Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 51 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<small>4. Đỗ Nguyễn Diễm Trang5. Trịnh Bảo Duy Tân</small>
<small>6. Nguyễn Bình Phương Thúy</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Đa dạng hóa thấp và chấp nhận rủi ro quá mức</small>
<small>Sự lạc quan thái quá và các nhà phân tích </small>
<small>Câu hỏi và bài tập thảo luận</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Ở cấp độ cá nhân, cầu đối với một chứng khoán cụ thể là một hàm số của gía trị ước lượng của nhà đầu tư về giá trị (nội tại) của chứng khoán.<sub>Nếu giá chứng khoán </sub>
cao hơn giá trị thị trường
NĐT sẽ nắm giữ nhiều chứng khoán hơn
Sự khác biệt giữa các nhà đầu tư là việc họ phản ứng khác nhau với giá cổ phiếu khi nó chệch đi so với giá trị ước tính của họ
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"> Giả định rằng bởi vì có nhiều nhà đầu tư tham gia thị trường nên tất cả sẽ là người chấp nhận giá (price taker)
Giả định rằng khi ước tính giá trị, một nhà đầu tư dùng hai loại thông tin: ý kiến của nhà đầu tư (giá trị lúc đầu – prior value) và giá trị thị trường
Trong đó:
: là giá trị ước tính (lúc sau) của nhà đầu tư i *: là giá trị ước tính (lúc đầu) của nhà đầu tư i
<i>p: </i> là giá trị thị trường
à trọng số mà nhà đầu tư i đặt cho gía trị ước lượng lúc đầu của mình so với thị trường
là giá trị ước tính (lúc sau) của nhà đầu tư i là giá trị ước tính (lúc đầu) của nhà đầu tư i
<i>p: </i> là giá trị thị trường
<b>Bất kỳ giá trị lớn hơn 0 nào cũng cho thấy sự quá tự tin, giá trị càng cao cho thấy sự tự tin càng nhiều. Ngụ ý rằng nhà đầu tư đã có một cái nhìn phóng đại tính chính xác trong thơng tin (quan điểm) của mình.</b>
Trong đó:
: Số lượng cổ phiếu theo nhu cầu của nhà đầu tư i
Là số lượng cổ phiếu ở mức cân bằng (giá trị bằng với giá thị trường)
<i>:</i> <sup>Là độ nhạy cảm của cầu với sự khác nhau giữa giá trị ước lượng lúc </sup><sub>sau và giá trị thị trường</sub>
Số lượng cổ phiếu theo nhu cầu của nhà đầu tư i
Là số lượng cổ phiếu ở mức cân bằng (giá trị bằng với giá thị trường) Là độ nhạy cảm của cầu với sự khác nhau giữa giá trị ước lượng lúc sau và giá trị thị trường
Đường nhu cầu đầu tư của ba nhà đầu tư như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b><small>Cung khối lượng</small></b>
<b><small>Cầu khối lượng</small></b>
<b><small>Cầu khối lượng</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Bài học thứ nhất: Biến động sẽ gia tăng cùng với sự quá tự tin. Việc đánh giá lại gíá trị như nhau sẽ dẫn đến một sự gia tăng lớn hơn trong giá cổ phiếu, khi một trong số các nhà đầu tư quá tự tin hơn.
Bài học thứ hai: Sự quá tự tin sẽ làm tăng hoạt động giao dịch – cũng như tăng khối lượng giao dịch trên thị trường
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">1. Khối lượng dao dịch kỳ vọng tăng khi sự quá tự tin tăng
2. Độ biến động của giá cổ phiếu tăng cùng tâm lý quá tự tin
3. Sự quá tự tin ảnh hưởng xấu đến giá trị, tức là ước lượng giá trị trở
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><small>Brad Barber và Terrance Odean đã điều tra thành quả của những nhà đầu tư cá nhân bằng cách nghiên cứu lịch sử giao dịch của hơn 60.000 nhà đầu tư Mỹ trong giai đoạn 1991-1996 </small>
<small>Mặc dù giao dịch tăng thêm dẫn đến một sự gia tăng rất nhỏ trong lợi nhuận gộp từ đầu tư , nhưng lợi nhuận rịng thì giảm sút. Nói cách khác, hầu hết các giao dịch là khơng có ích. </small>
<small>Bằng chứng do Barber và Odean đưa ra cho thấy các giao dịch không dựa trên cơ sở thông tin tốt hơn, mà thường bị ảnh hưởng bởi sai lệch thông tin. </small>
<b><small>Hình 9.6: Tỷ suất sinh lợi gộp và rịng của các nhóm với các mức độ giao dịch khác nhau</small></b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>Kết quả nghiên cứu có những bằng chứng chắc chắn cho thấy những người phụ thuộc vào hiệu ứng tốt hơn trung bình tiến hành giao dịch nhiều hơn, nhưng có ít bằng chứng tương ứng cho thấy điều này khi đo lường dựa trên các bài kiểm tra sự ước lượng</small>
<b><small>Nghiên cứu của Markus Glaser và Martin Weber</small></b>
<small>Kết quả nghiên cứu cho thấy hoạt động giao dịch có tương quan dương với cả sự quá tự tin và xu hướng tìm kiếm cảm giác trong mẫu nghiên cứu</small>
<b><small>Nghiên cứu củaMark Grinblatt và Matti Keloharju</small></b>
<small>Điều tra xem liệu hoạt động giao dịch có liên quan với sự quá tự tin và xu hướng </small>
<b><small>tìm kiếm cảm giác (Sensation seeking) hay khơng?</small></b>
<small>Tìm kiếm cảm giác là một đặc tính cá nhân được chia thành 4 loại là tìm kiếm cảm giác hồi hộp và mạo hiểm, tìm kiếm kinh nghiệm, tính bộc phát, nhạy cảm với sự nhàm chán</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><b><small>Bảng 9.1:Bảng hồi quy hoạt động giao dịch theo các biến đo lường sự quá tự tin và nhân khẩu học</small></b>
<small>Trong thí nghiệm của Deaves, Luders và Luo năm 2008, các nhà nghiên cứu đã khám phá mối quan hệ giữa hoạt động giao dịch (số lần giao dịch) và sự ước lượng sai – đại diện cho sự quá tự tin, hiệu ứng tốt hơn trung bình và ảo tưởng </small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20"><b><small>Wiliam Goetzmann & Alok Kumar</small></b>
Việc đa dạng hóa thấp xảy ra ít hơn ở những người am hiểu về tài chính
Mức độ đa dạng hóa gia tăng cùng thu nhập, tài sản và độ tuổi
Những người giao dịch nhiều nhất có xu hướng ít đa dạng hóa nhất.
<i><b><small>Yếu tố chi phối cả việc giao dịch quá mức và lẫn đa dạng hóa thấp: Sự tự tin</small></b></i>
<b><small>Những người ít đa dạng hóa</small></b>
<small>Nhạy cảm với xu hướng giá</small> <sub> Ảnh hưởng bởi lệch lạc nội địa</sub>
Hiệu ứng ngược vị thế là xu hướng nắm giữ các khoản thua lỗ quá lâu dẫn đến sự giảm sút trong thành quả.
Một nhà giao dịch quá tự tin trung thành thái quá với niềm
tin ban đầu, bỏ qua những thơng tin tiêu cực => làm giảm giá chứng khốn => nắm
giữ các khoản lỗ lâu hơn, rủi ro gánh chịu nhiều hơn.
<b><small>T</small>hực tế:</b>
Những nhà giao dịch lỗ vào giữa ngày sẽ gai tăng rủi ro và có thành
quả đầu tư kém vào cuối ngày.
<small></small> Indirect test: Là một nghiên cứu về hành vi của nhà đầu tư bằng cách thu thập dữ liệu của họ và đánh giá hành vi thông qua hành động và phản ứng của họ đối với sự thay đổi của thị trường.
<small></small> Direct test: Sử dụng kỹ thuật chụp cộng hưởng từ (MRI) để nghiên cứu về hoạt động của não bộ khi nhà đầu tư phản ứng với thị trường tài chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 43</span><div class="page_container" data-page="43"><b>b. Sensation Seeking và Overconfidence</b>
<small></small> Sensation Seeking (xu hướng tìm kiếm cảm giác): Bằng cách chịu rủi ro từ đầu tư tài chính để tìm kiếm cảm giác «phức tạp, căng thẳng...». Những người có xu hướng tìm kiếm cảm giác dễ dàng chán nản nếu khơng có cảm giác kích thích cao độ.
<small></small> Overconfidence: thường quá tự tin vào đánh giá của bản thân mình và giao dịch thái quá mặc dù điều đó sẽ làm gia tăng chi phí và làm giảm lợi nhuận rịng của họ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 44</span><div class="page_container" data-page="44"><b>c. Underdiversification vs Excessive trading:</b>
<small></small> Đa dạng hóa thấp và giao dịch quá mức là những biểu hiệu của sự tự tin quá mức, Giao dịch quá mức thể hiện thông qua việc gia tăng quá mức các hoạt động giao dịch, cụ thể là tăng khối lượng giao dịch trên thị trường.
<small></small> Trong khi đó, đa dạng hóa thấp thể hiện qua việc danh mục của các nhà đầu tư thơng thường có rất ít loại chứng khốn, phần lớn là dưới 10 loại. Các nhà đầu tư thiếu thời gian để phân tích nhiều loại cổ phiếu, do đó họ sẽ dừng lại sau khi chỉ phân tích một vài mã chứng khốn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 45</span><div class="page_container" data-page="45"><small></small> <b> Static Overconfidence: là một dạng lệch lạc tự quy kết mà không bị ảnh </b>
hưởng bởi sai lầm hoặc thành công trong quá khứ và dẫn hạn chế sự giao dịch thái quá => sự tự tin không đổi qua thời gian
<small></small> <b> Dynamic Overconfidence: là một dạng lệch lạc tự quy kết mà bị ảnh hưởng </b>
bởi thành công trong quá khứ và dẫn đến sự tự tin thái quá. Thất bại trong quá khứ sẽ làm giảm sự tự tin.
</div><span class="text_page_counter">Trang 46</span><div class="page_container" data-page="46">A: p = 100 – q => qA = 100 - p
B: p = 150 – 2q => qB = (150 – p)/2 Tại mức giá $50, qA = 50 và qB = 50
<small></small> Nếu giá chỉ còn $30, qA = 70 và qB = 60; Cả hai nhà đầu tư sẽ gia tăng việc nắm giữ bởi vì giá thị trường của cổ phiếu nhỏ hơn giá trị nội tại. Nhà đầu tư A sẽ hold nhiều cp hơn nhà đầu tư B.
<small></small> Với p tăng 1 thì qA sẽ giảm 1, với p tăng 1 thì qB sẽ giảm ½. Như vậy, với sự thay đổi của giá thì nhà đầu tư A sẽ phản ứng 1 cách mạnh mẽ hơn so với nhà đầu tư B => NĐT A overconfidence hơn NĐT B
</div><span class="text_page_counter">Trang 47</span><div class="page_container" data-page="47">với mục tiêu xem xét liệu các giao dịch của những nhà đầu tư này có hợp lý hay không.
<small></small> Kết quả cho thấy rằng: giao dịch tăng thêm chỉ dẫn đến môt sự gia tăng rất nhỏ trong lợi nhuận gộp, trong khi lợi nhuận rịng thì giảm sút.
<small></small> Như vậy, các giao dịch không dựa trên cơ sở thông tin quan trọng mà thường bị ảnh hưởng bởi sai lệch thông tin. Do đó có thể ở đây, sự tự tin quá mức là nguyên nhân dẫn đến điều này.
</div><span class="text_page_counter">Trang 48</span><div class="page_container" data-page="48">điều tra xem liệu hoạt động giao dịch dựa trên 1 nguồn dữ liệu toàn diện về giao dịch cổ phiếu ở Phần Lan, có liên quan với sự quá tự tin và xu hướng tìm kiếm cảm giác hay không. Nghiên cứu này cho thấy rằng hoạt động giao dịch có tương quan dương với sự quá tự tin và xu hướng tìm kiếm cảm giác.
<small></small> Bruno Biais, Denis Hilton, Karine Mazuier và Sebastien Pouget xem xét tầm ảnh hương của hai đặc điểm tâm lý học – quá tự tin và tự kiểm soát. Nghiên cứu này cho thấy sự quá tự tin không dẫn đến sự giảm sút đáng kể trong lợi nhuận. Sự tự kiểm soát cao, ngược lại, mang lại lợi nhuận giao dịch tương đối cao hơn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 49</span><div class="page_container" data-page="49"><small></small> Trong một nghiên cứu xem xét tập hợp danh mục đầu tư của hơn 3000 NĐT cá nhân ở Mỹ. Hầu hết không nắm giữ cổ phiếu nào, số lượng mã CK trung vị trong port đầu tư của họ là 1. Chỉ khoản 5% các nhà đầu tư năm giữ 10 cổ phiếu trở lên. Hầu hết các nhà đầu tư cá nhân có mức đa dạng hóa danh mục thấp
<small></small> Nguyên nhân:
<small></small> Đa dạng hóa thấp gia tăng cùng thu nhập, tài sản và tuổi.
<small></small> Có những người quá tự tin (Overconfident)
<small></small> Nhay cảm với khuynh hướng giá cả và bị ảnh hưởng bởi local bias
<small></small> Để mua một danh mục vốn cổ phần được đa dạng hóa ở mức cao: Họ phải nắm giữ hơn 10 loại cổ phiếu khác nhau (tốt nhất là trong những lĩnh vực kinh tế khác nhau)
</div><span class="text_page_counter">Trang 50</span><div class="page_container" data-page="50">