Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Môn học dân sự 1 buổi thảo luận thứ năm (quy định chung về thừa kế)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.17 KB, 13 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA LUẬT DÂN SỰ</b>

<b>MƠN HỌC: DÂN SỰ 1BUỔI THẢO LUẬN THỨ NĂM(QUY ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ)</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>VẤN ĐỀ 1: DI SẢN THỪA KẾ</b>

<i>Tóm tắt Bản án số 08/2020/DSST ngày 28/8/2020 của Tòa án Nhân dân thành phốVĩnh n tỉnh Vĩnh Phúc</i>

Ngun đơn: ơng Hồ

Người đại diện theo uỷ quyền: ơng Tồn, ơng Nhân Bị đơn: anh Nam, chị Hương

Nội dung sự việc: ông Hoà và người vợ quá cố là bà Mai. Tài sản tranh chấp là nhà, đất tại phường Đống Đa do khơng thoả thuận được nên ơng Hồ là đơn khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế bà Mai để lại. Bị đơn yêu cầu xác định diện tích 85,5m<small>2</small> chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của gia đình. Khi bà Mai chết không để lại di chúc nên số tài sản của bà Mai tính tốn được là 3.075.807.250 được chia theo pháp luật

Quyết định của tòa: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế của ông Hịa

<i>Tóm tắt Án lệ số 16/2017/AL của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao</i>

Nguyên đơn: chị H1, chị N1, chị H2, chị P Bị đơn : Phùng Văn T

Khái quát nội dung án lệ:

 Tình huống án lệ: Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.  Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải công nhận hợp đồng chuyển

nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng khơng cịn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.

<b>Câu 1. Ở Việt Nam, di sản là gì và có bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cốkhông? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

Di sản có thể được hiểu một cách đầy đủ nhất là những giá trị vật chất, giá trị tinh thần, giá trị tự nhiên và tài sản mà thế hệ trước đã tích lũy, gìn giữ và để lại cho thế hệ sau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Di sản bao gồm tài sản là bất động sản, động sản, hoa lợi; lợi tức thuộc quyền sở hữu, sử dụng của người chết.

Căn cứ theo Điều 612 BLDS 2015: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”

Di sản không bao gồm cả nghĩa vụ của người quá cố. Căn cứ theo điều 615 BLDS 2015 thì nếu như di sản đã được chia thì mỗi người thừa kế sẽ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người quá cố để lại tương ứng với phần tài sản mà mình đã nhận; trong trường hợp di sản chưa được chia, thì nghĩa vụ tài sản do người quá cố để lại được người quản lý di sản thực hiện theo đúng thỏa thuận của những người thừa kế. Nếu có nghĩa vụ của người chết để lại khi chia di sản thì dựa vào Điều 658 để xem xét thứ tự ưu tiên thanh toán để trừ những nghĩa vụ do người quá cố để lại.

<b>Câu 2. Khi tài sản do người quá cố để lại ở thời điểm mở thừa kế bị thay thếbởi một tài sản mới sau đó thì tài sản mới có là di sản khơng? Vì sao?</b>

<b>Câu 3. Để được coi là di sản, theo quy định pháp luật, quyền sử dụng đất củangười quá cố có cần phải đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đấtkhông? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

<b>Câu 4. Trong Bản án số 08, Tịa án có coi diện tích đất tăng 85,5m<small>2</small> chưa đượccấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là di sản không? Đoạn nào của bán áncó câu trả lời?</b>

Khơng được coi là di sản thừa kế, cần tiếp tục giao cho ơng Hồ có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài chính với nhà nước để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Ở đoạn nhận định của toà án trang 217

<b>Câu 5. Suy nghĩ của anh/chị về hướng xử lý nêu trên của Tịa án trong Bản ánsố 08 về diện tích đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.</b>

Theo em tồ giải quyết vậy là hợp lý vì những lí do sau đây:

Thứ nhất: phần đất chưa được cấp phép sử dụng đã được ơng Hồ xây dựng chung với phần đất ơng có giấy phép đàng hồng, phần đất xây lán lấn ra dù chưa được cấp phép nhưng nó khơng có vấn đề tranh chấp, khơng thuộc diện

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

đất quy hoạch phải di dời, ông Hòa quản lý, sử dụng, ổn định nhiều năm nay nên việc để ơng thực hiện nghĩa vụ đóng thuế cho phần đất 85,5m<small>2</small> này để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là hợp lý.

Thứ 2: khơng thể coi đây là tài sản của gia đình được tại vì phần đất này được xây dựng và sử dụng từ lúc anh Nam cịn nhỏ nên nó được đưa vào tài sản chung của vợ chồng trong hôn nhân

<b>Câu 6. Ở Án lệ số 16/2017/AL, trong diện tích 398m<small>2</small> đất, phần di sản củaPhùng Văn N là bao nhiêu? Vì sao?</b>

Trong diện tích 398m<small>2</small> đất thì phần di sản của Phùng Văn N là 133,5m<small>2</small>. Vì năm 1991, bà Phùng Thị G đã chuyển nhượng 131m<small>2</small> trong 398m<small>2</small> đất cho Phùng Văn K, còn lại 267m<small>2</small> đất là tài sản chung của vợ chồng, nên mỗi người được quyền định đoạt ½ là 133,5m<small>2</small>.

<b>Câu 7. Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng PhùngVăn K có được coi là di sản để chia khơng? Vì sao?</b>

Theo Án lệ trên, phần diện tích đất đã chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K không được coi là di sản để chia. Vì theo Tồ: “Năm 1991, bà Phùng Thị G chuyển nhượng cho ơng Phùng Văn K diện tích 131m<small>2</small> trong tổng diện tích 398m<small>2</small> của thửa đất trên; phần diện tích đất cịn lại của thửa đất là 267,4m<small>2</small>. Năm 1999 bà Phùng Thị G đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 267,4m<small>2</small>, bà Phùng Thị G cùng vợ chồng anh Phùng Văn T vẫn quản lý sử dụng nhà đất này. Việc bà Phùng Thị G chuyển nhượng đất cho ông Phùng Văn K các con bà Phùng Thị G đều biết, nhưng khơng ai có ý kiến phản đối gì, các con của bà Phùng Thị G có lời khai bà Phùng Thị G bán đất để lo cuộc sống của bà và các con. Nay ông Phùng Văn K cũng đã được cơ quan nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì vậy, có cơ sở để xác định các con bà Phùng Thị G đã đồng ý để bà Phùng Thị G chuyển nhượng diện tích 131m<small>2</small> nêu trên cho ơng Phùng Văn K.”

<b>Câu 8. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trong Án lệ trên liên quan đếnphần diện tích đã chuyển nhượng cho ông Phùng Văn K.</b>

Hướng giải quyết trong Án lệ liên quan đến phần diện tích đã chuyển nhượng cho ơng K là hợp lý. Vì phần đất đó khi được chuyển nhượng các con của bà G đều

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

biết và không ý kiến do số tiền sau khi bán được sẽ được dùng để trang trải gia đình, ni các con, và cũng ơng K cũng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, tức hợp đồng mua bán này không vi phạm pháp luật. Toà án giải quyết như vậy mới bảo vệ được quyền lợi hợp pháp của ông K.

<b>Câu 9. Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con màdùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó có được coi là disản để chia khơng? Vì sao?</b>

 Trường hợp 1 (di sản của ông N): Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó khơng được coi là di sản (của ơng Phùng Văn N) để chia. Bởi vì:

Sau khi ơng Phùng Văn N chết khơng để lại di chúc thì phần đất có diện tích 398m<small>2</small> là tài sản chung của hai vợ chồng ông Phùng Văn N và bà Phùng Thị G phải được chia đôi là 199m<small>2</small>; Và theo quy định của hàng thừa kế thứ nhất tại điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015 thì những người này được chia thừa kế như nhau, được hưởng phần di sản bằng nhau.

Nếu bà G tự ý bán 131m<small>2</small> đất cho ơng K, khơng có sự đồng ý của các con và dùng tiền đó cho cá nhân mình chứ khơng vì lợi ích của các con thì xem như bà đã bán một phần đất của mình trong khối tài sản chung của hai vợ chồng. Việc mua bán này sẽ không ảnh hưởng đến phần tài sản mà các đồng thừa kế khác được hưởng.

 Trường hợp 2 (di sản của bà G): Nếu bà Phùng Thị G bán đất trên không để lo cuộc sống của các con mà dùng cho tiền đó cho cá nhân bà Phùng Thị G thì số tiền đó được coi là di sản (của bà Phùng Thị G) để chia sau khi bà mất. Bởi vì:

Theo Điều 612 BLDS 2015 thì “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người khác”. Theo đó, ta hiểu rằng di sản chính là tài sản thuộc sở hữu của người để lại thừa kế lúc họ còn sống, đó có thể là tiểu, vật, giấy tờ có giá và quyền tài sản.

Cho nên số tiền mà bà G bán và để lại cho cá nhân của bà được xem là di sản để chia sau khi bà chết đi.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>Câu 10. Ở thời điểm bà Phùng Thị G chết, di sản của bà Phùng Thị G trongdiện tích đất trên là bao nhiêu? Vì sao?</b>

<b>Câu 11. Việc Tòa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là43,5m<small>2</small> có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16khơng? Vì sao?</b>

Việc Tịa án xác định phần còn lại của di sản của bà Phùng Thị G là 43,5m<small>2</small> là khơng thuyết phục. Vì di sản lúc này của ông N (đã trừ đi phần đất bán cho ông K) là 267m<small>2</small> : 2 = 133,5m<small>2</small> sẽ được chia đều cho hàng thừa kế thứ nhất (căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) là bà G và 6 người con, nên phần mà bà G nhận được là: 133,5:7 = ~19,07m<small>2</small>. Vậy trên thực tế, phần di sản mà bà G để lại (trừ đi phần diện tích bà cho chị H1) là: 133,5m<small>2</small> + 19,07m<small>2</small> - 90m<small>2</small> = 62,57m<small>2.</small>

Đây khơng phải là nội dung của Án lệ 16. Vì Án lệ này nói về việc di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và khơng phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Và giải pháp pháp lý là Tịa án phải cơng nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất đã chuyển nhượng khơng cịn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng.

<b>Câu 12. Việc Tòa án quyết định “còn lại là 43,5m<small>2</small> được chia cho 5 kỷ phần cịnlại” có thuyết phục khơng? Vì sao? Đây có là nội dung của Án lệ số 16 khơng?Vì sao?</b>

Tịa án quyết định “cịn lại là 43,5m<small>2</small><b> được chia cho 5 kỷ phần cịn lại” là khơng</b>

<b>thuyết phục vì trước khi bà G chết bà có để lại di chúc 90m</b><small>2</small> cho chị H1 là theo tâm nguyện của bà phần cịn lại thì phân chia tài sản 5 kỷ phần còn lại là chưa hợp lý, không đảm bảo quyền lợi cho chị H bởi căn cứ theo điểm a khoản 1 Điều

<i>651 BLDS 2015 thì: “a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ,</i>

<i>cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;”</i>

Như vậy chị H1 thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên chị H1 vẫn có quyền hưởng thừa kế đối với phần di sản còn lại của bà G.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>VẤN ĐỀ 2: QUẢN LÝ DI SẢN</b>

<i>Tóm tắt Bản án số 11/2020/DS-PT ngày 10/6/2020 của Tịa án nhân dân tỉnh Sơn La</i>

Nguyên đơn: Anh Phạm Tiến H Bị đơn: Anh Phạm Tiến N

Anh Phạm Tiến H và anh Phạm Tiến T, cháu Phạm Tiến N có họ hàng với nhau, anh T là anh trai ruột của anh H và cháu N là con trai của của anh Phạm Tiến T. Bố mẹ của nguyên đơn Phạm Tiến H là ông Phạm Tiến Đ, bà Đồn Thị T sinh được 7 người con, khi cịn sống có tạo dựng một khối tài sản gồm có 311m<small>2</small> đất và một ngôi nhà gỗ 4 gian. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Đồn Thị T. Năm 1994, ơng Đ chết, đến năm 2012 bà T chết; cả hai ông bà không để lại di chúc. Các thành viên trong gia đình thay nhau trông coi, quản lý khối tài sản của ông Đ và bà T. Nay anh H tu sửa lại ngôi nhà và quản lý đất đai bố mẹ để lại để làm nơi thờ cúng bố mẹ chứ không phân chia, tuy nhiên khi anh có ý định sửa thì cháu N cản trở. Anh H đề nghị Tịa án giải quyết vụ án quyết buộc cháu N và anh T không được cản trở việc anh tu sửa ngôi nhà, cháu N không được xâm phạm đến tài sản của bố mẹ anh.Tòa án đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Tiến H. Giao cho anh H được quyền quản lý tài sản thừa kế của ơng Phạm Tiến Đ và bà Đồn Thị T. Anh H có các quyền và nghĩa vụ của người quản lý di sản theo quy định tại các Điều 616, Điều 617, Điều 618 của Bộ luật Dân sự 2015.

<i>Tóm tắt Quyết định số 147/2020/DS-GĐT ngày 09/7/2020 của Tịa án nhân dân cấpcao tại TP. Hồ Chí Minh</i>

Ngun đơn: ông Trà Văn Đạm Bị đơn: ông Phạm Văn Sơn Nhỏ

Nội dung: giữa ơng Đạm và ơng Nhỏ có thỏa thuận cho ông Đạm mở lối đi ra đường cơng cộng trên phần đất của ơng Ngót, nhưng phần đất đó là di sản chưa chia của ơng Ngót nên ơng Nhỏ khơng có quyền định đoạt, nay ơng Đạm khởi kiện yêu cầu ông Nhỏ, bà Chơi cùng những người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ xin mở lối đi ngang 1,5m, dài 21m qua đất ông Ngót

Quyết định của Tồ: Tồ sơ thẩm và phúc thẩm buộc ông Nhỏ và những người cùng hàng thừa kế với ông Nhỏ phải mở lối đi cho ông Đạm. Toà giám đốc thẩm huỷ bản án phúc thẩm, giao hồ sơ cho TAND tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm lại.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Câu 1. Trong Bản án số 11, Tịa án xác định ai là người có quyền quản lý di sảncủa ông Đ và bà T; việc xác định như vậy có thuyết phục khơng, vì sao?</b>

Tịa xác định anh H là người có quyền quản lý di sản của ông Đ và bà T

Theo em là hợp lý, vì khi chết ơng bà khơng để lại di chúc, nên di sản sẽ được chia theo pháp luật: chia theo các hàng thừa kế nhưng các hàng thừa kế của ơng bà đều nhất trí xác nhận uỷ quyền cho anh H toàn quyền xử lý vụ việc và giao di sản thừa kế cho anh H trông coi quản lý (trang 226 đoạn cuối). Bên cạnh đó ơng H cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên việc này cũng xem là phù hợp.

<b>Câu 2. Trong Bản án số 11, ông Thiện trước khi đi chấp hành án có là ngườiquản lý di sản khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

Ông Thiện dù trước khi đi chấp hành án cũng không được xem là người quản lý di sản vì bố mẹ ơng mất không để lại di chúc nên di sản này thuộc về tất cả các hàng thừa kế bao gồm ông, bên cạnh đó trước khi đi thi hành án, ông cũng không thực tế ở tại ngôi nhà ấy.

Cơ sở pháp lý:Điều 651 BLDS 2015: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"

Theo cơ sở pháp lý trên cho thấy di sản đó thuộc quyền quản lý của cả tất các anh em con ông Đ và bà T chứ không của riêng ông Thiện.

<b>Câu 3. Trong Bản án số 11, việc Tòa án giao cho anh Hiếu (Tiến H) quyền quảnlý di sản có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

Thuyết phục vì khi chết ơng bà khơng để lại di chúc, nên di sản sẽ được chia theo pháp luật: chia theo các hàng thừa kế nhưng các hàng thừa kế của ơng bà đều nhất trí xác nhận uỷ quyền cho anh H toàn quyền xử lý vụ việc và giao di sản thừa kế cho anh H trông coi quản lý (trang 226 đoạn cuối). Bên cạnh đó ơng H cũng thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên việc này cũng xem là phù hợp.

Cơ sở pháp lý: Điều 651 BLDS 2015: "Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;"

<b>Câu 4. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền tơn tạo, tusửa lại di sản như trong Bản án số 11 không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

Theo như bản án sơ thẩm xác định và đã được xác minh với các bà Phạm Thị L, bà Phạm Thị N, bà Phạm Thị Nh, bà Phạm Thị H, Phạm Thị H đều là con gái

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

của ông Đ và bà T cũng có quyền quản lý khối di sản thừa kế tuy nhiên đã ủy quyền toàn bộ cho anh H, nhất trí với việc giao di sản thừa kế cho anh Hiệu trông coi, quản lý. Như vậy, căn cứ theo Khoản 1 Điều 616 BLDS 2015 quy định về người quản lý di sản: “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.” thì anh Hiệu được xác định là người quản lý di sản do những người thừa kế thỏa thuận cử ra. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 quy định về quyền quản lý di sản:

"Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế; c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản."

Thì khơng có quy định nào về việc người quản lý di sản có quyền tơn tạo, tu sửa lại di sản. Do đó, trong Bản án số 11, thì anh Hiệu với tư cách là người quản lý di sản không được tôn tạo, tu sửa căn nhà.

<b>Câu 5. Khi là người quản lý di sản, người quản lý di sản có quyền giao lại chongười khác quản lý di sản (như trong Bản án số 11 là ông Thiện giao lại cho contrai) không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

 Căn cứ vào Khoản 1 Điều 618 BLDS 2015 quy định về Quyền của người quản lý di sản:

"Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 616 của Bộ luật này có quyền sau đây:

a) Đại diện cho những người thừa kế trong quan hệ với người thứ ba liên quan đến di sản thừa kế;

b) Được hưởng thù lao theo thỏa thuận với những người thừa kế; c) Được thanh tốn chi phí bảo quản di sản."

Thì khơng có quy định nào về việc người quản lý di sản có quyền giao lại cho người khác quản lý. Do đó người quản lý di sản khơng được giao lại quyền và nghĩa vụ cho người khác quản lý.

 Trong trường hợp Bản án số 11, sau khi bà T chết, ông Thiện là người trực tiếp sinh sống và quản lý di sản của ông Đ và bà T. Khi ông Thiện đi chấp hành án,

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

có giao lại cho anh Nghĩa trơng coi di sản của ông bà. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 616 BLDS 2015 thì “Người quản lý di sản là người được chỉ định trong di chúc hoặc do những người thừa kế thỏa thuận cử ra.” thì sau khi ơng Đ, bà T chết khơng để lại di chúc; việc quản lý của ông Thiện khơng có sự nhất trí bằng văn bản của các đồng thừa kế. Do đó, ơng Thiện khơng phải là người quản lý di sản, càng khơng có quyền giao lại cho con trai là Phạm Tiến N trông coi, sử dụng di sản của ông Đ, bà T.

<b>Câu 6. Trong Quyết định số 147, Tòa án xác định người quản lý khơng cóquyền tự thỏa thuận mở lối đi cho người khác qua di sản có thuyết phụckhơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b>

Tòa xác định như vậy là thuyết phục.

Cơ sở pháp lý: điểm b khoản 1 Điều 617 BLDS 2015 về nghĩa vụ của người quản lý di sản: “Bảo quản di sản; không được trao bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp hay định đoạt tài sản bằng hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;”

Việc ông Nhỏ thỏa thuận mở lối đi cho ông Đạm là quyết định cá nhân của ông Nhỏ, không có sự đồng ý của những người thừa kế khác, vì vậy, quyền định đoạt này của ơng Nhỏ là khơng có căn cứ pháp luật.

<b>VẤN ĐỀ 3: THỜI HIỆU TRONG LĨNH VỰC THỪA KẾ</b>

<i>Tóm tắt Án lệ số 26/2018/AL về xác định thời điểm bắt đầu tính thời hiệu và thời hiệuyêu cầu chia di sản thừa kế là bất động sản</i>

<b>Câu 1. Cho biết các loại thời hiệu trong lĩnh vực thừa kế ở Việt Nam.</b>

Theo BLDS 2105 tại Điều 623 thì có 3 loại thời hiệu:

(1). Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản và 10 năm đối với động sản, kể từ thời điểm mở thừa kế.

(2). Thời hiệu để người thừa kế yêu cầu xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là 10 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế. (3). Thời hiệu yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của người chết để lại là 3 năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.

</div>

×