Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.69 MB, 62 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS Nguy n Chí H i ễ ả Nhóm th c hi n: Nhóm 7 ự ệ
Lớp h c phọ ần: 222KT1002
<i>Thành ph H </i>ố ồ Chí Minh, ngày 04 tháng 04 năm 2023
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI CẢM ƠN </b>
Nhóm 7 kính gửi lời cảm ơn chân thành đến PSG.TS Nguyễn Chí Hải vì đã truyền tải đến sinh viên ngành Kinh tế chúng em những kiến thức bổ ích về môn học Kinh tế Phát triển. Đặc biệt, bài giảng của Thầy cịn khéo léo lồng ghép những ví dụ thực tiễn và góc nhìn cá nhân khiến chúng em hình dung rõ hơn về từng điểm lý thuyết và rút ra cách ghi nhớ cho riêng mình.
Thơng qua mơn học này, chúng em biết cách nhận biết, phân tích và đánh giá nền kinh tế của các nước. Đồng thời, biết thêm những kiến thức quan trọng về quá trình phát triển kinh tế của các quốc gia và những thách thức mà họ đang phải đối mặt..
Với bài tiểu luận này, chúng em đã nỗ lực rất nhiều vì là sinh viên Kinh tế, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý thuyết trong bài giảng và quá trình nghiên cứu, vận dụng, thực hiện. Kính cảm ơn Thầy đã tạo ra cơ hội để chúng em được thử thách bản thân và tạo ra một sản phẩm cụ thể với sự đầu tư nghiêm túc trong môn học.
Cuối cùng, nhóm 7 kính chúc Thầy nhiều sức khỏe và nhiệt huyết trong hành trình “trồng người” của mình.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><b>MỤC LỤC </b>
<b>MỞ ĐẦU ... 1 </b>
<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ... 2 </b>
1.1 Định nghĩa về phát triển kinh tế ... 2
1.2 Các mơ hình và lý thuyết về phát triển kinh tế ... 2
1.3 Các chỉ tiêu đo lường sự phát triển kinh tế ... 8
1.4 Những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế ... 9
1.4.1 Năng lực lao động ... 9
1.4.2 Vốn đầu tư ... 9
1.4.3 Công nghệ đổi mới... 10
1.4.4 Quản lý và điều hành kinh doanh hiệu quả... 10
<b>CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN ... 12 </b>
2.1 Khái quát về các nước đang phát triển ... 12
2.1.1 Khái niệm về các nước đang phát triển ... 12
2.1.2 Giới thiệu về một số nước đang phát triển ... 12
2.2 Các đặc điểm chung của các nước đang phát triển ... 13
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ CHO CÁC NƯỚC ĐANG
<b>PHÁT TRIỂN ... 26 </b>
3.1 Cơ hội và thách thức ... 26
3.1.1 Cơ hội ... 26
3.1.2 Thách thức ... 26
3.2 Đầu tư vào cơ sở hạ tầng ... 28
3.3 Đầu tư vào giáo dục và đào tạo ... 29
3.4 Khuyến khích đầu tư và phát triển kinh doanh tại các nước đang phát triển ... 30
3.5 Sự hợp tác quốc tế và trao đổi kinh nghiệm ... 31
<b>CHƯƠNG 4: LIÊN HỆ ĐẾN THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM ... 33 </b>
4.1 Tình hình phát triển kinh tế của Việt Nam ... 33
4.1.1 GDP ... 33
4.1.2 Tình trạng dân số ... 34
4.1.3 Phụ thuộc vào nông nghiệp ... 35
4.1.4 Chất lượng giáo dục ... 35
4.1.5 T lỷ ệ thất nghi p ệ ở Việt Nam ... 36
4.1.6 Tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng tại Việt Nam ... 37
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>DANH M C T</b>Ụ <b>Ừ VIẾT TẮT </b>
UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và văn hóa của Liên Hợp Quốc HDI <i>Human Development Index</i> Chỉ số phát triển con người ECI Employment Cost Index Chỉ s c i cách kinh t ố ả ế SDI Strategic Defense Initiative Chỉ số phát triển bền vững
<i>GDPGross domestic productTổng s n ph</i>ả <i>ẩm nội địa </i>
ILO <i>International Labour Organization</i> Tổ chức Lao động Quốc tế UNCTAD United Nation Conference on Trade
and Development
Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên hợp qu c ố OECD Organization for Economic
Cooperation and Development
Tổ chức Hợp tác và Phát tri n ể Kinh tế
UNFPA United Nation Fund Population
FAO Food and Agriculture Organization of the United Nations
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp Liên Hợp Qu c ố IMF International Monetary Fund Quỹ Tiề ệ Quốc tến t
HEIs Higher Education Institution Tổ chức Giáo d c bụ ậc cao SDGs Sustainable Development Goals các Mục tiêu Phát tri n B n ể ề
vững EDI Education Development Index Chỉ số phát triển giáo dục
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b>DANH MỤC BẢNG </b>
<b>STT </b> Tên bảng
2.1 Dân số các châu lục trên thế giới năm 2022 4.1 Hệ số GINI giai đoạn 2016-2020
4.2 Những bên cho vay lớn nhất của Việt Nam năm 2021
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">DANH MỤC HÌNH ẢN<b>H </b>
1.1 Các giai đoạn phát triển của một quốc gia - Rostow
2.1 <sup>Tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo cùng cực tại các nước đang phát </sup> triển năm 2021 (%) - mức sống 2,15 đô la/ngày
4.1 Tốc độ tăng trưởng GDP các năm 2018-2022 (%)
4.2 Số người và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo quý 2020-2022 4.3 Tỷ lệ dân số nghèo quốc gia tại Việt Nam và một số quốc gia
4.4 Tổng nguồn vốn FDI đã đầu tư vào Việt Nam từ 2010 - 2020
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>MỞ ĐẦU </b>
Đề tài “Đặc điểm chung của các nước đang phát triển và liên hệ thực tiễn Việt Nam” là vấn đề thời sự và có ý nghĩa quan trọng trong thế giới ngày nay. Các quốc gia đang phát triển được biết đến với trình độ phát triển kinh tế thấp, nghèo đói và cơ sở hạ tầng khơng đầy đủ, và Việt Nam là một ví dụ điển hình về một quốc gia đang phát triển đã trải qua quá trình chuyển đổi kinh tế và xã hội đáng kể trong những năm gần đây.
1. Tầm quan trọng của chủ đề
Phát triển kinh tế là một mục tiêu quan trọng của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, các nước đang phát triển đang gặp nhiều thách thức trong quá trình phát triển kinh tế, bao gồm cơ sở hạ tầng kém, bất bình đẳng thu nhập và mơi trường kinh doanh khó khăn. Việc nghiên cứu đặc điểm chung của các nước đang phát triển và liên hệ thực tiễn tại các nước này là rất quan trọng để đưa ra các giải pháp hiệu quả trong quá trình phát triển kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của nghiên cứu này là phân tích đặc điểm chung của các nước đang phát triển, đồng thời điểm qua những liên hệ thực tiễn trong quá trình phát triển kinh tế của các nước này. Nghiên cứu cũng sẽ tập trung vào việc phân tích các yếu tố có thể ảnh hưởng đến q trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển và liên hệ của các yếu tố này tại Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu này sẽ giúp người đọc hiểu rõ hơn về đặc điểm và quá trình phát triển kinh tế của các nước đang phát triển, đồng thời cung cấp thơng tin hữu ích cho những quyết định chính sách kinh tế tại Việt Nam. Các số liệu được sử dụng trong bài luận này được thu thập từ các nguồn đáng tin cậy và từ năm 2018 trở đi để phản ánh tình hình mới nhất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT 1.1 Định nghĩa về phát triển kinh tế </b>
Phát triển kinh tế là quá trình mà nền kinh tế của một quốc gia tăng trưởng và cải thiện theo thời gian. Nó thường được đo bằng sự gia tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình qn đầu người của quốc gia đó, giảm tỷ lệ nghèo đói, tăng tỷ lệ việc làm và cải thiện chất lượng cuộc sống cho người dân.
Ví dụ, vào những năm 1980, Trung Quốc đã thực hiện các cải cách kinh tế nhằm mở cửa thị trường cho các nhà đầu tư nước ngoài và tăng cường thương mại với các quốc gia khác. Kết quả là, GDP bình quân đầu người của nó đã tăng từ 333 đơ la năm 1980 lên 9.770 đô la vào năm 2020 và tỷ lệ nghèo giảm từ 88% xuống dưới 1%.
<b>1.2 Các mô hình và lý thuyết về phát triển kinh tế </b>
Có nhiều mơ hình và lý thuyết phát triển kinh tế giải thích cách thức các quốc gia có thể đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một số trong những cái phổ biến nhất là:
Mô hình tăng trưởng theo các giai đoạn của Rostow: được đề xuất bởi W.W. Rostow vào năm 1960, mô tả quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia thông qua 5 giai đoạn khác nhau. Các giai đoạn này gồm:
(1) Xã hội truyền thống (2) Tạo ra các tiền đề để cất cánh (3) Cất cánh
(4) Tiến tới trưởng thành;
(5) Giai đoạn tiêu dùng hàng loạt ở mức cao.
Giai đoạn đầu tiên, xã hội truyền thống, được định nghĩa là giai đoạn dựa trên khoa học và công nghệ thời kỳ tiền Newton, thường có khu vực nơng nghiệp lớn và cơ cấu xã hội đẳng cấp.
Giai đoạn thứ hai, tạo ra các tiền đề để cất cánh, liên quan đến việc áp dụng khoa học hiện đại vào nơng nghiệp và cần có các doanh nghiệp mạo hiểm và các nhà đầu tư sẵn sàng cung cấp tài chính cho các ý tưởng mới.
Giai đoạn thứ ba, cất cánh, có đặc điểm là tăng trưởng ổn định, bình thường và được coi là một cuộc cách mạng công nghiệp.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Giai đoạn thứ tư, tiến tới hoàn thiện, là giai đoạn tiến bộ liên tục lâu dài với mức đầu tư tăng cao.
Giai đoạn cuối cùng, giai đoạn tiêu dùng hàng loạt ở mức cao, là giai đoạn dài nhất và có đặc điểm là dân cư giàu có và sản xuất hàng loạt hàng tiêu dùng và dịch vụ phức tạp. (Rostow, 1960)
<b>Nguồn: Internet Hình 1.1: Các giai đoạn phát triển của một quốc gia - Rostow </b>
Điển hình nước Việt Nam bắt đầu từ giai đoạn đất nước xâm chiếm, đó là giai đoạn 1 của Rostow, đến giai đoạn 2 là đất nước mới nổi lên, giai đoạn 3 là chuyển đổi kinh tế, giai đoạn 4 là kinh tế cơng nghiệp hóa, và giai đoạn 5 là kinh tế hiện đại. Từ năm 1986, Việt Nam đã chuyển từ kinh tế kế hoạch hóa sang mơ hình thị trường, và `tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đạt mức trung bình khoảng 7,5% mỗi năm trong giai đoạn 2000 2018, đưa Việt Nam từ một quốc gia nghèo trở thành quốc gia có nền -kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực Đông Nam Á trong hai thập kỷ qua (The World Bank, 2020).
<i>Mơ hình Harrod-Domar</i>: là một mơ hình kinh tế học phát triển được đưa ra vào những năm 1940 bởi Roy Harrod và Evsey Domar. Mơ hình này tập trung vào mối
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và đầu tư, và cho rằng tốc độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào lượng tiết kiệm và đầu tư trong nền kinh tế.
Mơ hình Harrod-Domar được xây dựng dựa trên các giả định về tốc độ tiết kiệm và hiệu quả sử dụng vốn. Theo mơ hình này, tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế phụ thuộc vào tỷ lệ tiết kiệm và hiệu quả sử dụng vốn. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế được tính bằng cơng thức sau đây:
G = S/V
Trong đó: là tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, S là tỷ lệ tiết kiệm và V là G hiệu quả sử dụng vốn.
Mơ hình Harrod-Domar được sử dụng rộng rãi trong kinh tế học phát triển để giải thích tốc độ tăng trưởng của các nền kinh tế và cung cấp các chính sách kinh tế học cho các nước đang phát triển.
Tuy nhiên, mơ hình Harrod-Domar đã gặp phải nhiều hạn chế và bất cập, như việc khơng tính đến các yếu tố khác như sự tiên tiến công nghệ và tỷ lệ thất nghiệp. Mặc dù vậy, mơ hình này vẫn là một trong những mơ hình kinh tế phát triển quan trọng được sử dụng trong lĩnh vực kinh tế học.
Điển hình cho mơ hình Harrod Domar là Ấn Độ. Theo mơ hình này, tăng trưởng -kinh tế phụ thuộc vào lượng tiết kiệm và đầu tư trong nền -kinh tế. Tỷ lệ tiết kiệm ở Ấn Độ tăng từ khoảng 20,3% vào năm 2013 đến 30,1% vào năm 2019, trong khi đầu tư tăng từ 31,3% lên 32,4% trong cùng giai đoạn (The World Bank, 2021). Nhờ vào chính sách tăng cường đầu tư và tiết kiệm, Ấn Độ đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế trung bình khoảng 7,5% trong thập kỷ qua.
<i>Mơ hình Solow-Swan</i>: được đặt tên theo hai nhà kinh tế Robert Solow và Trevor Swan, những người đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của mơ hình này. Mơ hình này dựa trên một số giả định quan trọng, bao gồm:
● Kinh tế chỉ có hai yếu tố sản xuất là lao động và vốn. ● Tỷ lệ tiết kiệm là cố định.
● Công nghệ sản xuất không thay đổi. Phương trình cơ bản của mơ hình Solow-Swan là:
Y = F(K, AL)
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Mơ hình này giải thích tăng trưởng kinh tế dài hạn bằng cách nghiên cứu q trình tích lũy vốn, trong đó mức độ tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào mức độ tích lũy vốn và tốc độ giảm dần của lợi nhuận từ việc tích lũy vốn. Tuy nhiên, mơ hình Solow-Swan cũng có một số hạn chế, bao gồm việc khơng xét đến tác động của chính sách kinh tế, công nghệ và nhân lực.
Theo mơ hình này, tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào sự tích lũy vốn con người và tiến bộ công nghệ. Trong giai đoạn 2010 2019, Trung Quốc đã đầu tư mạnh vào -giáo dục và đào tạo, và đạt mức chi tiêu trung bình 4,2% của GDP vào -giáo dục trong giai đoạn 2013 2019 (The World Bank, 2021). Đồng thời, Trung Quốc cũng tăng
<b>-cường nghiên </b>
Các lý thuyết bao gồm:
Lý thuyết tập trung vào tài nguyên: là một trong những lý thuyết quan trọng nhất trong lĩnh vực quản trị chiến lược. Lý thuyết này tập trung vào vai trò của tài nguyên trong quá trình đạt được lợi thế cạnh tranh và thành cơng của doanh nghiệp. Theo đó, tài ngun được coi là yếu tố quyết định trong việc xây dựng lợi thế cạnh tranh và tạo ra giá trị cho khách hàng.
Theo Barnevik và Johanson (1993), lý thuyết tập trung vào tài nguyên khẳng định rằng "Sự khác biệt giữa các doanh nghiệp trong hiệu quả hoạt động dài hạn của chúng phụ thuộc chủ yếu vào tài nguyên độc quyền và không thể sao chép được của chúng." Lý thuyết này cho rằng, tài nguyên độc quyền của doanh nghiệp bao gồm các tài nguyên về sản phẩm, công nghệ, thương hiệu, quy trình sản xuất, văn hóa tổ chức và quan hệ khách hàng. Những tài nguyên này là những yếu tố giúp doanh nghiệp tạo ra giá trị cho khách hàng và đem lại lợi thế cạnh tranh.
Một phương trình quan trọng của lý thuyết tập trung vào tài nguyên là phương trình Solow:
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Phương trình Solow giúp xác định mối quan hệ giữa tài nguyên và sản lượng của doanh nghiệp. Nó cho thấy rằng sự gia tăng tài nguyên như vốn, lực lượng lao động và cơng nghệ sản xuất có thể dẫn đến sự tăng trưởng sản lượng của doanh nghiệp.
Nước Venezuela sở hữu lượng dự trữ dầu mỏ lớn thứ nhì thế giới. Tuy nhiên, từ năm 2018, nền kinh tế của Venezuela đã suy thoái nghiêm trọng, với GDP giảm 18% và mức lạm phát lên đến hơn 130.000% (The World Bank, 2021).
<i>Lý thu</i>yết tập trung vào thị trường: là một lý thuyết kinh tế, tập trung vào sự tập trung quyền lực trong ngành cơng nghiệp và tác động của nó đến hoạt động kinh tế (Tirole, 1988). Theo lý thuyết này, sự tập trung quyền lực trong ngành công nghiệp có thể dẫn đến giá cả cao hơn và sự thiếu hụt sản phẩm, trong khi đồng thời giảm sự cạnh tranh và khả năng tạo ra đổi mới kỹ thuật.
Một phương trình được sử dụng trong lý thuyết này là: C = <small>𝑠−𝑚</small>
<small>𝑠</small> Trong đó:
C là độ tập trung thị trường, s là tổng sản lượng của tất cả các công ty trong ngành, và m là sản lượng của cơng ty lớn nhất trong ngành. Càng cao thì sự tập trung thị trường càng lớn (Bain, 1956).
Lý thuyết tập trung vào thị trường cũng đề cập đến các hành vi độc quyền của các công ty lớn và cách chính phủ có thể can thiệp để ngăn chặn các hành vi này. Ví dụ, chính phủ có thể sử dụng chính sách đối thủ đến từ bên ngoài hoặc cải cách định luật cạnh tranh để giảm sự tập trung thị trường (Stigler, 1964).
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Nước Chile là một trong những quốc gia phát triển nhanh nhất ở Nam Mỹ trong thập kỷ qua. Điều này được cho là do chính sách thị trường mở và thuận lợi cho đầu tư nước ngoài, giúp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế (The World Bank, 2021).
Lý thuyết tập trung vào nhân lực: là một lý thuyết kinh tế phát triển, giải thích tại sao nhân lực được xem là yếu tố quan trọng nhất trong việc định hình sự phát triển của một quốc gia. Theo lý thuyết này, đầu tư vào nhân lực (bao gồm giáo dục, đào tạo và sức khỏe) sẽ làm tăng năng suất lao động và dẫn đến tăng trưởng kinh tế.
Phương trình cơ bản của lý thuyết tập trung vào nhân lực là: Y = f(A, H, K, L) Trong đó:
● Y là sản lượng kinh tế (output) ● A là công nghệ (technology)
● H là đầu tư vào nhân lực (human capital) ● K là số vốn tích lũy (capital stock) ● L là lực lượng lao động (labor force) ● f là hàm sản xuất (production function)
Lý thuyết tập trung vào nhân lực được phát triển bởi nhà kinh tế Theodore Schultz vào những năm 1960 (Schultz, 1961). Ông Schultz đã đề xuất rằng giáo dục và đào tạo là những yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao động và giúp cho các quốc gia phát triển.
Được coi là một trong những lý thuyết kinh tế phát triển quan trọng nhất, lý thuyết tập trung vào nhân lực đã có nhiều đóng góp đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu phát triển kinh tế. Nó đã cung cấp cơ sở lý thuyết cho việc phát triển các chính sách nhằm nâng cao năng lực và chất lượng lao động, giáo dục và đào tạo (Becker, 1962; Lucas, 1988).
Nước Hàn Quốc từ một quốc gia nghèo đói và chịu ảnh hưởng của chiến tranh đã trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới trong thập kỷ qua. Chính sách đầu tư vào giáo dục và đào tạo cao độ cho người lao động đã giúp Hàn Quốc tăng năng suất lao động và nâng cao giá trị sản phẩm (The World Bank, 2021)
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Theo thuyết này, nước nào đầu tư nhiều vào giáo dục và đào tạo nhân lực thì sẽ có nhiều cơ hội phát triển kinh tế. Ví dụ, theo báo cáo của UNESCO, năm 2018, các nước Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Singapore đều đạt điểm cao trong chỉ số giáo dục tồn cầu và có mức đầu tư vào giáo dục cao, điều này giúp họ có nền kinh tế mạnh mẽ và đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.
Một nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới cũng chứng minh rằng việc đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhân lực có thể giúp các nước đang phát triển tiết kiệm được nhiều chi phí và tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, ở Ethiopia, chỉ số giáo dục và trình độ lao động đã tăng lên trong những năm qua, và điều này giúp đất nước này có mức tăng trưởng GDP cao hơn so với các nước láng giềng trong khu vực.
<b>1.3 Các chỉ tiêu đo lường sự phát triển kinh tế </b>
<i>GDP</i>: giá trị các hàng hóa và dịch vụ được sản xuất trong một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định. Đây là chỉ tiêu phổ biến nhất để đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc gia. Tuy nhiên, chỉ số GDP không phản ánh mức độ phân bố thu nhập và sự phát triển bền vững của một quốc gia.
Tính đến năm 2020, GDP của Việt Nam đạt 343,6 tỷ USD, tăng 2,91% so với năm 2019, đứng thứ 40 trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức về phát triển bền vững, bao gồm môi trường và phân bố thu nhập không đồng đều.
Chỉ số phát triển con người (HDI): đo lường sự phát triển của một quốc gia dựa trên các chỉ số về tuổi thọ, giáo dục và thu nhập bình qn.
Tính đến năm 2019, chỉ số HDI của Việt Nam đạt 0,704, xếp thứ 117 trên toàn thế giới. Đây cho thấy Việt Nam đang trong q trình phát triển, nhưng vẫn cịn nhiều cơ hội để nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.
Chỉ số cải cách kinh tế (ECI): đo lường khả năng một quốc gia chuyển đổi từ sản xuất các mặt hàng giá rẻ và thấp giá trị thêm sang sản xuất các mặt hàng có giá trị cao hơn.
Theo báo cáo của Viện nghiên cứu kinh tế hàng đầu thế giới, năm 2018, ECI của Trung Quốc tăng lên mức cao nhất trong hơn 50 năm, cho thấy khả năng của quốc
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">gia này trong việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ các ngành công nghiệp truyền thống sang các ngành công nghiệp cao cấp.
Chỉ số phát triển bền vững (SDI): đo lường khả năng của một quốc gia duy trì sự phát triển trong dài hạn mà không gây hại cho môi trường và xã hội.
Năm 2020, chỉ số SDI của Đan Mạch đứng đầu thế giới với 84,3 điểm, chỉ ra rằng quốc gia này đang có nỗ lực để đảm bảo sự phát triển bền vững trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường và xã hội.
<b>1.4 Những yếu tố tác động đến phát triển kinh tế 1.4.1 Năng lực lao động </b>
Năng lực lao động được xem là một yếu tố rất quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia.
Theo báo cáo năm 2021 của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), tỷ lệ thất nghiệp toàn cầu đã tăng từ 5,4% vào năm 2019 lên 6,0% vào năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch COVID 19. Một số nước đang phát triển như Bangladesh, Ấn Độ và -Philippines đang đối mặt với thách thức lớn về việc tạo ra đủ việc làm cho nhân khẩu đang tăng nhanh. Năm 2021, tỷ lệ thất nghiệp tại Bangladesh là 4,2%, Ấn Độ là 5,7%, và Philippines là 8,7%.
<b>1.4.2 Vốn đầu tư </b>
Vốn đầu tư là yếu tố quan trọng khác ảnh hưởng đến phát triển kinh tế của một quốc gia.
Theo Báo cáo Phát triển Nhân loại của Liên Hợp Quốc năm 2020, tổng giá trị các khoản đầu tư trên toàn cầu đạt 1,39 nghìn tỷ đơ la Mỹ vào năm 2019. Trong các nước đang phát triển, việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong những mục tiêu quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Theo Báo cáo Đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên hợp quốc (UNCTAD) năm 2020, các nước đang phát triển đóng góp 72% vào tổng số dịng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào năm 2020. Trong đó, Việt Nam là một ví dụ, trong năm 2020, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt 28,53 tỷ USD, tăng 2% so với năm trước đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b>1.4.3 Công nghệ đổi mới </b>
Công nghệ đổi mới là một trong những yếu tố quan trọng đóng vai trị quyết định trong phát triển kinh tế của các nước đang phát triển. Việc áp dụng các công nghệ mới giúp tăng năng suất lao động, cải thiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ, giảm chi phí sản xuất và tăng cường khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới năm 2020, Trung Quốc đã đạt được một mức tăng trưởng kinh tế ấn tượng trong những năm qua nhờ vào việc đầu tư mạnh mẽ vào nghiên cứu và phát triển công nghệ. Trung Quốc đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về số lượng đăng ký bằng sáng chế và đầu tư nghiên cứu và phát triển cơng nghệ thơng qua chính sách hỗ trợ tài chính và thuế.
Tương tự, Ấn Độ cũng đang tăng cường đầu tư vào nghiên cứu và phát triển công nghệ nhằm giải quyết các thách thức kinh tế và xã hội. Ví dụ, chương trình "Make in India" của Ấn Độ tập trung vào khuyến khích sản xuất cơng nghiệp và phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, đồng thời tăng cường đào tạo kỹ thuật viên để nâng cao năng lực nghiên cứu và phát triển công nghệ.
Tuy nhiên, việc đổi mới công nghệ cũng đối mặt với một số thách thức như chi phí đầu tư ban đầu cao, sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường và việc thiếu nguồn lực đủ để đảm bảo quy trình đổi mới được tiến hành hiệu quả. Do đó, các nước đang phát triển cần tìm cách tăng cường hợp tác quốc tế trong việc nghiên cứu và phát triển công nghệ để tối ưu hóa tài nguyên và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
1.4.4 Quản lý và điều hành kinh doanh hiệu quả
Dưới đây là một số ví dụ thực tế về yếu tố quản lý và điều hành kinh doanh hiệu
<b>quả và các số liệu thống kê chứng minh hiệu quả của chúng: </b>
Thứ nhất, đầu tư vào giáo dục và đào tạo nhân lực để cải thiện chất lượng nhân lực và nâng cao năng suất lao động. Theo báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) vào năm 2019, các nước thành viên của OECD đã tăng chi tiêu cho giáo dục trung bình từ 5,2% của GDP vào năm 2010 lên 5,4% vào năm 2017. Các nước như Hàn Quốc và Phần Lan, nơi có chi tiêu cho giáo dục trên 6% GDP, đều có
<b>năng suất lao động cao hơn so với các nước khác. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><b>Thứ hai, nâng cao khả năng đổi mới và sáng tạo trong kinh doanh. Theo báo cáo </b>
của Bộ Kinh tế và Thương mại Hoa Kỳ, các doanh nghiệp ở Hoa Kỳ có khả năng đổi mới cao hơn so với các doanh nghiệp ở các nước khác. Cụ thể, khoảng 50% doanh nghiệp ở Hoa Kỳ đã đưa ra sản phẩm hoặc dịch vụ mới trong vịng 3 năm qua, trong
<b>khi chỉ có khoảng 33% doanh nghiệp ở các nước EU làm được điều tương tự. </b>
Thứ ba, nâng cao chất lượng quản lý và hỗ trợ kinh doanh.Theo Báo cáo Đánh giá Cạnh tranh Toàn cầu năm 2019 của Viện Kinh tế Thế giới, Singapore là quốc gia có mơi trường kinh doanh thuận lợi nhất trên thế giới, nhờ vào quản lý và hỗ trợ kinh doanh hiệu quả. Trong khi đó, các nước như Venezuela và Yemen lại đứng cuối danh sách cạnh tranh toàn cầu, do thiếu hiệu quả trong quản lý và hỗ trợ kinh doanh.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21"><b>CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN 2.1 Khái quát về các nước đang phát triển </b>
<b>2.1.1 Khái niệm về các nước đang phát triển </b>
Sự phát triển của một đất nước được đo đạc bằng các chỉ số thống kê như tổng sản phẩm quốc nội bình quân đầu người (GDP/người), tuổi thọ trung bình, tỷ lệ người biết chữ Liên hợp quốc xây dựng Chỉ số phát triển con người, một chỉ số tổng hợp ... của các thống kê trên để xác định mức độ phát triển con người ở mỗi quốc gia.
Nước đang phát triển, nói chung, là quốc gia có tổng sản phẩm quốc nội trên dân số (GDP/người) thấp, nợ nước ngồi nhiều, bình qn mức sống cịn khiêm tốn, có nền tảng cơng nghiệp chưa được phát triển hoàn toàn một c ch to n diá à ện và có chỉ số phát triển con người (HDI) cũng như thu nhập bình quân đầu người không cao. Ở các quốc gia này, ngoại trừ nhóm thiểu số (các nước cơng nghiệp mới) đạt đến được mức khá hoặc cao, phần lớn còn lại có thu nhập bình qn đầu người và chỉ số phát triển con người chỉ ở mức trung bình.
Thuật ngữ "nước đang phát triển" nhiều khi được thay thế bởi một số tên gọi khác, ví dụ như: "nước kém phát triển", "nước chậm phát triển", "nước nông nghiệp", "Thế giới thứ ba", "Nam bán cầu", thậm chí "nước kém phát triển nhất"...
Mức độ phát triển của một xã hội bao hàm cơ sở hạ tầng hiện đại (cả về mặt vật chất và thể chế) và sự chuyển đổi ra khỏi những lĩnh vực sản xuất tạo ra giá trị gia tăng thấp như nông nghiệp và khai thác tài nguyên tự nhiên. Ở các quốc gia phát triển, hệ thống kinh tế dựa trên sự tăng trưởng mạnh mẽ và bền vững ở những lĩnh vực dịch vụ, giáo dục nghiên cứu phát triển, thông tin,...
Việc áp dụng thuật ngữ nước đang phát triển cho toàn thể các nước chưa đạt trình độ nước phát triển trong nhiều trường hợp là khơng thích hợp, khơng ít quốc gia nghèo khơng hề có những cải thiện tình hình kinh tế thậm chí là suy giảm.
<b>2.1.2 Giới thiệu về một số nước đang phát triển </b>
Theo thống kê của trang dữ liệu thế giới (World Data), hiện nay trên thế giới có khoảng 152 nước thuộc trong nhóm “Các nước đang phát triển”. Ví dụ như: Afghanistan, Albania, Algeria, Angola, Argentina, India, Indonesia, Iran, Vietnam, China, Thailand, Cambodia, Laos, Malaysia, Maldives, Peru, Philippines, Nepal,...
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><b>2.2 Các đặc điểm chung của các nước đang phát triển 2.2.1 GDP thấp </b>
Các nước đang phát triển thường có thu nhập bình quân đầu người thấp. Đặc biệt ta có thể thấy rõ nhất khi so sánh với thu nhập bình quân đầu người đối của các nước phát triển như Mỹ, Anh, Pháp, Nhật. Ngồi ra, thu nhập bình quân đầu người là mức trung bình và do đó nó khơng thực sự cho thấy mức độ nghèo đói ở một quốc gia.
Theo số liệu của WorldBank năm 2021, thu nhập bình quân đầu người của các nước phát triển như Ireland là 100,172 USD, Luxembourg là 133,590 USD, Thụy Điển là 91,992 USD trong khi đó thu nhập bình qn đầu người của các nước đang phát triển như Ấn Độ là 2,257 USD, Pakistan là 1,505 USD, Afghanistan là 369 USD. Tuy nhiên, trên thực tế mức độ nghèo của dân cư phổ biến ở các nước đang phát triển khơng được phản ánh đầy đủ và chính xác trong số liệu về thu nhập bình quân đầu người mà đây chỉ là thu nhập trung bình, khi trong đó cũng bao gồm cả thu nhập của những người giàu tại các quốc gia này. Sự bất bình đẳng lớn trong phân phối thu nhập phổ biến ở các nền kinh tế này đã làm cho cuộc sống của người dân thêm khốn khổ. Phần lớn dân số của các quốc gia này phải sống dưới mức nghèo khổ.
<b>2.2.2 Dân số đông đúc </b>
"Vào ngày 15-11-2022, dân số thế giới dự kiến đạt 8 tỷ người, một cột mốc quan trọng trong sự phát triển của nhân loại, tỷ lệ tăng dân số chủ yếu tập trung ở các nước đang phát triển hoặc nghèo nhất thế giới. Đơn vị: nghìn người" (World Population
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Châu Âu 742 Châu Đại Dương 44
<i>Nguồn: World Population Data Sheet 2022 </i>
Bảng 2.1: Dân số các châu lục trên thế giới năm 2022
Theo Báo cáo Tình trạng Dân số Thế giới năm 2019 của UNFPA, thế giới có 7,7 tỷ người, tăng gần 100 triệu người so với năm 2018. Dân số các nước đang phát triển chiếm tới 84%, các nước phát triển chỉ chiếm 16%. Châu Á đông nhất thế giới với hơn 4,5 tỷ người, châu Phi đứng ở vị trí thứ hai với gần 1,3 tỷ người. Khu vực ít nhất thuộc về Châu Đại dương với 41 triệu người.
Ở cấp độ quốc gia, ngôi vị đầu bảng thế giới vẫn là Trung Quốc (1,4 tỷ người) và đuổi sát nút là Ấn Độ (1,37 tỷ người). Dân số Ấn Độ hiện nay đông hơn cả dân số châu Phi. Ấn Độ sẽ soán ngơi Trung Quốc và giữ vị trí Qn qn vào năm 2030. Mỹ vẫn đứng ở vị trí thứ 3 với 329 triệu người. Cộng đồng ASEAN có các đại diện Indonesia, Philippines, Việt Nam và Thái Lan thuộc nhóm 25 cường quốc về quy mô dân số trên thế giới.
Tổng Thư ký LHQ Antonio Guterres cho rằng, sự gia tăng dân số ngày càng nhanh ở các quốc gia đang phát triển và già hóa cũng là một thách thức lớn về kinh tế, xã hội và môi trường, tác động tới vấn đề bảo đảm chất lượng cuộc sống, ảnh hưởng đến các nỗ lực đảm bảo khả năng tiếp cận phổ cập đến chăm sóc sức khỏe, giáo dục, nhà ở, vệ sinh, nước, thực phẩm, năng lượng… kéo theo một lượng lớn sức lao động trong khi nguồn lực đáp ứng các nhu cầu về việc làm tại quốc gia đó thì hạn chế. Nó có nghĩa là sẽ có nhiều người phải ni sống hơn, tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và gánh nặng tài chính cũng theo đó đè nặng lên tấm vai gầy của người dân.
UNFPA cũng đánh giá, bên cạnh các thành tựu, những thách thức mà nhân loại phải đối mặt là hết sức cấp bách, có thể ảnh hưởng tới nhiều thế hệ. Các vấn đề này đang gây ra những tác động không đồng đều tới những nhóm dân số yếu thế và dễ bị tổn thương.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Những thách thức trên địi hỏi chính phủ các nước cần xây dựng tầm nhìn và hành động phù hợp. Các quốc gia có thể thực hiện chính sách dân số lấy người dân làm trung tâm, cùng với việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục làm cốt lõi. Khu vực tư nhân có thể phát triển các giải pháp sáng tạo, khai thác sức mạnh của sự đổi mới và cơng nghệ vì lợi ích tồn cầu.
<b>2.2.3 Phụ thuộc q nhiều vào nơng nghiệp </b>
Theo Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực Liên Hợp Quốc (FAO) (2019), phần lớn các nước đang phát triển vẫn phụ thuộc vào nông nghiệp. Việc sản xuất nông nghiệp trở thành tiền đề sản xuất chính trong chiến lược phát triển của các nước đang phát triển có nhiều lý do:
• Nơng nghiệp khơng địi hỏi nhiều vốn và khoa học kỹ thuật cao nhưng hiệu quả đem lại nhanh và rõ nét.
• Các nước đang phát triển chủ yếu là các nước đông dân nên phát triển nông nghiệp nhằm giải quyết vấn đề đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cho dân cư.
• Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, là thế mạnh truyền thống của các nước đang phát triển, không chỉ cung cấp lương thực trong nước, giúp ổn định và cân bằng nền kinh tế mà nó tạo ra một nguồn ngoại tệ để mua sắm các trang thiết bị, nâng cao khoa học kỹ thuật cho các ngành sản xuất khác (công nghiệp nặng, công nghiệp chế biến,…).
Theo Ngân hàng Thế giới (2021), trong các quốc gia đang phát triển, khoảng 60-75% dân số phụ thuộc vào nông nghiệp và các hoạt động liên quan để kiếm sống, lo cho cuộc sống thường ngày. Ngoài ra, khoảng 30 50% thu nhập quốc dân của các -quốc gia này thu được từ mảng phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, sự phụ thuộc quá mức vào nông nghiệp này là kết quả của năng suất thấp, nông nghiệp lạc hậu và thiếu tăng trưởng công nghiệp hiện đại. Đặc biệt sau đại dịch Covid 19, lao động nhập cư -đã quay trở lại các khu vực nông thôn và quá trình chuyển đổi cơ cấu -đã gây ra một trở ngại lớn, đặc biệt là ở các quốc gia ở Nam Á và châu Phi cận Sahara vốn đã bị tụt hậu trong việc di chuyển ra khỏi lĩnh vực nông nghiệp; kết quả là làm tăng sự phụ thuộc của các nhóm dân số dễ bị tổn thương vào việc làm nông nghiệp và nông thôn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25"><b>2.2.4 Chất lượng giáo dục thấp </b>
Tất cả các nước trên thế giới, từ những nước phát triển nhất đến những nước chậm phát triển, đều có người khơng biết chữ. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước đang phát triển, chất lượng giáo dục cơ sở thấp khiến số người mù chữ liên tục tăng cao. Cơ hội học hành ở các nước đang phát triển hạn chế, việc cố gắng tạo ra cơ hội giáo dục ở bậc tiểu học là nỗ lực lớn nhất của các nước này, mặc dù có sự tiến bộ trong việc vận động trẻ em đến trường nhưng tỷ lệ biết chữ vẫn còn thấp.
Ở một số quốc gia châu Phi, cứ bốn trẻ thì có ba trẻ không hiểu những quy tắc ngữ pháp đơn giản nhất. Ở Ấn Độ, gần ba phần tư học sinh lớp ba khơng giải được phép trừ có hai chữ số, và đến lớp năm, một nửa trong số đó vẫn khơng làm được. Mặc dù đã tăng đáng kể khả năng tiếp cận giáo dục, nhưng việc đến trường khơng giống như việc học, có nhiều trẻ em đến trường, nhưng không phải tất cả chúng đều tận dụng lợi thế đó. Bên cạnh đó, ở các quốc gia đang phát triển, nền kinh tế và địa lý đóng một vai trị lớn trong việc giáo dục bởi nó có thể quyết định ai có thể tiếp cận. Ví dụ, ở một quốc gia như Kenya , các bé gái ở một số ngơi làng khơng thể đến trường vì các em phải đi bộ hàng giờ mỗi ngày để lấy nước ngọt mang về cho gia đình.Nếu một cái giếng được xây dựng ở một trong những ngôi làng này, cuộc sống của những cô gái này sẽ thay đổi đáng kể vì họ có thể đến trường.
Các nước đang phát triển không thể tự trang trải bằng giáo dục; họ cần viện trợ nước ngoài. Chỉ 20% viện trợ giáo dục đến các quốc gia này và chỉ tốn 1,25 đô la mỗi ngày ở các nước đang phát triển để cung cấp 13 năm học. Khoảng cách để cung cấp giáo dục chất lượng cho tất cả trẻ em vào năm 2030 là 39 tỷ đô la, trong khi GPE khuyến khích các quốc gia này đóng góp 20% ngân sách quốc gia cho giáo dục, 45% cho giáo dục tiểu học. Các vấn đề không kết thúc ở đây, khơng có đủ giáo viên để giảng dạy ở các quốc gia này và những người giảng dạy không được đào tạo. Ở Châu Phi, khơng có đủ trường học; trẻ em buộc phải học trong lớp học q đơng, lớp học đổ nát hoặc q trình học tập diễn ra ngồi trời dưới cái nóng của mặt trời. Họ thiếu sách giáo khoa, đồ dùng học tập, và các dụng cụ cần thiết khác; ở Malawi, trung bình có 130 trẻ/lớp học lớp một; ở Chad, cứ 7 trường thì có 1 trường có nước uống được
<b>và cứ 4 trường thì có 1 trường có nhà vệ sinh. </b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Một trong những rào cản đối với giáo dục là bất bình đẳng giới. Ở hầu hết các nước đang phát triển, theo UNESCO, có tới 80% những người hiện đang nghỉ học có thể sẽ khơng bao giờ bắt đầu đi học và các bé nam chỉ chiếm 16%. Một yếu tố tiêu cực khác đáng nói đến là sống ở một quốc gia đang có xung đột hoặc có nguy cơ xảy ra xung đột làm các cơ sở trường học bị phá hủy, ngăn cản mọi thứ hoạt động; giáo viên và học sinh chạy trốn khỏi đất nước của họ để cứu mạng sống của họ, và quá trình học tập tiếp tục bị gián đoạn.
Thêm vào đó, Đại dịch COVID 19 (2020) đã tàn phá cuộc sống của trẻ nhỏ, học -sinh và thanh thiếu niên. Sự gián đoạn của các xã hội và nền kinh tế do đại dịch gây ra đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng giáo dục toàn cầu hiện có và tác động đến giáo dục theo những cách chưa từng có. Trên tồn cầu, từ tháng 2 năm 2020 đến tháng 2 năm 2022, các hệ thống giáo dục đã đóng cửa hồn tồn để học trực tiếp trong trung bình 141 ngày và ở Nam Á, Mỹ Latinh và Caribe, thời gian đóng cửa lần lượt là 273 và 225 ngày. Ở các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình, tỷ lệ trẻ em nghèo trong học tập – vốn đã là 57% trước đại dịch – có khả năng lên tới 70% do thời gian đóng cửa trường học kéo dài và khoảng cách kỹ thuật số rộng đã cản trở hiệu quả của việc học từ xa trong thời gian trường học đóng cửa. Trẻ em từ các hộ gia đình hồn cảnh khó khăn ở các nước đang phát triển ít được hưởng lợi từ việc học từ xa hơn so với các bạn cùng trang lứa nhất là các bé gái, học sinh khuyết tật và trẻ nhỏ, thường là do thiếu điện, kết nối, thiết bị và sự hỗ trợ của người chăm sóc. Nhìn chung, ít nhất một phần ba học sinh trên thế giới – 463 triệu trên tồn cầu khơng thể tiếp cận học tập từ xa trong thời gian trường học đóng cửa, trong đó, học sinh ở vùng cận Sahara châu Phi bị ảnh hưởng nặng nề nhất, nơi không thể liên lạc được với ít nhất một nửa số học sinh khi học từ xa.
<b>2.2.5 Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước đang phát triển </b>
Thất nghiệp ở các nước đang phát triển là một vấn đề lớn, vì nó có thể có tác động lớn đến sức khỏe kinh tế, phúc lợi xã hội và ổn định chính trị của một quốc gia. Người ta ước tính rằng gần một nửa dân số thế giới đang sống ở các nước đang phát triển có tỷ lệ thất nghiệp cao.
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Tỷ lệ thất nghiệp ở các nước đang phát triển rất khó đo lường do thiếu dữ liệu đáng tin cậy. Ngân hàng Thế giới ước tính rằng tỷ lệ thất nghiệp tồn cầu ở các nước đang phát triển là 5,2% vào năm 2020. Tuy nhiên, một số quốc gia riêng lẻ có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn, chẳng hạn như Nam Phi, nơi có tỷ lệ thất nghiệp là 30,1% vào năm 2020.
Nguyên nhân thất nghiệp ở các nước đang phát triển rất phức tạp và khác nhau giữa các quốc gia. Chúng có thể bao gồm các yếu tố như thiếu cơ hội giáo dục, lực lượng lao động khơng đủ, bất ổn chính trị và thiếu khả năng tiếp cận vốn và công nghệ.
Để giảm tỷ lệ thất nghiệp ở các nước đang phát triển, các chính phủ phải thực hiện các bước để cải thiện các cơ hội việc làm dành cho cơng dân của họ. Điều này có thể liên quan đến việc đầu tư vào các chương trình giáo dục và đào tạo, khuyến khích các doanh nghiệp thuê thêm lao động và khuyến khích tinh thần kinh doanh. Ngồi ra, các chính phủ phải tạo ra một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp, để họ có thể tạo việc làm và thuê thêm người.
<b>2.2.6 Tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng </b>
Tình trạng nghèo đói
Tỷ lệ người nghèo cùng cực trên toàn cầu – những người sống với mức dưới 2,15 đô la một ngày (sức mua tương đương (PPP) năm 2017) – giảm liên tục từ năm 1990 đến năm 2019. Nhưng xu hướng này đã bị gián đoạn vào năm 2020, khi tình trạng nghèo đói gia tăng do sự gián đoạn do cuộc khủng hoảng COVID 19 gây ra. Số -người trong tình trạng nghèo cùng cực đã tăng 70 triệu lên hơn 700 triệu -người. Tỷ lệ nghèo cùng cực toàn cầu đạt 9,3%, tăng từ 8,4% vào năm 2019. Tuy nhiên xu hướng giảm này đã thay đổi vào năm 2020. Đại dịch Covid 19, lạm phát, suy thối -kinh tế, xung đột và biến đổi khí hậu được ước tính là đã chậm lại và trong một số trường hợp đã đảo ngược tiến trình xóa đói giảm nghèo, khiến mục tiêu chấm dứt tình trạng nghèo cùng cực vào năm 2030 trở nên xa vời. Và thách thức càng trở nên khó khăn hơn ở các nước đang phát triển bởi thực tế là tình trạng nghèo đói cùng cực tập trung ở những nơi có thu nhập trung bình và thấp và đặc biệt là những nơi khó xóa bỏ nhất trên thế giới: ở châu Phi cận Sahara, các khu vực bị ảnh hưởng bởi xung đột và ở các vùng nông thôn
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">Nghèo đói ngày càng tập trung ở châu Phi cận Sahara, theo ước tính vào năm có khoảng 62% người sống trong tình trạng cực kỳ nghèo khổ sống ở Châu Phi cận Sahara với sự gia tăng lớn nhất xảy ra ở Cộng hòa Dân chủ Congo (DRC), Madagascar và Nigeria; trong khi ở Khu vực Đông Á và Thái Bình Dương, chỉ số này chỉ ở mức 4%. Ở châu Phi, tình trạng nghèo đói đang gia tăng đều đặn do dân số tăng nhanh và tăng trưởng kinh tế trì trệ. Trầm trọng hơn do tỷ lệ nghèo đói tăng lên 11% do đại dịch gây ra, tình trạng nghèo đói ở châu Phi có rất ít dấu hiệu giảm cho đến năm 2030. Qua đó, ta thấy phần lớn tình trạng đói nghèo hiện nay chủ yếu tập trung ở Châu Phi và các quốc gia dễ bị tổn thương và bị ảnh hưởng bởi xung đột. Đặc biệt là người dân của một quốc gia như ở các khu vực Syria, Myanmar, Ethiopia, Nam Sudan và Iraq,... Ví dụ, ở Syria, hơn một thập kỷ xung đột đã buộc một nửa dân số phải rời bỏ nhà cửa. Có hơn 5,5 triệu người tị nạn trong khu vực, trong khi hàng trăm nghìn người khác phải di dời trên 130 quốc gia. ít nhất 70 phần trăm những người tị nạn này đang sống trong cảnh nghèo đói cùng cực, không được tiếp cận với thực phẩm, nước uống và các dịch vụ cơ bản.
Ở các quốc gia có thu nhập trung bình sẽ là nơi sinh sống của gần một nửa số người nghèo toàn cầu.Ví dụ như Nigeria hiện là đối mặt với nghèo đói tồn cầu, vượt qua Ấn Độ để trở thành điểm đến nghèo hàng đầu vào năm 2019. Năm 2015, Nigeria là nơi sinh sống của 80 triệu người nghèo, chiếm 11% số người nghèo tồn cầu; thì đến năm 2030 dự đốn con số này có thể tăng lên 18%, tương đương 107 triệu người Tuy nhiên vẫn có một số quốc gia trong nhóm nước đang phát triển thành cơng thốt khỏi đó như Trung Quốc và Ấn Độ. Hơn 1,1 tỷ người sống ở Trung Quốc và Ấn Độ đã thốt khỏi tình trạng nghèo cùng cực từ năm 1990 đến năm 2022. Vào tháng 12 năm 2020, Trung Quốc tuyên bố họ đã xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực. Ngồi ra, Ấn Độ đại diện cho một câu chuyện thành công gần đây hơn bởi tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã giúp tỷ lệ nghèo đói giảm xuống cịn 77 triệu người, tương đương 6% dân số, vào năm 2019. Tuy nhiên, Ấn Độ sẽ trải qua tình trạng nghèo đói tăng đột biến trong thời gian ngắn do đại dịch COVID 19, trước khi tiếp tục con đường đi -xuống mạnh mẽ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29"><i>Nguồn: World Bank Poverty and Inequality Plaform </i>
Hình 2.1: Tỷ lệ dân số sống trong tình trạng nghèo cùng cực tại các nước đang phát triển năm 2021 (%) - mức sống 2,15 đơ la/ngày
<i> Bất bình đẳng </i>
Báo cáo “Bất bình đẳng thế giới” do một mạng lưới các nhà khoa học xã hội thực hiện và công bố mới đây cho hay, đại dịch Covid 19 đang khiến người dân ở các nước -thu nhập thấp dấn sâu hơn vào cảnh nghèo đói và nợ nần, trong khi người giàu tại những nước phát triển vẫn ngày càng giàu. Bất bình đẳng thu nhập vốn tồn tại lâu nay, song đã trở nên trầm trọng hơn do ảnh hưởng của dịch bệnh. Báo cáo nhấn mạnh, cuộc khủng hoảng toàn cầu do dịch Covid 19 gây ra đã làm gia tăng bất bình đẳng giữa những người -rất giàu và phần cịn lại của thế giới.
Bất bình đẳng thu nhập được đo lường bằng chỉ số GINI. Theo của WorldBank năm 2020, các nước có chỉ số GINI cao là Colombia (52,4%), Costa Rica (49,3%), Ecuador (47,3%)...Sự bất bình đẳng giữa các nhóm quốc gia đang gia tăng, bằng chứng là thu nhập bình quân đầu người ở các nước phát triển tăng gần 5% vào năm 2021, trong khi mức này ở các nước thu nhập thấp là 0,5%. Các nước đang phát triển phải đối mặt
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">lạm phát tăng cao, cơ hội việc làm thấp, sự thiếu hụt trong các lĩnh vực thiết yếu như lương thực, điện, nước…
<b>2.2.7 </b>Nợ cơng
Trong khi các nước giàu ít gặp khó khăn trong việc đối phó với các khoản nợ ngày càng tăng thì nhiều nền kinh tế đang phát triển chịu áp lực lớn hơn.
- Ngay cả trước khi xảy ra đại dịch COVID-19, UNCTAD đã cảnh báo về gánh nặng nợ ngày càng tăng của các nước đang phát triển, làm suy yếu khả năng cung cấp các dịch vụ cơ bản của họ, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe và giáo dục.
- Các khoản nợ của các nước không chỉ tăng lên mà còn trở nên đắt đỏ và rủi ro hơn. Từ năm 2011 đến 2019, nghĩa vụ nợ của các nước đang phát triển đã tăng hơn gấp ba lần lên 33 tỷ USD, chiếm từ 5% đến 13% giá trị xuất khẩu của họ.
- Đại dịch đã làm tình hình trở nên trầm trọng hơn, với khoản nợ phải trả của các nước đang phát triển có thể lên tới 43 tỷ USD vào năm 2022.
- Gánh nặng như vậy sẽ gây nguy hiểm cho các nỗ lực phục hồi sau COVID-19 của họ và làm cạn kiệt các quỹ công cần thiết để chống đói nghèo và đầu tư vào cơ sở hạ tầng thiết yếu, chẳng hạn như đường sá và bệnh viện.
Ông Vitor Gaspar - Giám đốc Ban Tài chính, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho rằng: "Khi nhìn vào các thị trường mới nổi, chúng ta thấy rằng các thị trường trái phiếu quốc tế đang hoạt động có trật tự, nhưng có một số thị trường mới nổi phi hệ thống đã có mức chênh lệch lãi suất rất cao, đến ngưỡng có thể coi là khó khăn. Khoảng 60% các quốc gia đang phát triển có thu nhập thấp đã rơi vào tình trạng nợ nần khó khăn hoặc có rủi ro cao".
Cũng theo IMF, tổng vay nợ của các chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình trên thế giới đã tăng lên 256% GDP toàn cầu trong năm 2020, mức chưa từng thấy kể từ hai cuộc chiến tranh thế giới trong nửa đầu thế kỷ 20.
<b>2.2.8 Nguồn vốn FDI </b>
Năm 2021, FDI toàn cầu đã phục hồi và vượt qua mức trước đại dịch COVID-19, đạt 1.582 tỷ USD, tăng 64% so với năm 2020. Sự gia tăng này chủ yếu là do lợi nhuận đến từ các giao dịch mua bán và sáp nhập (M&A) cùng mức lợi nhuận giữ lại tương đối cao của các MNC. Điều này đã dẫn đến các dòng tài chính nội bộ gia tăng
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">đáng kể và xuất hiện những biến động mạnh về FDI tại các trung tâm đầu tư lớn. Sự phục hồi FDI trong năm 2021 đã mang lại mức tăng trưởng cao ở tất cả các khu vực. Trong đó, các nền kinh tế phát triển có mức tăng mạnh nhất đạt 134% (khoảng 746 tỷ USD), chiếm gần 3/4 mức tăng của dịng vốn FDI tồn cầu và cao gấp đôi so với mức năm 2020. Mặc dù dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng 30%, đạt 837 tỷ USD, song do dòng vốn FDI vào các nền kinh tế đang phát triển tăng chậm hơn so với dòng FDI vào các khu vực phát triển nên tỷ trọng FDI của các nước đang phát triển trong FDI toàn cầu đã giảm từ 66% (năm 2020) xuống 53% (năm 2021).
Tại các nước đang phát triển, năng suất lao động tăng vọt, hội nhập vào các thị trường tồn cầu ngày càng mạnh mẽ, các chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả trong khi các lĩnh vực như y tế và giáo dục có những cải thiện đang thúc đẩy tăng trưởng cũng như tạo ra các cơ hội đầu tư rộng lớn. Đây cũng là lý do vì sao trọng tâm kinh tế đang dần chuyển dịch sang các nước đang phát triển.
Một nhân tố giúp thúc đẩy nữa là cơ cấu dân số trẻ. Ước tính từ nay đến năm 2030, các nước đang phát triển sẽ có mức tăng dân số thêm khoảng 1,4 tỷ người. Điều này hàm nghĩa là lợi thế nhân khẩu học vẫn chưa đạt đến đỉnh điểm đối với các nước này, nhất là tại các khu vực có dân số rất trẻ như châu Phi Cận Sahara và Nam Á.
<b>2.2.9 </b>Sự phát triển kinh tế chậm
Phát triển kinh tế là quá trình lớn lên theo thời gian, tăng tiến mọi mặt của nền kinh tế và do những nhân tố nội tại quyết định đến tồn bộ q trình phát triển đó. Nó bao gồm sự tăng trưởng kinh tế (bao gồm các nhân tố chính là lao động, vốn, tài nguyên, tri thức, cơng nghệ,...) và đồng thời có sự hồn chỉnh về mặt cơ cấu, thể chế kinh tế, chất lượng cuộc sống và công bằng xã hội.
Về thực trạng tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển:
<i>- </i>Cung lao động nhiều về số lượng nhưng kém về chất lượng: đối với các nước đang phát triển thường có dân số đơng, tốc độ tăng dân số nhanh. Cung lao động dồi dào, giá lao động rè. Tuy nhiên ở hầu hết các nước này, lao động lại chưa phải là động lực mạnh cho tăng trưởng và phát triển kinh tế, nhất là các nước mà lao động nông nghiệp nông thơn cịn chiếm tỷ trọng cao trong tổng số lực lượng lao động. Lao - động nhiều nhưng có biểu hiện của sự dư thừa, hay tình trạng thiếu việc làm. Lao
</div>