớn, tích hợp nhiều yếu tố văn hóa đặc trưng của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh như: các phong tục tập quán, nghi thức thờ tự, âm nhạc, ca, múa, mỹ thuật để tạ ơn trời đất, thần linh cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tốt tươi, bản làng no ấm và cầu khấn sự chở che trong những mùa vụ tiếp theo.
Sơ khai, Đại phan là lễ cầu mùa sau đó cùng với sự phát triển của xã hội người ta đã lồng vào đó để cấp những sớ điệp (then chây) cần thiết (do Ngọc Hồng cơng nhận) và cấp các loại sắc phong cho thầy cúng…Trong lễ Đại phan trước đây có tổ chức các trị chơi như: múa lân rồng, trò chơi dân gian của làng.
Lễ Đại phan huyện Vân Đồn đã ăn sâu vào tiềm thức của các già làng dân tộc Sán Dìu và được lưu truyền, kể lại cho các thế hệ con, cháu. Tuy nhiên, để có thể tổ chức được lễ Đại phan thì rất tốn kém kinh phí và khơng phải năm nào cũng tổ chức được, lễ Đại phan được tổ chức lần cuối tại xã Đoàn Kết huyện Vân Đồn vào năm 1944 (Giáp Thân) và đã bị thất truyền hơn 60 năm. Đến năm 2008 dưới sự chỉ đạo của Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch (nay là Sở VH&TT)
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">thực hiện đề tài nghiên cứu “Sưu tầm, nghiên cứu, đề xuất giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian cổ truyền của người Sán Dìu ở tỉnh Quảng Ninh”, lễ Đại phan đã được tổ chức phục dựng lại đáp ứng sự mong đợi của đồng bào dân tộc Sán Dìu. Lễ Đại phan năm 2008 đã trở thành ngày hội khơng chỉ của riêng người Sán Dìu mà trở thành ngày hội của nhân dân huyện Vân Đồn và dân tộc Sán Dìu trong và ngồi tỉnh.
Miêu tả hình thức biểu hiện, quy trình thực hành, các sản phẩm vật chất, tinh thần được tạo ra trong quá trình thực hành di sản văn hóa phi vật thể, khơng gian văn hóa liên quan…
Lễ Đại phan khơng nhất thiết tổ chức theo thời gian một chu kỳ hoặc định kỳ mà thường tổ chức vào dịp nông nhàn, sau vụ cấy, vụ thu hoạch hoặc vào mùa xuân. Địa điểm tổ chức lễ tại những nơi bị thiên tai, dịch bệnh, ốm đau, mùa màng thất bát…Tại nơi thiên tai xảy ra liên tục sẽ được tổ chức nhiều hơn, ví dụ: Lục Ngạn (Bắc Giang) từ năm 1953 đến năm 1957 đã tổ chức lễ Đại phan 5 lần. Thời gian tổ chức lễ Đại phan phụ thuộc vào thầy cúng xem ngày, ngày đó phải là ngày hồng đạo và phải chọn giáp sinh thì mới đủ điều kiện tổ chức. Lễ Đại phan thường được tổ chức vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 12 âm lịch và lễ hội thường diễn ra từ 5 đến 7 ngày.
Công tác chuẩn bị cho tổ chức lễ Đại phan được chuẩn bị trước vài tháng. Người Sán Dìu chọn ra một ơng chủ lễ (phan chúy) là thầy cúng cao tay gọi là Phan chủ. Phan chủ đứng ra thành lập Ban tổ chức, ban tổ chức thường từ 15 đến 20 người gồm những thầy cúng có tên tuổi ở các làng quanh vùng. Ban tổ chức sẽ cử ra các tiểu ban gồm:
- Thông dịn slay (thông dẫn sư): là người học cao, hiểu rộng, văn hay chữ đẹp để chỉ huy và viết sớ điệp. Và cử người mang điệp tử tiếp thị tới vùng người Sán Dìu cư trú, ai có nhu cầu cấp sắc thì đăng ký mua, gửi hồ sơ trích ngang gồm: Họ tên, ngày tháng năm sinh, địa chỉ, tên pháp danh đạo tràng.
- Bảo Quý Say (thầy Bảo Quý): là người đảm bảo nghi lễ cấp sắc theo đúng nghi thức của Đạo giáo.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Trong suốt thời gian chuẩn bị, Ban tổ chức đã thông báo cho bà con từ xứ Đông (Quảng Ninh), xứ Đoài (Vĩnh Phúc), xứ Bắc (Bắc Giang)…cùng bà con lân cận ở làng, xóm dưới chuẩn bị rước Thành hồng đến địa điểm làm lễ (Thành hoàng là biểu tượng cho sức mạnh, tình đồn kết cộng đồng làng xóm), rước các giống cây trồng (trong đó đặc biệt là thóc giống); những gia đình nào có người q cố do nghèo chưa làm được tang lễ nhân dịp này dẫn hồn người chết về làm lễ nhập ma.
Ban tổ chức sẽ chuẩn bị trước tất cả mọi điều kiện để tổ chức lễ như: Địa điểm mở lễ: chọn một khu ruộng hoặc một bãi đất trống ở gần rừng là trung tâm của nhiều làng bản; các vật dụng dùng trong ngày lễ: làm hình Sơn Đại nhân bằng tre sau đó lấy giấy màu dán lên, chọn bò và lợn làm vật tế thần, chọn hai cây gỗ để chuẩn bị cho lễ leo đao, chuẩn bị củi cho lễ lội than…
Sau một thời gian dài hơn 60 năm cho đến khi Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ninh tiến hành phục dựng lễ hội Đại phan (năm 2008), đã góp phần tái hiện tồn bộ diễn trình cùng một số giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể… của dân tộc Sán Dìu, đồng thời vũ điệu hành quang (vũ điệu chủ đạo của lễ Đại phan) được chọn tham gia Liên hoan văn hoá các dân tộc Việt Nam năm 2009 đã được đánh giá là tiết mục đặc sắc, do đó được chọn là tiết mục đặc biệt tham gia vào trình diễn bản sắc các dân tộc Quảng Ninh liên tục tại Lễ hội Carnaval thường niên của tỉnh. Sức lan tỏa của Lễ hội cũng đã góp phần khôi phục và thành lập được câu lạc bộ Soọng cơ Bình Dân, hàng năm tổ chức tham gia giao lưu với các câu lạc bộ Soọng cô ở các tỉnh như Bắc Giang, Vĩnh Phúc…
<b>4. Một số giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể</b>
tạo ra để thỏa mãn nhu cầu sử dụng và nhu cầu thẩm mỹ. Ngồi ra nó cịn biểu hiện cho những giá trị văn hóa của mỗi tộc người, thơng qua đó có thể thấy được tâm hồn của tộc người đó. Trang phục được tạo thành từ sự kết hợp hai bộ phận: Y phục và trang sức. Trang phục của người Sán Dìu gồm có trang phục nam giới, nữ giới; trang phục mặc thường ngày và mặc trong các dịp lễ, tết:
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Trang phục nam giới: Áo năm thân, cổ cao, có hị cài khuy bên phải, ống tay hẹp, áo chỉ dài quá gối một chút, áo màu nâu hoặc màu chàm. Ở hai tà trước của áo có hai túi, hai túi may khơng có khóa, cúc bấm.
- Quần màu nâu hoặc màu trắng, cắt theo kiểu chân què, cạp lá tọa, thắt lưng màu chàm hoặc màu xanh.
chân, khăn đội đầu, túi đựng trầu, thắt lưng màu và một số trang sức đơn giản. Áo của người phụ nữ Sán Dìu gồm áo ngắn và áo dài.
- Áo ngắn (yếm): Áo yếm là một mảnh vải hình thoi, gồm có bốn cạnh, trên đầu mỗi cạnh là một dây dài dùng để buộc khi mặc, hai dây trên buộc lên cổ, hai dây ngang eo buộc sau lưng. Yếm có thể có nhiều màu như màu xanh, trắng, hồng, vải hoa… nhưng thông thường màu sắc yếm được nhiều người dùng nhất là yếm có màu trắng.
- Áo dài: là áo được người phụ nữ khốc bên ngồi yếm, áo có màu chàm, được tạo thành từ bốn mảnh vải, cổ cao nẹp trơn, hình chữ V, khơng đính khuy, xẻ tà hai bên. Cổ áo có may ba đường chỉ màu trắng, đường chỉ màu trắng dưới cùng có chèn một đường chỉ màu đỏ. Hai bên mép áo may nẹp màu trắng, khi mặc người phụ nữ bẻ mép áo sang hai bên để hai viền nẹp trắng đó lộ ra ngoài. Hai cánh tay áo dài ngang mép áo bên dưới, tay áo rộng từ nách khâu hẹp dần.
- Váy gồm 6 đến 8 mảnh vải ghép lại với nhau, khơng khâu, cùng đính trên cạp váy, mảnh này chờm lên mảnh kia từ 15cm đến 20cm, trên thân váy có nhiều nét gấp ở chỗ đính vải trên cạp váy. Cạp váy thường màu trắng, khơng trang trí hoa văn, dùng để đính các mảnh vải lại với nhau, hai bên đầu cạp váy có hai dây buộc.
- Thắt lưng: là những tấm vải màu (xanh, đỏ hoặc trắng) dài khoảng 1m, rộng 30cm, dùng để thắt vào ngang lưng giữa cạp váy và áo, khi thắt buộc bên cạnh sườn, để rủ hai đầu thắt lưng xuống dưới theo thân váy.
- Xà cạp thường màu chàm hoặc màu trắng, là hai mảnh vải chéo hình tam giác, khổ 15 - 20cm, dài 1,5 - 2m.
- Khăn đội đầu: là một mảnh vải hình vng, màu chàm, bên trong là khăn vấn tóc, sau khi vấn tóc người phụ nữ chùm khăn bên ngồi, tạo thành hình mỏ quạ như cách đội khăn của người Kinh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">...- Trang sức: gồm khuyên tai, nhẫn, vòng cổ, vòng tay, đặc biệt là túi đựng trầu. Túi đựng trầu giống như một múi bưởi được may và thêu rất công phu. Túi được thêu bằng chỉ nhiều màu với nhiều họa tiết trang trí đẹp. Miệng túi được luồn từ 4 – 8 sợi dây tết bằng chỉ nhiều màu. Đầu dây tết nút và tua dài đeo một chuỗi xu đồng để vắt qua vai ra sau lưng giữ túi trước ngực không bị tuột xuống khi người ta lấy trầu. Bên cạnh túi trầu còn phải kể đến con dao cau với cái vỏ được chạm khắc rất cơng phu, thường được chị em Sán Dìu ln đeo bên thắt lưng vào những dịp hội hè, lễ tết.
...Thường ngày phụ nữ và đàn ơng Sán Dìu đi guốc mộc đẽo bằng gỗ hoặc tre.
chính trong một ngày: bữa trưa từ 10 giờ đến 11 giờ, bữa tối từ 18 giờ đến 19 giờ, ngồi ra cịn hai đến ba bữa phụ vào buổi sáng, chiều, đêm; các bữa chính đều lấy cơm làm chính, nhưng trong bữa ăn, kể cả trong các bữa cỗ như Tết,
<i>cưới xin, lễ hội... đều phải có nồi cháo ỉn (cháo trắng nấu loãng bằng vạc chảo).</i>
Ăn cơm và ăn cháo đi đơi với nhau.
Ngồi ra cịn có canh gà bản địa nấu với rượu và lá ngải cứu; gà sống thiến; cạ xáy; thịt muối; cháo khoai, sắn; các loại rau, củ; các loại bánh: gù, do, tài lồng êt, trôi; xôi 7 màu; rượu nếp...
<b>...* Nghề thủ công truyền thống: Mỗi dân tộc đều có nghề truyền thống đặc</b>
trưng riêng của mình, tùy theo điều kiện và hồn cảnh sinh hoạt. Đối với người Sán Dìu nhìn chung nghề thủ cơng chưa phát triển, mang tính chất tự nhiên, sản phẩm thủ công chủ yếu phụ vụ cho sản xuất nơng nghiệp và phục vụ cho gia đình. Hiện nay các nghề thủ công đặc trưng của đồng bào Sán Dìu hầu như khơng cịn.
...- Nghề đan lát: Trước đây , người Sán Dìu ai cũng thành thạo với nghề đan lát; nguyên vật liệu chủ yếu là tre, nứa, song, mây…Đồng bào sản xuất ra các vật dụng dụng phục vụ cho sinh hoạt như: nong, nia, giần, sàng, bồ đựng thóc, đơm đó…
. - Nghề mộc: Ít người biết và chỉ làm được một số nông cụ, gia cụ phục vụ trong sinh hoạt gia đình.
- Nghề nề: Là nghề mới xuất hiện trong đồng bào Sán Dìu.
</div>