Tải bản đầy đủ (.pdf) (38 trang)

Căn bệnh hà lan – lý thuyết và thực tiễnở các nước đang phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.4 MB, 38 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>STTHọ và tênMSSV</b>

<i><b>Giảng viên: PGS. TS Nguyễn Chí Hải</b></i>

<b>Tên đề tài:</b>

<b>CĂN BỆNH HÀ LAN – LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄNỞ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN</b>

<i>TP. Hồ Chí Minh, ngày 07 tháng 04 năm 2022</i>

<b>BÀI TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ PHÁT TRIỂN</b>

<b>ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH</b>

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

---<sub></sub>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>---MỤC LỤC</b>

ĐẶT VẤN ĐỀ...4

CHƯƠNG 1: L8 LUÂ:N CHUNG VỀ CĂN BÊ:NH H= LAN...6

1.1. Khái niệm...6

1.2. Nguồn gốc Căn bệnh Hà Lan...6

1.3. Quá trình hình thành Căn bệnh Hà Lan...7

1.4. Giải thLch Căn bệnh Hà Lan...9

CHƯƠNG 3: LIÊN HỆ THỰC TIỄN VIỆT NAM...23

3.1. Tình trạng gia tăng đột ngột của vốn đầu tư nước ngoài...23

3.2. Kiều hối...26

3.3. Nguy cơ đối với Việt Nam...27

3.3.1. Ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu...27

3.3.2. Ảnh hưởng đến tỷ giá thSc hiệu dụng REER...29

3.4. Đề xuất giải pháp phòng chống...32

T=I LIỆU THAM KHẢO...36

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>DANH SÁCH BẢ</b>

Bảng 1. Số liệu về tác động tiêu cSc của căn bệnh Hà Lan...5

Y Bảng 3. 1. ThSc trạng vốn đầu tư trSc tiếp nước ngoài vào Việt Nam...23

Bảng 3. 2. ThSc trạng kiều hối thu vào Việt Nam giai đoạn 2001-2010...26

Bảng 3. 3. ThSc trạng kiều hối thu vào Việt Nam giai đoạn 2011-2020...26

Bảng 3. 4. Cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 – 2019 (triệu USD)...27

Bảng 3. 5. Cơ cấu xuất nhập khẩu của khu vSc FDI trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu trong nước (%)...28

<b>DANH SÁCH HÌN</b> Hình 1. 1. Tác động của căn bệnh Hà Lan...8

Hình 1. 2. Mơ hình cổ điển (Corden và Neary, 1982)...10

Hình 1. 3. Mơ hình hiệu €ng di chuyển nguồn lSc (Corden và Neary, 1982)...10

Hình 1. 4. Mơ hình bốn khu vSc (De Silva, O, 1994)...13

Hình 1. 5. Mơ hình EB – IB (Salter 1959)...14

Y Biểu đồ 2. 1. SS phụ thuộc vào dầu mỏ của Nigeria giai đoạn 1982 - 2017...16

Biểu đồ 2. 2. Sản lượng dầu thô của Venezuela giai đoạn 1965 – 2017...18

Biểu đồ 2. 3. Chuyển dịch cơ cấu các ngành sản xuất tại Anh...19

Biểu đồ 2. 4. Tỷ trọng đóng góp của các ngành kinh tế vào GDP Na Uy...22

Biểu đồ 2. 5. SS tăng trưởng tiền lương của các ngành kinh tế tại Na Uy...22

Biểu đồ 3. 1. Dòng vốn đầu tư trSc tiếp nước ngoài (FDI) vào ASEAN giai đoạn 2011 – 2020...25

Biểu đồ 3. 2. Lượng đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam...26

Biểu đồ 3. 3. Tỉ lệ tỉ giá trung tâm REER của Việt Nam giai đoạn 2001-2020...31

Biểu đồ 3. 4. Tỉ trọng nguồn vốn FDI theo ngành (%)...32

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>

Làm thế nào sS bùng nổ tài nguyên thiên nhiên lại có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế của một quốc gia? Theo các cơng trình nghiên c€u trước đây, các nhà nghiên c€u đã đặt tên cho sS tác động từ hệ quả của việc bùng nổ tài nguyên thiên nhiên là căn bệnh Hà Lan - đề cập đến các vấn đề kinh tế của Hà Lan sau khi phát hiện ra các mỏ khL đốt tS nhiên lớn vào năm 1959. Cụ thể, Hà Lan đã ch€ng kiến sS thu hẹp rõ rệt trong lĩnh vSc sản xuất và sS gia tăng tỷ lệ thất nghiệp sau sS kiện này.

Vào cuối những năm 1950, Hà Lan đã phát hiện ra các mỏ khL khổng lồ Slochteren ở tỉnh Groningen. Ngay sau đó, đất nước này đã bắt đầu gia tăng khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên và nhanh chóng trở thành nhà xuất khẩu ròng khL đốt trên thế giới với sS gia tăng doanh thu khổng lồ. Quốc gia này cũng dần trở nên giàu có và nền phúc lợi chung cũng tăng lên.

Bên cạnh những tác động tLch cSc đến từ sS bùng nổ xuất khẩu dSa trên khL đốt tS nhiên, danh tiếng đáng ghen tị mà nền kinh tế Hà Lan được hưởng trong nhiều năm đã mất dần vẻ rSc rỡ khi nước này phải chịu không Lt tác động tiêu cSc dẫn đến những hậu quả nặng nề sau này. Đầu tiên, lĩnh vSc sản xuất của quốc gia bị suy giảm trong suốt những năm 1960 và đến những năm 1970. Th€ hai, vấn đề việc làm trong ngành sản xuất giảm đều đặn trong cùng thời gian. Vào năm 1964, Hà Lan có 1.823.000 công nhân trong ngành công nghiệp nhưng đến năm 1986, con số này đã giảm xuống còn 1.381.000 - chiếm 25% giảm việc làm trong ngành.

Lĩnh vSc sản xuất của quốc gia này không hề tăng kể từ năm 1974 và kéo dài tình trạng đó suốt một khoảng thời gian. Số liệu sản xuất giảm mạnh từ 6.5% năm 1963 về 0.9% năm 1974 và tụt xuống m€c 0.3% vào năm 1983. Theo đó, chỉ trong vịng 5 năm từ 1973 đến 1978 số liệu sản xuất đã giảm 86% và 95% trong 10 năm do ảnh hưởng của căn bệnh Hà Lan. Tổng vốn đầu tư của doanh nghiệp đã giảm gần 15%. Tỷ lệ lợi nhuận trong thu nhập quốc dân, trung bình là 16.8% từ năm 1965 đến năm 1970, đã giảm xuống chỉ cịn 3.5% trong 5 năm sau đó.

Vấn đề việc làm trong ngành sản xuất cũng giảm đều đặn trong giai đoạn này với m€c giảm là 16% kể từ năm 1970. Chỉ trong 5 năm đầu tiên, đã giảm từ -0.5% (1973) xuống chỉ còn -2.7% (1978). Tỷ lệ thất nghiệp năm 1970 là 1.1% đã tăng lên thành 5.1% năm 1977. Trong số đó, tỷ lệ đủ điều kiện để nhận trợ cấp dài hạn đã tăng từ 20% vào năm 1965 lên hơn 60% năm 1977.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>Bảng 1. Số liệu về tác động tiêu cực của căn bệnh Hà LanSản xuất ở Hà Lan:</b>

<b>Phần trăm thay đổi trung bình hằng năm</b>

<b>Việc làm sản xuất ở Hà Lan:Phần trăm thay đổi trung bình hằng năm</b>

<i>(Nguồn: Kremers, 1986).</i>

Tuy nhiên, ở bên ngoài, Hà Lan vẫn tỏ ra rất mạnh mẽ. Đồng Guild đã từng là một trong những đồng tiền mạnh nhất trên thế giới, đã tăng 16.4% tLnh theo tỷ trọng thương mại kể từ tháng 12 năm 1971. Tài khoản vãng lai thâm hụt hàng năm 130 triệu USD trong giai đoạn 1961-1971 vẫn đạt được thặng dư mạnh mẽ qua cú sốc của giá dầu tăng cao hơn - trung bình gần 2 tỷ USD/năm trong giai đoạn 1972-1976.

Trước thSc tiễn này, nhóm tác giả thSc hiện đề tài nhằm trình bày rõ góc nhìn sâu sắc về căn bệnh Hà Lan cổ điển cũng như các tác động của nó đến các nền kinh tế khác trên thế giới để rút ra bài học kinh nghiệm cho các nước trong giai đoạn phát triển sau này. Đồng thời, đề tài cũng nêu lên thSc trạng và giải pháp đề xuất cho các quốc gia đang phát triển, trong đó có Việt Nam.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>CHƯƠNG 1: LÝ LUÂXN CHUNG VỀ CĂN BÊXNH HÀ LAN1.1. Khái niệm </b>

“Căn bệnh Hà Lan” là thuật ngữ được các nhà kinh tế học sử dụng để mô tả nguy cơ suy giảm mạnh của khu vSc sản xuất nào đó trong nước khi mô :t quốc gia tập trung khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên để xuất khẩu khiến tỷ giá hối đoái tăng. Mở rộng hơn, thuật ngữ này cũng dùng để chỉ tình trạng giảm sút của nền kinh tế do có sS gia tăng dịng ngoại tệ nói chung như sS tăng nhanh giá tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu hay nguồn viện trợ từ nước ngoài như nguồn vốn FDI (Barder, 2006). Căn bệnh Hà Lan dẫn đến những hậu quả không mong muốn xuất phát từ việc sử dụng và khai thác tài nguyên thiên nhiên khơng hợp lý làm trì trệ nền kinh tế và gây ảnh hưởng xấu đến phát triển bền vững trong tương lai.

Ban đầu, căn bệnh Hà Lan chỉ đề cập tới việc khai thác tài nguyên không hợp lý nhưng sau này nó cịn đề cập tới mọi nguồn thu ngoại tệ khổng lồ, bao gồm cả việc tăng giá hàng xuất khẩu và vồn đầu tư nước ngoài.

<b>1.2. Nguồn gốc Căn bệnh Hà Lan </b>

Vào những năm 1960, trong q trình thăm dị, các nhà địa chất Hà Lan đã phát hiện ra mô :t nguồn khL đốt tS nhiên với trữ lượng rất lớn ở Biển Bắc. Nhờ vào việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên này để xuất khẩu, Hà Lan đã thu về được nguồn ngoại tệ khổng lồ và nền kinh tế trở nên giàu có nhanh chóng. Tuy nhiên, nguồn ngoại tệ này cũng đã đẩy giá đồng guild của Hà Lan tăng mạnh khiến cho giá cả các mặt hàng xuất khẩu khác trở nên kém cạnh tranh và dần mất thị phần trên thị trường thế giới. Mặt khác, ChLnh phủ Hà Lan đã tăng ngân sách, đầu tư vào nhiều lĩnh vSc kém hiệu quả, sản xuất hàng hóa phi ngoại thương khơng có s€c cạnh tranh. Khi nguồn khL đốt được khai thác hết, nguồn tiền không đủ để đáp €ng những nhu cầu chi tiêu của quốc gia, cầu trong nước giảm, đồng thời nền kinh tế Hà Lan gặp nhiều khó khăn như lạm phát tăng, xuất khẩu các ngành sản xuất truyền thống như sản phẩm nông nghiệp và hàng điện tử giảm sút, chi phL sản xuất trong nước tăng lên, đồng đô la trên thị trường trong nước bị sụt giá, tỷ lệ tăng trưởng thu nhập thấp, tỷ lệ thất nghiệp tăng... Nền kinh tế Hà Lan vì thế đã phải gánh chịu tổn thất nặng nề suốt mô :t khoảng thời gian dài.

Năm 1977, tạp chL <i>The Economist </i>đã lần đầu đưa thuật ngữ “Căn bệnh Hà Lan” trở thành tiêu đề tạp chL để mơ tả tác động của việc tìm ra mỏ khL đốt tS nhiên ở vùng Biển Bắc đến nền kinh tế của Hà Lan. Từ đó về sau, thuật ngữ này dùng để nói về mối quan hệ giữa việc phát hiện nguồn tài nguyên thiên nhiên mới gắn với sS tụt hậu của sản xuất trong nước đối với mô :t quốc gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>1.3. Quá trình hình thành Căn bệnh Hà Lan </b>

Việc gia tăng của cải mơ :t cách nhanh chóng tưởng chừng như chỉ mang lại lợi Lch cho quốc gia đó nhưng ẩn ch€a bên cạnh là cả những hậu quả bất lợi nghịch lý gây ra hệ lụy vô cùng kinh khủng cho nền kinh tế.

SS phát hiện ra trữ lượng tài nguyên lớn của người Hà Lan làm cho giá trị ngành xuất khẩu khL đốt tăng vọt lên, ngành khai thác phát triển mạnh, tỷ trọng xuất khẩu tăng, đóng góp nhiều cho GDP và làm tăng nguồn thu nhập cho chLnh quốc gia. ChLnh điều này đã khiến cho tỷ giá hối đoái tăng lên và m€c lương chung cũng tăng lên vơ tình gây ra áp lSc lớn đối năng lSc cạnh tranh của các ngành thương mại khác trong nền kinh tế. Như mô :t hệ quả tất yếu, khi m€c lương chung tăng lên thì thu nhập của người dân cũng tăng lên theo làm cho nhu cầu các mặt hàng tiêu dùng tăng lên, áp lSc từ nhu cầu trong nước sẽ đấy giá cả lên cao. Cùng lúc này tỷ giá tăng lên t€c là mô :t đơn vị ngoại tệ mua được Lt hàng hoá dịch vụ trong nước hơn trước đây. Do đó người tiêu dùng phải chuyển sang sử dụng hàng ngoại nhập như là mô :t lợi chọn tối ưu bởi hàng nhập khẩu rẻ hơn so với hàng trong nước. Nhà nước bắt buô :c phải gia tăng nhập khẩu, các nhà sản xuất trong nước đ€ng trước thách th€c cạnh tranh với hàng hóa nước ngồi.

Có thể nói khi mơ :t quốc gia thu được nguồn ngoại tệ lớn có thể gây ra hai hiệu €ng: Hiệu €ng tiêu dùng và hiệu €ng chuyển dịch nguồn tài nguyên. Nếu tất cả nguồn tiền được chi dùng hết cho nhập khẩu thì khơng có tác đơ :ng trSc tiếp tới nguồn cung tiền quốc gia hay nhu cầu hàng hoá sản xuất trong nước. Nhưng giả sử nguồn ngoại tệ được chuyển sang đồng tiền địa phương và được chi tiêu vào những hàng hố chỉ phục vụ tiêu dùng nơ :i địa thì điều xảy ra tiếp theo phụ th :c vào việc ngân hàng trung ương cố định hay thả nổi tỷ giá đồng tiền của nước đó so với mơ :t đồng tiền mạnh trên thế giới.

Nếu tỷ giá hối đoái được cố định, giao dịch chuyển từ ngoại tệ sang nô :i tệ sẽ tăng nguồn tiền của quốc gia và áp lSc từ nhu cầu trong nước sẽ đấy giá cả lên cao. ThSc tế này dẫn đến việc nâng cao giá trị thSc của tỉ giá hối đối – t€c là mơ :t đơn vị ngoại tệ mua được Lt hàng hoá dịch vụ trong nước hơn trước đây. Nếu tỷ giá hối đoái được thả nổi, nguồn cung ngoại tệ tăng sẽ đẩy giá trị đồng tiền trong nước lên, và tỷ giá thSc tế cũng được nâng cao mặc dù trong trường hợp này tăng là do tỷ giá danh nghĩa hơn là do giá cả trong nước. Trong cả hai trường hợp, việc giá trị của tỷ giá hối đoái được nâng cao hơn so với thSc tế làm s€c cạnh tranh của các ngành xuất khẩu yếu đi và khiến ngành xuất khẩu truyền thống bị đình trệ. Tồn bơ : q trình này được gọi là “hiệu €ng tiêu dùng”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Đồng thời, các nguồn lSc (vốn và lao động) sẽ được chuyển hướng sang sản xuất hàng hóa cho tiêu dùng trong nước để đáp €ng nhu cầu trong nước ngày càng tăng, cũng như cho sS bùng nổ của ngành công nghiệp dầu mỏ. Cả hai sS thay đổi này sẽ ảnh hưởng đến xuất khẩu truyền thống đã đình trệ. Hiện tượng này được gọi là "hiệu €ng dịch chuyển tài nguyên".

SS gia tăng của lĩnh vSc xuất khẩu tài nguyên ngày càng có tác động tiêu cSc đến nền kinh tế. Khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt và lợi thế so sánh không cịn, giá hàng hóa xuất khẩu giảm, nguồn thu ngoại tệ giảm đột ngột và các ngành công nghiệp khác bị bỏ bê trước khi kịp thLch €ng. Nền kinh tế khủng hoảng, từ từ tê liệt, giống như một cơ thể với hệ thống miễn dịch bị phá hủy khơng cịn s€c đề kháng.

Từ trường hợp của Hà Lan, chúng ta có thể khái qt tồn bơ : triệu ch€ng của “căn bệnh Hà Lan” như sau: Một quốc gia khi thu được nguồn ngoại tệ lớn có thể sẽ dẫn đến hai tác đô :ng lớn là tác đô :ng về chi tiêu và tác đô :ng về lơi kéo nguồn lSc.

<b>Hình 1. 1. Tác động của căn bệnh Hà Lan</b>

 Tác đô :ng chi tiêu (Resource Spending Effect)

Khi nguồn ngoại tệ chảy vào trong nước mơ :t cách nhanh chóng với số lượng lớn sẽ làm cho lượng cung ngoại tệ trở nên dồi dào trong khi cầu vẫn không đổi dẫn đến thay đổi tỷ giá hối đối. Kết quả là đồng nơ :i tệ tăng giá, đồng ngoại tệ mất giá, hàng hóa trong nước tăng giá so với thế giới. Ngành xuất khẩu kém cạnh tranh trên thị trường thế giới, hàng nhập khẩu rẻ hơn bao giờ hết xuất hiện trong nước, người dân đổ xô mua hàng nhập khẩu, sản xuất trong nước thất bại vì khơng cạnh tranh được trên thị trường của chLnh mình. Lượng nhập khẩu tăng mạnh khiến ngành hàng xuất khẩu phi tài nguyên giảm xuống rõ rệt. Đây là triệu ch€ng thể hiện những mầm mống đầu tiên của “căn bệnh Hà Lan”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

 Tác đô :ng lôi kéo nguồn lSc (Resource Movement Effect)

Nền kinh tế tập trung nguồn lSc vào công nghiệp do thu nhập rất lớn từ ngoại hối và phát triển nguồn lSc này thay vì tập trung vào lĩnh vSc thế mạnh nơng nghiệp. Nông nghiệp thiếu tập trung dẫn đến chất lượng và năng suất giảm sút. Với sS phát triển của các ngành khai thác tài nguyên đã làm tăng thu nhập của các ngành này, thu hút một phần lớn lSc lượng lao động từ nông nghiệp và các ngành khác. Mặc dù nguồn cung lao động trong một số ngành khai thác tài nguyên đã tăng lên nhưng ngành khai thác vẫn chưa hiệu quả do những lao động này khơng có tay nghề cao và chưa có tác phong làm việc (phần lớn là từ nông thôn chuyển sang) nên ngành cơng nghiệp khai khống hoạt đơ :ng mơ :t cách khơng hiệu quả. Kết quả gây ra tình trạng cung lao động dư thừa đáng kể tại mô :t số ngành, mô :t số ngành khác lại thiếu hụt lao đơ :ng ở m€c trầm trọng. Từ đó, quá trình sản xuất trì trệ giảm sút và tác động bất ổn đến nền kinh tế nội quốc. Đây được xem là triệu ch€ng th€ hai của “căn bệnh Hà Lan”.

Như vậy, nếu một quốc gia mắc phải “căn bệnh Hà Lan” thì nền kinh tế sẽ rơi vào tình trạng lạm phát gia tăng (thu nhập tăng, nhu cầu lương thSc tăng). Nguyên nhân chủ yếu là do việc bỏ bê các ngành sản xuất truyền thống dẫn đến cung khơng đủ cầu. Ngồi ra, thu nhập tăng cũng làm tăng giá nông sản, chắc chắn sẽ kéo theo giá các mặt hàng khác phải nhập khẩu (nhập khẩu từ nước ngoài) cao hơn; nguyên nhân làm cho thu nhập quốc dân (GDP) giảm là do nguồn thu nhập chLnh đến từ ngành khai thác tài nguyên và các ngành sản xuất khác không tạo ra thu nhập hoặc thu nhập không đáng kể; áp lSc việc làm thêm căng thẳng (khi vốn và nguồn nhân lSc được chuyển từ ngành này sang ngành khác, ngành này buộc phải thu hẹp và người lao động phải tìm kiếm việc làm mới), kinh tế đình trệ, suy thối,... Đến một lúc nào đó, khi tài nguyên thiên nhiên cạn kiệt và nguồn thu ngoại tệ khơng cịn, đất nước sẽ khơng có đủ ngoại hối để duy trì nền kinh tế.

<b>1.4. Giải th^ch Căn bệnh Hà Lan 1.4.1. Mơ hình cổ điển </b>

❖ Nội dung:

Mơ hình cổ điển của Căn bệnh hà Lan được nghiên c€u bởi Corden và Neary năm 1982 dSa trên giả thiết rằng nền kinh tế được chia làm 2 khu vSc: khu vSc xuất khẩu (tradable sector) và khu vSc không xuất khẩu (non-tradable). Trong đó, khu vSc xuất khẩu được chia làm hai khu vSc nhỏ là khu vSc “bùng nổ” (booming sector) - khu vSc khai thác tài nguyên, và khu vSc “trì trệ” (non-booming sector) - khu vSc chế tạo.

Các tác giả này chia nền kinh tế đang trải qua thời kì bùng nổ xuất khấu thành ba phần: trong đó bộ phận hàng hóa dù đang được xuất khẩu ồ ạt hay đang bị chững lại là

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

hai bộ phận hàng hóa có giá trị giao thương phục vụ xuất khẩu, còn lại là bộ phận hàng hố khơng có giá trị trao đổi lớn – nguồn này chủ yếu cung cấp cho nhu cầu trong nước như ngành bán lẻ, dịch vụ và xây dSng. Các nhà kinh tế học này đã chỉ ra rằng khi một đất nước mắc phải căn bệnh Hà Lan, ngành xuất khẩu truyền thống sẽ bị hai bộ phận kia lấn lướt.

Với các giả thiết là tổng lSc lượng lao đô :ng không đổi, nền kinh tế trong trạng thái tồn dụng lao đơ :ng và tỷ giá hối đối danh nghĩa cố định, mơ hình được thể hiện rõ qua hình sau đây:

<b>Hình 1. 2. Mơ hình cổ điển (Corden và Neary, 1982)</b>

Trong khn khổ này, việc bùng nổ xuất khẩu sẽ gây ra sS thu hẹp của khu vSc thương mại không bùng nổ (non-booming tradable sector) thông qua hai tác động: di chuyển nguồn lSc và tác động chi tiêu.

❖ Tác động:

• Hiệu €ng di chuyển nguồn lSc (resource movement effect).

<b>Hình 1. 3. Mơ hình hiệu ing di chuyển nguồn lực (Corden và Neary, 1982)</b>

Hiệu €ng di chuyển nguồn lSc diễn ra khi các sản phẩm cận biên của các yếu tố tăng lên trong khu vSc đang bùng nổ (như khai thác tài nguyên). Lượng cầu về lao đô :ng của khu vSc này tăng lên, thu hút lao động ra khỏi các khu vSc khơng bùng nổ có thể trao đổi (non-booming tradable sector) và khu vSc phi thương mại (non-tradable

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

sector). Lao đô :ng từ hai khu vSc này chuyển sang khu vSc khai thác làm cho khu vSc sản xuất bị thiếu lao đô :ng và trở nên suy thối. Q trình này được gọi là phi cơng nghiệp hóa trSc tiếp (Direct Reindustrialize).

SS phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp khai thác đã nâng cao thu nhập của người lao động trong lĩnh vSc này. Do đó, nhu cầu tiêu dùng của họ cũng ngày càng cao. Đây là lý do thúc đẩy sS phát triển mạnh mẽ của khu vSc phi kinh doanh (non-tradable sector). SS tăng trưởng này lại đòi hỏi sS luân chuyển của các nguồn lSc từ khu vSc chế tạo và khiến cho khu vSc này ngày ngày càng trì trệ. Quá trình này được gọi là tái cơng nghiệp hóa gián tiếp (Indirect Reindustrialize). Mơ hình này được hai nhà nghiên c€u W. Max Corden và J. Peter Neary khái niệm là hiệu €ng di chuyển nguồn lSc trong tác động của căn bệnh Hà Lan (resource movement effect).

• Hiệu €ng tiêu dùng:

Theo lý thuyết của Migara (Migara, K., & De Silva, 1994), thị trường có hai thành phần tham gia là hàng hóa khơng thương mại (Nontradable) và thương mại (Tradable). Trong đó, N là những loại hàng hóa và dịch vụ sản xuất trong nước chỉ phục vụ nhu cầu trong nước như dịch vụ, xây dSng…và không tham gia xuất khẩu hay nhập khẩu; T là tất cả các loại hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong nước để phục vụ hoạt đô :ng xuất và nhập khẩu cũng như là cầu nô :i địa.

Hiệu €ng tiêu dùng xảy ra khi những người có thu nhập từ yếu tố bùng nổ tăng lên, và lượng thu nhập này sẽ được chi cho cả hai mặt hàng là N và T. Nếu cầu của N so với thu nhập là co dãn thì thu nhập tăng sẽ đẩy giá N tăng. Khi giá N tăng nghĩa là đầu vào của T cũng tăng theo như giá của nguyên, nhiên liệu hay lương nhân công. Tuy nhiên giá của T lại cố định bởi đó là những mặt hàng được giao dịch quốc tế và bị áp dụng nguyên tắc mô :t giá. Do vậy, khi chi phL sản xuất tăng, lợi nhuận của các nhà sản xuất T sẽ bị giảm. Do đó, cầu T tăng sẽ được thay thế bằng các mặt hàng nhập khẩu.

Khi tỷ giá danh nghĩa là cố định, thu nhập tăng nhưng sẽ khơng kéo theo giá của T tăng theo. Khi đó, cầu tăng của N sẽ làm giá tăng và do đó mà tỷ giá hối đối thSc tế tăng theo. Với tỷ giá hối đoái được định nghĩa như sau:

Q Trong đó:

Q: là tỷ giá hối đối thSc tế.

e: là tỷ giá hối đối danh nghĩa giữa nơ :i tệ và ngoại tệ. Pt, Pn: là giá của N và T.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Pn tăng sẽ làm giá trị Q giảm. Hiện tương này được gọi là sS tăng tỉ giá hối đoái thSc tế bởi giá trị nô :i tệ tăng so với ngoại tệ. Khi đồng nô :i tệ tăng so với ngoại tệ sẽ làm s€c cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu giảm, cùng với đó lại làm nhập khẩu tăng. T€c là hiệu €ng tiêu dùng trên không những sẽ làm tăng giá các mặt hàng N trong nước, gây áp lSc lạm phát; đồng thời nó cịn làm các ngành sản xuất các mặt hàng T xuất khẩu khác bị suy yếu và lượng nhập khẩu lại gia tăng.

<b>1.4.2. Mơ hình 4 khu vực </b>

❖ Nội dung

Mơ hình cổ điển sau này đã có những cải tiến lý thuyết sâu rộng bằng cách thay đổi các giả định và mở rộng phạm vi phân tLch hơn nữa. Một số cải tiến với mơ hình gốc chẳng hạn như cân nhắc về tiền tệ, độ c€ng của thị trường, tLnh di động của các yếu tố quốc tế, điều chỉnh kinh tế năng động và lan tỏa kiến th€c của Corden (1984), van Wijnbergen (1984), Bruno & Sachs (1982), Buiter & Purvis (1983), Krugman (1987) and Matsuyama (1992).

Sau này De Silva (1991) và Nnadozie (1991) đã mở rơ :ng mơ hình lên thành gồm 4 khu vSc. Mô :t số nghiên c€u khác đã tìm cách nới lỏng các giả thiết trong mơ hình của Corden và Neary, chẳng hạn như giả thiết về tồn dụng lao đơ :ng.

Mơ hình 4 khu vSc được nghiên c€u và bổ sung nhiều lần bởi nhiều kinh tế gia như Krugman, Ohyama, Helpman… và cả World Bank, IMF. Chúng ta có thể tham khảo bài nghiên c€u và tổng hợp khá đầy đủ của O De Silva năm 1994.

Về cách phân chia nền kinh tế, mơ hình 4 khu vSc cũng chia tradable sector thành khu vSc có sS bùng nổ và khu vSc khơng có sS bùng nổ. Điểm khác biệt là khu vSc nontradable cũng được chia thành khu vSc sản xuất hàng tư bản và khu vSc sản xuất hàng tiêu dùng. Bên cạnh đó, thay vì nghiên c€u nông nghiệp như mô :t khu vSc đơn nhất giống mơ hình 2 khu vSc, mơ hình 4 khu vSc xem khu vSc nông nghiệp gồm khu vSc sản xuất nhằm xuất khẩu thu lợi nhuận (cash crops) và khu vSc sản xuất lương thSc tiêu dùng trong nước (food crops) thay vì mơ :t khu vSc đơn nhất.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>Hình 1. 4. Mơ hình bốn khu vực (De Silva, O, 1994)</b>

❖ Tác động

• Hiệu €ng di chuyển nguồn lSc

Về cơ bản, mơ hình 4 khu vSc cũng thừa nhận tác đô :ng duy chuyển nguồn lSc như mơ hình 2 khu vSc. Tuy nhiên, do có sS phân chia khu vSc chi tiết hơn, mơ hình này phân tLch các tác đơ :ng chi tiết hơn.

Cụ thể, đối với khu vSc nông nghiệp, hiệu €ng duy chuyển nguồn lSc chỉ ra rằng, do đồng nô :i tệ tăng giá làm giảm s€c cạnh tranh mà khu vSc sản xuất xuất khẩu cash crops sẽ bị thu hẹp lại trong lúc khu vSc food crops lại có xu hướng được mở rơ :ng hơn.

Nghiên c€u cụ thể của Benjamin, Devarajan và Weiner (1989) đã cho thấy rõ tác đơ :ng này. Đó là sS sụt giảm mạnh mẽ của cash crops trong khi food crops lại phản €ng tLch cSc với sS bùng nổ của khai thác dầu ở Cameroon những năm 1979-1985. Hiệu €ng di chuyển nguồn lSc cũng diễn ra tương tS như vậy trong khu vSc công nghiệp. Mô :t số ngành sản xuất như sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất hàng tư bản…phục vụ cho nhu cầu trong nước có xu hướng phát đạt hơn do dịng ngoại tệ làm cầu tăng.

Trong lúc các ngành công nghiệp sản xuất xuất khẩu có dấu hiệu suy thối do m€c đơ : cạnh tranh giảm. Ngồi ra, mơ hình 4 nhân tố cũng chỉ ra rằng, các ngành sản xuất hàng tư bản thường có m€c tăng trưởng cao hơn các ngành hàng tiêu dùng do dòng

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

ngoài tệ thường được ưu tiên cho việc đầu tư như phát triển cơ sở hạ tầng… • Hiệu €ng tiêu dùng

Về hiệu €ng tiêu dùng, mô hình 4 khu vSc khơng có nhiều khác biệt với mơ hình 2 khu vSc. Thu nhập cao hơn tạo xu hướng tiêu dùng cao hơn trong nước và do đó thúc đẩy các ngành sản xuất cho tiêu dùng trong nước phát đạt hơn trong lúc nền kinh tế có nguy cơ lạm phát.

<b>1.4.3. Mơ hình EB – IB</b>

<b>Hình 1. 5. Mơ hình EB – IB (Salter 1959)</b>

Mơ hình quản lý nền kinh tế mở (EB – IB) giải thLch căn bệnh Hà Lan như sau: Ban đầu, nền kinh tế đang ở điểm cân bằng lý tưởng (1). Khi có lượng ngoại tệ lớn đổ vào mà khơng có chLnh sách vơ hiệu hóa đủ tốt, nguồn cung hàng ngoại thương tăng lên với bất kỳ giá nào, khi đó đường EB dịch chuyển sang phải (EB’). Cơ chế tS điều chỉnh sẽ đẩy nền kinh tế di chuyển từ điểm cân bằng (1) sang điểm cân bằng (2) với tỷ giá hối đoái thSc giảm và tổng cầu tăng. Khi dòng ngoại tệ vào càng nhiều thì sẽ làm đồng tiền trong nước có xu hướng tăng giá. Điều này đồng nghĩa với 2 điều.

- Th€ nhất, hàng hóa phi ngoại thương sẽ trở nên đắt tương đối so với hàng hóa ngoại thương.

- Th€ hai, hàng hóa sản xuất trong nước trở nên kém cạnh tranh hơn so với hàng hóa nước ngồi. Điều này làm cơ cấu sản xuất và tiêu dùng thay đổi, gây ra quá trình tái phân bổ nguồn lSc theo thời gian.

Cho đến lúc này, trục trặc của nền kinh tế vẫn chưa lô : rõ. Thậm chL nền kinh tế còn đang tiêu dùng nhiều hơn mà không phải làm việc nhiều hơn, người dân trong nước có

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

khả năng kiểm sốt nguồn lSc nước ngồi nhiều hơn, nơ :i tệ thì tăng giá. Tuy nhiên các nguồn lSc từ trên trời không thể duy trì mãi mãi. Hàng xuất khẩu giảm giá còn các nguồn vốn đi vào cạn dần. Đường EB sẽ trở về đường EB’ ban đầu và nền kinh tế rơi vào trạng thái mất cân bằng.

Tác đô :ng chi tiêu: Các khoản thu “từ trên trời” đã làm cho thị hiếu tiêu dùng thay đổi theo hướng tiêu dùng quá m€c. Khi các khoản tài trợ cho chi tiêu trước đây bất ngờ khơng cịn nữa, việc điều chỉnh tiêu dùng trong ngắn hạn cũng gặp khó khăn. Và chLnh điều này sẽ làm cho cán cân ngoại thương thâm hụt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>CHƯƠNG 2: BÀI HỌC TỪ CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VỀ “CĂNBỆNH HÀ LAN”</b>

<b>2.1. Nigeria và căn bệnh Hà Lan</b>

Nigeria là một thuộc địa cũ của Anh, giành được độc lập từ năm 1960. Nigeria nằm ở bờ biển phLa Tây của lục địa châu Phi. Đây cũng là một nước đông dân nhất châu Phi. Dân số ở nước này chia thành hai nhóm tơn giáo và sắc tộc khác nhau dẫn đến tình trạng ln có các xung đột về tơn giáo, khu vSc và sắc tộc. Nigeria là một nền kinh tế cơ bản dSa trên sản xuất nông nghiệp. Vào đầu những năm 1970, Nigeria phát hiện ra trữ lượng dầu mỏ khổng lồ thì đây là nguồn tài nguyên quan trọng bậc nhất đối với nền kinh tế của đất nước này. Việc khai thác dầu để xuất khẩu đã đem lại cho Nigeria một lượng ngoại tệ cSc kỳ lớn bởi 90% kim ngạch xuất khẩu của nước này là từ xuất khẩu dầu (nhất là vào giai đoạn 73 – 74: giá dầu tăng lên gấp 4 lần so với trước đó, giai đoạn 79 – 80: giá dầu lại tăng thêm gấp đôi).

<b>Biểu đồ 2. 1. Sự phụ thuộc vào dầu mỏ của Nigeria giai đoạn 1982 - 2017</b>

<i>(Nguồn: Central Bank of Nigeria, Statistical Bulletin, 2017).</i>

Các nhà khai thác lần lượt tăng sản lượng dầu xuất khẩu, nhưng cũng chLnh điều này làm cho giá trị đồng nội tệ tăng lên do cung nội tệ không đáp €ng đủ lượng cung ngoại tệ tăng nhanh quá m€c, kết quả là tỷ giá hối đoái bị tác động thay đổi khó lịng kiểm sốt. Và do đó, người dân bắt đầu đổ xơ vào việc tiêu dùng hàng nhập khẩu do hàng hóa nhập khẩu rẻ đi một cách tương đối so với hàng nội địa do giá nội tệ tăng. Lao động từ các khu vSc sản xuất khác đổ xô vào khu vSc khai thác tài nguyên gây

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

nên sS mất cân bằng. Cịn s€c sản xuất hàng hóa cơng nghiệp và nông nghiệp trong nước không thể cạnh tranh với thế giới do chi phL sản xuất tăng cao quá m€c, hàng nhập lại rẻ mạt, nền sản xuất nội địa gần như bị thủ tiêu.

<b>2.2. Bài học từ Venezuela</b>

Vào năm 2011, Venezuela là quốc gia có trữ lượng dầu đã được kiểm ch€ng cao nhất thế giới. Nó đã vượt qua các quốc gia như Ả Rập Xê Út và Iran, khiến họ phụ thuộc rất nhiều vào giá dầu, vốn đã được ch€ng minh là dễ biến động. Ngành công nghiệp dầu khL này chiếm đến 95% kim ngạch xuất khẩu và khoảng một phần tư GDP của cả nước. Nhiều người có thể mong đợi đây sẽ là một quốc gia dồi dào, tương đới thịnh vượng hoặc Lt nhất là mạnh về kinh tế. Nhưng thSc tế một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nổ ra, lạm phát lên đến 800%, lương thSc và thuốc men khó kiếm được và một số cuộc biểu tình đã nổ ra.

Hiện tượng này được gọi là “lời nguyền tài nguyên” và nó hiện diện xuyên suốt lịch sử phát triển của Venezuela. Hoặc có thể nói rõ hơn đây chLnh là “Căn bệnh Hà Lan”. Câu chuyện của Venezuela bắt đầu vào năm 1922 khi họ phát hiện ra được quặng dầu mỏ. Bảy năm sau đó, sản lượng dầu của họ chỉ đ€ng sau Hoa Kỳ. ChLnh với số lượng dầu mỏ quá cao nên họ khơng thể tS quản lý một mình mà phải phụ thuộc vào Standard Oil, Gulf và Royal Dutch.

Đến năm 1930, sS phát triển của đất nước này đã khiến cho dầu mỏ chiếm đến 90% kim ngạch xuất khẩu. Venezuela trở thành một đất nước phụ thuộc vào xuất khẩu và lượng nhập khẩu bị giảm đi khá nhiều. Một bác sĩ kinh tế đã nhìn thấy dấu hiệu của “Căn bệnh Hà Lan” qua sS phát triển này của Venezuela. Và cũng bắt đầu từ đó, đất nước này đã thu nhiều lợi nhuận hơn, nhiều quyền sở hữu hơn và thuế cao hơn từ các công ty dầu mỏ nước ngoài.

Bước ngoặc của Venezuela chLnh vào thời kì quốc hữu hố năm 1976, tập đồn dầu khL quốc gia với trữ lượng dầu lớn nhất thế giới PDVSA Petróleos de Venezuela.S.A được thành lập. Tuy vậy, tập đồn này khơng tránh khỏi việc bị hút xuống những vịng xốy khơng mong muốn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

<b>Biểu đồ 2. 2. Sản lượng dầu thô của Venezuela giai đoạn 1965 – 2017</b>

<i>(Nguồn: BP Statistical Review of World Energy, 2018).</i>

Khi đồng ngoại tệ được sử dụng để thanh tốn cho hàng hóa nhập khẩu, Venezuela nhanh chóng trở nên phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Việc nhập khẩu hàng hóa ở m€c độ cao như Venezuela, thay vì kLch thLch sản xuất trong nước, về lâu dài sẽ gây tổn hại lớn cho sản xuất trong nước và nền kinh tế của đất nước.

SS bùng nổ về dầu mỏ ban đầu mang lại nhiều của cải hơn cho đất nước, nhưng cuối cùng lại dẫn đến m€c nợ tăng lên, sản xuất trong nước bị bỏ bê và phụ thuộc vào hàng hóa nhập khẩu. Các chLnh sách bội chi và nhập khẩu này chỉ có thể được duy trì khi Venezuela tiếp tục nhận được nguồn thu từ ngành dầu mỏ. Một khi tiền ngừng chảy vào, khủng hoảng sẽ xảy ra. SS kiểm soát ngoại tệ làm cho giá dầu và đô la giảm. Bằng cách th€c nhập khẩu được thanh tốn bằng đơ la, Venezuela phụ thuộc vào nhập khẩu và đô la trở nên khan hiếm đối với người dân Venezuela. Việc thiếu hụt các yêu cầu cơ bản như thSc phẩm và thuốc men là không thể tránh khỏi. Sau khi Tổng thống Chavez qua đời và Tổng thống Maduro nhậm ch€c vào năm 2013, phần lớn các vấn đề được tạo ra dưới thời chLnh quyền Chavez vẫn tồn tại, trong khi giá dầu giảm chỉ càng làm xấu thêm tình hình kinh tế xã hội dưới nhiệm kỳ của Tổng thống Maduro. Căn bệnh Hà Lan kéo theo sS bùng nổ dầu mỏ không phải là nguyên nhân duy nhất dẫn đến tình trạng bất ổn dân sS có thể thấy ngày nay, nhưng nó đã tạo ra mảnh đất màu mỡ cho một số chLnh sách kinh tế được thSc hiện, góp phần làm bùng phát các cuộc biểu tình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<b>2.3. Nước Anh và căn bệnh Hà Lan</b>

Từ thập niên 70, nước Anh xuất hiện với vai trò là một nước sản xuất dầu mỏ và đến năm 1980, Anh đã trở thành nước xuất khẩu dầu mỏ với quy mơ lớn. Vì sS gia tăng đột biến về lượng dầu xuất khẩu, cơ cấu hàng hóa của nước Anh có nhiều thay đổi lớn. Theo lý thuyết, cán cân thương mại về các mặt hàng sản xuất sẽ di chuyển theo hướng ngược lại của cán cân thương mại xuất khẩu dầu mỏ. Lý do chLnh của việc này là nguồn ngoại tệ đổ vào ào ạt trong nước làm tỷ giá hối đoái tăng mạnh, đẩy giá hàng nội địa cao hơn hàng nước ngồi rất nhiều và do đó mà người tiêu dùng trong nước mua một tỷ lệ lớn hàng nước ngoài cũng như khách hàng nước ngoài Lt mua sản phẩm từ trong nước ra (nước Anh).

<b>Biểu đồ 2. 3. Chuyển dịch cơ cấu các ngành sản xuất tại Anh</b>

Năm 1976, khi Anh bắt đầu xuất khẩu dầu mỏ với quy mơ lớn thì việc xuất khẩu dầu đã đem lại lợi nhuận rất lớn trong khoảng thời gian này. Trong khi thị phần dầu mỏ tăng vượt trội thì thị phần mặt hàng sản xuất cũng giảm đột ngột. Cầu về hàng hóa nước Anh giảm mạnh vì giá hàng hóa trong nước tăng và lợi nhuận mang về từ việc sản xuất dầu không đủ đền bù cho khoản thua lỗ nên trong quý 1 năm 1984 đã có thâm hụt về hàng hóa bán ra từ nước Anh. Tỷ lệ thâm hụt này cũng gần bằng với lợi nhuận kiếm được từ việc sản xuất dầu. Cuối cùng, việc xuất khẩu các hàng hóa sản xuất từ nước Anh tình hình chung năm 1984 vẫn giống như năm 1976. Trên thSc tế, đồng bảng Anh đã tăng giá so với đồng đô la từ năm 1977 đến năm 1981 nhưng sau đó giảm đột ngột xuống m€c thấp kỷ lục vào năm 1985, đây là thời kỳ mà người ta có thể mong đợi m€c sản xuất dầu và khL đốt đã đẩy đồng bảng Anh lên.

</div>

×