Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Tiểu luận kết thúc môn môn lịch sử đảng cộng sản việt nam đường lối của đảng cộng sản việt nam về quản lý kinh tế (1975 1986

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.9 MB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

<b> TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIA ĐỊNH KHOA: KINH TẾ - QUẢN TRỊ</b>

<b>TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔNMÔN: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT</b>

<b> ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG CỘNGSẢN VIỆT NAM VỀ QUẢN LÝ KINH</b>

<b>TẾ (1975-1986) </b>

Ngành:

<b>QUẢN TRỊ KINH DOANH</b>

<i><b> </b></i>

Giảng viên hướng dẫn:

<b>TH.S NGUYỄN CAO LÂM</b>

Sinh viên thực hiện:

<b>NGUYỄN HỮU CẢNH-2101110407 PHẠM ANH HÀO-2101110429 BÙI MAI NHẬT NAM-2101110421</b>

<b> NGUYỄN DUY TRƯỜNG-2101110409</b>

Lớp:

<b>K15DCQT09</b>

TP. Hồ Chí Minh, tháng 7 năm 2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Khoa: ………</b>

<b>NHẬN XÉT VÀ CHẤM ĐIỂM CỦA GIẢNG VIÊN </b>

<b>TIỂU LUẬN MÔN: ………..</b>

1. <b>Họ và tên sinh viên: ……… </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1.3 Mục tiêu và phương pháp quản lý của Đảng Cộng sản Việt Nam...6

1.4 Nguyên tắc và chủ đề quản lý kinh tế:...7

1.5 Thành tựu và hạn chế...8

CHƯƠNG II: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO QUẢN LÝ KỊNH TẾ (1975-1986)...13

2.1 Quá trình hình thành đường lối về quản lý kinh tế của Đảng Cộng Sản Việt Nam:....13

2.2 Quan điểm, chủ trương về quản lý kinh tế của đảng cộng sản việt nam...15

2.3 Những Thành Tựu và hạn chế của Kinh tế Việt Nam ( 1975-1986 )...17

KẾT LUẬN...20

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>PHẦN MỞ ĐẦU</b>

Lý do chọn đề tài "Đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về quản lý kinh tế (1975-1986)" là để nghiên cứu và hiểu rõ hơn về những chính sách và quyết định quản lý kinh tế của Đảng trong giai đoạn đầu tiên của thời kỳ cải cách và mở cửa của Việt Nam. Mục tiêu của nghiên cứu là: Hiểu và phân tích sâu hơn về đường lối quản lý kinh tế của Đảng trong giai đoạn này. Đây là giai đoạn quan trọng, với sự gắn kết chặt chẽ giữa quản lý kinh tế và mục tiêu chính trị của Đảng. Đánh giá hiệu quả và hạn chế của đường lối quản lý kinh tế này. Nhìn lại quá trình quản lý kinh tế của Đảng trong giai đoạn này sẽ giúp xác định những thành cơng, khó khăn và sai lầm, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho q trình phát triển kinh tế hiện tại và tương lai của Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu sẽ bao gồm: Nghiên cứu hồ sơ và tư liệu chính thức liên quan. Sử dụng các tài liệu, báo cáo, chính sách và quyết định của Đảng và Nhà nước để hiểu rõ hơn về đường lối quản lý kinh tế của Đảng trong giai đoạn này. Phân tích chun sâu thơng qua đánh giá chất lượng và hiệu quả của các chính sách kinh tế. Dựa trên thông tin thu thập được, sẽ đánh giá các chính sách, quyết định và biện pháp của Đảng trong việc quản lý kinh tế và đạt được những mục tiêu kinh tế. Kết cấu của đề tài sẽ gồm: Phần giới thiệu: trình bày về lý do chọn đề tài, mục tiêu và phương pháp nghiên cứu. Phần lý thuyết: tóm tắt các lý thuyết và khái niệm liên quan đến quản lý kinh tế trong ngữ cảnh của Đảng Cộng sản Việt Nam. Phần nghiên cứu: phân tích đường lối quản lý kinh tế của Đảng trong giai đoạn 1975-1986, đánh giá hiệu quả và hạn chế của nó. Phần kết luận: tổng kết nội dung nghiên cứu, rút ra bài học kinh nghiệm và đưa ra đề xuất cho quá trình phát triển kinh tế hiện tại và tương lai của Việt Nam. Qua việc nghiên cứu đề tài này, hy vọng sẽ có cuộc trao đổi và thảo luận về việc quản lý kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn quan trọng này và đóng góp vào sự phát triển bền vững của đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN NỘI DUNG:</b>

<b>CHƯƠNG I: TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1975</b>

<b>1.1 Tình hình kinh tế.</b>

Trước năm 1975, Việt Nam đã trải qua một thời kỳ chiến tranh kéo dài và phân chia thành hai miền Bắc và Nam. Tình hình kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn này là khó khăn và chịu nhiều tác động tiêu cực từ chiến tranh và những chính sách kinh tế của hai miền. Ở miền Nam, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu đã triển khai chính sách khống sản hóa và xuất khẩu nơng sản để đảm bảo nguồn tài chính cho cuộc chiến tranh. Tuy nhiên, chính sách này đã gặp nhiều khó khăn do sự phụ thuộc quá mức vào nguồn tài nguyên tự nhiên và việc thiếu đầu tư vào cơng nghiệp hóa và đổi mới kỹ thuật.

Trong khi ấy, ở miền Bắc, chính quyền Việt Minh (sau này trở thành Đảng Cộng sản Việt Nam) thực hiện chính sách tập trung, quốc doanh, và thực hiện các reform đất đai và chính sách tiến tới hợp tác xã. Nỗ lực này đã tạo ra một sự cơ bản ổn định trong nền kinh tế, nhưng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn do thiếu hụt tài nguyên và sự đe dọa từ cuộc chiến tranh. Tổng thể, nền kinh tế của Việt Nam trước năm 1975 chịu ảnh hưởng lớn từ chiến tranh và bất ổn chính trị, gây ra những hạn chế lớn đối với phát triển kinh tế của đất nước. Đồng thời, Việt Nam cũng phải đối mặt với nạn đói, trục trặc trong lưu thơng hàng hóa và nguồn lực, cùng với những vấn đề xã hội và kinh tế khác.

<b>1.2 Tình hình xã hội.</b>

Trước năm 1975, tình hình xã hội của Việt Nam bị ảnh hưởng nặng nề bởi chiến tranh và chia cắt đất nước. Mỗi miền được quản lý bởi một chính phủ hoặc chế độ khác nhau, dẫn đến tình trạng mất mát đất đai, di dân và tiêu diệt hàng ngàn người dân.

Bên phía miền Bắc, sau khi chiến tranh với Pháp kết thúc vào năm 1954, miền Bắc được quyết định là khu vực do chính phủ Dân chủ đứng đầu do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Tuy nhiên, tình hình sau đó khá khó khăn vì phải tái xây dựng kinh tế và hạ tầng sau chiến tranh. Ngoài ra, chính sách thuộc địa Liên Xơ cản trở sự phát triển của nền kinh tế.

Miền Nam, do chính phủ của Bùi Diễn Đĩnh kiểm sốt, tình hình cũng rất phức tạp. Quân đội Pháp đã rút khỏi Việt Nam vào năm 1954, nhưng sau đó, chiến tranh dân tộc giữa phe Cộng Hòa và Việt Cộng diễn ra. Chiến tranh tàn khốc này khiến hàng trăm ngàn người dân và quân lính thiệt mạng và gây tổn hại lớn cho hạ tầng và nền kinh tế khu vực.

Tình hình kinh tế chung của Việt Nam trước năm 1975 rất khó khăn. Sự phân chia và chiến tranh kéo dài đã làm suy yếu nền kinh tế ở cả miền Bắc và miền Nam. Việc đất đai bị chiếm giữ và chia cắt đối tượng nơng dân và có tầm quan trọng quốc phịng cũng làm tăng khó khăn cho người dân. Tinh thần đoàn kết trong xã hội cũng bị ảnh hưởng đáng kể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Các phe phái chính trị và tư tưởng xen kẽ trong thời gian này đã gây ra chia rẽ và xung đột trong cộng đồng. Người dân sống trong sợ hãi và căng thẳng, khơng có niềm tin vào tương lai. trước năm 1975, tình hình xã hội của Việt Nam đặc biệt khó khăn và phức tạp. Chiến tranh và chia cắt đất nước đã tàn phá nề nếp xã hội, suy yếu nền kinh tế và tạo ra áp lực và sợ hãi cho người dân. Việc tái thiết và tái lập đất nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng sau khi Việt Nam thống nhất vào năm 1975.

<b>1.3 Mục tiêu và phương pháp quản lý của Đảng Cộng sản Việt Nam.</b>

Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặt mục tiêu và phương pháp quản lý kinh tế trong giai đoạn từ 1975 đến 1986 nhằm tái thiết và phát triển nền kinh tế sau chiến tranh, xây dựng một xã hội công bằng và tiến bộ.

<b>Mục tiêu quản lý kinh tế:</b>

Tạo dựng một nền kinh tế cơ sở xã hội chủ nghĩa: Mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là tiến tới hình thành một nền kinh tế theo cách mà nguyên lý cơ bản của xã hội chủ nghĩa được thể hiện. Đảng đề cao vai trò của nhà nước và nguồn lực nhà nước trong việc quản lý và sở hữu các phương tiện sản xuất chủ yếu, từ đó tăng cường khối lượng sản xuất và nâng cao đời sống của nhân dân.

Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước: Đứng trước tình hình kinh tế sau chiến tranh, Đảng tập trung cơng cuộc phát triển kinh tế về phía cơng nghiệp hố. Điều này có thể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tăng cường khả năng cạnh tranh của nước ta trên thị trường quốc tế và cải thiện mức sống của nhân dân.

Phương pháp quản lý kinh tế:

Áp dụng quản lý kinh tế theo mơ hình trung ương: Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng mơ hình kinh tế quản lý tập trung, với chủ trương tập trung quản lý từ trung ương. Nhà nước đảm bảo quyền sở hữu chủ yếu và thực hiện kiểm soát quảng bá của họ.

Xây dựng hệ thống kinh tế quốc doanh: Đảng khuyến khích quản lý và phát triển các doanh nghiệp quốc doanh, nhằm thực hiện những mục tiêu quốc gia và tạo điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân.

Khuyến khích sự phát triển và thúc đẩy đầu tư trong kinh tế xã hội: Đảng đề cao vai trò của đầu tư để xây dựng nền kinh tế. Điều này yêu cầu tạo điều kiện tốt để trao quyền cho các doanh nghiệp và nhà đầu tư tư nhân trong việc hoạt động kinh tế, đồng thời tạo cơ hội để khôi phục và phát triển kinh tế sau chiến tranh.

Tìm kiếm hợp tác quốc tế và mở cửa đối ngoại: Đảng thúc đẩy việc mở cửa đối với thế giới bên ngoài, mở cánh cửa cho hợp tác quốc tế và thu hút đầu tư nước ngoài. Điều này góp phần nâng cao cơng nghệ, quản lý và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam. Trên cơ sở các mục tiêu và phương pháp quản lý nêu trên, Đảng Cộng sản Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể trong việc phục hồi và phát triển kinh tế sau chiến tranh, làm nền tảng cho giai đoạn đổi mới và hội nhập kinh tế vào những năm sau này.

<b>1.4 Nguyên tắc và chủ đề quản lý kinh tế:</b>

Trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1986, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã thực hiện một loạt nguyên tắc và chủ đề quản lý kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia. Dưới đây là một số nguyên tắc và chủ đề quản lý kinh tế quan trọng trong giai đoạn này:

Chủ trương định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa: Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh về việc xây dựng một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc công cuộc khai thác và phân chia công bằng, phát triển cộng đồng và nâng cao đời sống nhân dân.

Quy hoạch kinh tế: Đảng Cộng sản Việt Nam đã lập các kế hoạch quy hoạch kinh tế dài hạn và ngắn hạn, nhằm định hướng và phân định rõ nhiệm vụ của các ngành, lĩnh vực kinh tế. Cải cách đất nước: Đảng Cộng sản Việt Nam đã tiến hành chính sách cải cách đất nước, nhằm tiến xa Mục tiêu xây dựng xã hội chủ nghĩa.

Cải cách nông nghiệp: Chủ đề quản lý kinh tế quan trọng khác là cải cách nông nghiệp, bao gồm việc đưa vào quản lý và phát triển các hợp tác xã, tăng cường sử dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp và nâng cao thu nhập cho nông dân.

Xây dựng công nghiệp: Để phát triển nền kinh tế, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt tập trung vào xây dựng và phát triển công nghiệp, đảm bảo cung ứng các nguyên vật liệu và sản phẩm cần thiết cho sự phát triển của cả nền kinh tế.

Khuyến khích đầu tư nước ngồi: Đảng Cộng sản Việt Nam đã tạo điều kiện và khuyến khích đầu tư nước ngồi, nhằm tăng cường quan hệ kinh tế quốc tế và hỗ trợ trong việc phát triển kinh tế.

Xây dựng hệ thống hạ tầng: Đảng Cộng sản Việt Nam đã đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng hệ thống giao thông, điện lực, thông tin và các cơ sở hạ tầng cần thiết khác, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế và xã hội.

Trong giai đoạn từ năm 1975 đến 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã thực hiện một loạt nguyên tắc và chủ đề quản lý kinh tế, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng quốc gia. Những nguyên tắc và chủ đề này nhấn mạnh về việc xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, phát triển nông nghiệp và công nghiệp, cải cách đất nước và tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư nước ngoài.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>1.5 Thành tựu và hạn chế Thành tựu:</b>

Khôi phục và phát triển kinh tế miền Bắc,chi viện miền Nam . Sau khi hồ bình được lập lại (1954), cùng với nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, Đảng và Nhà nước đã tập trung sức phát triển kinh tế ở miền Bắc theo kế hoạch, đồng thời chi viện cho miền Nam đánh Mỹ và tay sai. Trong 3 năm 1955-1957, miền Bắc tập trung khôi phục kinh tế với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển sản xuất nông nghiệp và cải cách ruộng đất. Đến năm 1957, cải cách ruộng đất đã cơ bản hồn thành. Trên 2,1 triệu hộ nơng dân nghèo được chia 810 nghìn ha ruộng và 740 nghìn trâu bị. Sức sản xuất ở nơng thơn miền Bắc được giải phóng, hàng triệu hộ nơng dân nghèo phấn khởi nên đã bỏ nhiều công sức cùng Nhà nước đầu tư xây dựng các cơng trình thuỷ lợi, khai hoang, phục hố,bồi trúc đê điều...để phát triển nơng nghiệp. Nhờ đó, sau 3 năm khơi phục kinh tế,85% diện tích hoang hoá được đưa vào sử dụng. Giá trị sản xuất nông nghiệp năm 1957 tăng gần 16,7% so với năm 1955. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 3.759 nghìn tấn năm 1955 lên 4738 nghìn tấn năm 1956 và 4.2903 nghìn tấn năm 1957. Đàn trâu năm 1957 đạt 1237 nghìn con, tăng 18% so năm 1955. Sản lượng các nông sản khác đều tăng khá. Kế hoạch 3 năm 1958-1960 với nội dung chủ yếu là cải tạo quan hệ sản xuất, trọng tâm là hợp tác hố nơng nghiệp. Đến năm 1960, miền Bắc đã cơ bản hoàn thành HTHNN với trên 80% số hộ nơng dân vào HTX. Tuy nhiên,do có khuyết điểm trong tổ chức và quản lý nên nhiều HTXSXNN không phát huy tác dụng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Hậu quả là sản xuất giảm sút: sản lượng lương thực quy thóc năm 1960 chỉ đạt 4.698 nghìn tấn, bằng 97% năm 1958.Trong 15 năm 1961-1975, thì 11 năm có chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, nên sản xuất nơng nghiệp phát triển rất khó khăn. Thêm vào đó phong trào tập thể hố triệt để đã tác động tiêu cực đến sản xuất nơng nghiệp,nhiều mặt giảm sút. Sản lượng lương thực bình quân nhân khẩu giảm từ 325,7 kg năm 1960 xuống 272,1 kg năm 1970 và 243,3 kg năm 1975. Lương thực thiếu nghiêm trọng nên Nhà nước phải nhập khẩu gạo với số lượng lớn: năm 1970 là 1062 nghìn tấn, năm 1974 là 1544 nghìn tấn. Sản xuất trong nước không đủ tiêu dùng nên phần vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn : 59,% trong tổng thu ngân sách và 54,4% tổng chi ngân sách thời kỳ 1970-1975.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Mặc dù các cơ sở công nghiệp nhỏ bé lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề nhưng sản xuất công nghiệp miền Bắc từng bước được khôi phục và phát triển. Nhiêù cơ sở sản xuất công nghiệp mới được phục hồi và xây dựng mới. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1975 tăng gấp 16,6 lần năm 1955, bình quân mỗi năm tăng 14,7%. Hầu hết các sản phẩm cơng nghiệp tính bình qn đầu người năm 1975 đã đạt mức cao hơn nhiều so với năm 1955, trong đó: điện gấp 13,8 lần, than 4,8 lần, xi măng 25,2 lần, giấy 14,5 lần, vải 4,8 lần, đường 4,0 lần. Năm 1975, miền Bắc đã có 1335 xí nghiệp cơng nghiệp quốc doanh, tăng 323 xí nghiệp so 1960, một số ngành cơng nghiệp nặng có năng lực sản xuất khá lớn: ngành điện có 38 xí nghiệp, trong đó các xí nghiệp do TW quản lý có tổng công suất thiết kế 429216KW. Cơng nghiệp cơ khí có 292 cơ sở với 60 nghìn cơng nhân, cơng nghiệp vật liệu xây dựng 506 cơ sở với 86657 cơng nhân, cơng nghiệp hố chất 74 cơ sở, với 23 nghìn cơng nhân. Vị trí của cơng nghiệp trong tổng sản phẩm xã hội tăng từ 32,7% năm 1960 lên 42,6% năm 1975, thu nhập quốc dân từ 18,2% lên 28,7% trong 15 năm tương ứng.

Bên cạnh những tiến bộ đó, kinh tế miền Bắc thời kỳ này cũng đã bộc lộ xu hướng không đều và không vững. Tăng trưởng sản xuất chủ yếu là tăng sản lượng, còn chất lượng thấp, chi phí cao, phổ biến khơng có lãi, bao cấp nặng nề. Nguồn thu ngân sách chủ yếu dựa vào khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể,nhưng sản xuất, kinh doanh của các khu vực này tăng chậm hoặc giảm sút. Sản xuất trong nước không đủ tiêu dùng nên phần vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm tỷ trọng lớn : 59,% trong tổng thu ngân sách và 54,4% tổng chi ngân sách thời kỳ 1970-1975.

Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế miền Bắc vốn đã nhỏ bé lại bị chiến tranh phá hoại của Mỹ tàn phá rất nặng nề suốt 11/20 năm, những yếu kém và bất cập khó có thể tránh khỏi. Đánh giá tổng quát, những kết quả đạt được như trên là thành tựu đáng ghi nhận. Kết quả cụ thể là, nhiều sản phẩm nông nghiệp, công nghiệp miền Bắc không chỉ đảm bảo nhu cầu tiêu dùng tối thiểu của nhân dân theo định mức thời chiến mà còn dành một phần rất lớn chi viện cho chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước,giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà mùa xuân 1975.

Tạo ra một công nghiệp nền tảng: Việt Nam đã xây dựng được một số ngành công nghiệp cơ bản và hạ tầng kỹ thuật, như công nghiệp dệt may, thép, xi măng và điện lực.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Phát triển nơng nghiệp: Chính sách của Chính phủ nhằm thúc đẩy nông nghiệp, làm tăng năng suất và mở rộng diện tích đất canh tác. Điều này đã giúp tăng cường sản xuất lương thực và nâng cao tỷ lệ nuôi cơ bản cho dân số.

Đào tạo lao động: Chính phủ đã đầu tư mạnh vào giáo dục và đạo tạo, cung cấp cho người dân một số cơ hội học tập và đào tạo nghề, đem lại sự phát triển cho lao động và tăng cường năng lực lao động của Việt Nam.

Đầu tư vào cơ sở hạ tầng: Chính phủ đã xây dựng các cơng trình hạ tầng chính, bao gồm đường, cầu, nhà máy điện và các cơng trình cơng cộng khác. Điều này đã cung cấp một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các công ty và doanh nghiệp.

<b>Hạn chế:</b>

1. Chiến tranh:

Việt Nam đã trải qua chiến tranh kéo dài và tiêu tốn nhiều nguồn lực, gây thiệt hại nghiêm trọng cho kinh tế. Chiến tranh cản trở sự phát triển của đất nước, gây tổn thất về cuộc sống, tài nguyên và hạ tầng.

2. Đảng cộng sản:

Chính sách kinh tế của Đảng Cộng sản đã gây ra nhiều ràng buộc và hạn chế cho doanh nghiệp tư nhân và các hoạt động kinh doanh. Khơng có sự đa dạng và cạnh tranh, dẫn đến hiệu suất kinh tế thấp.

3. Khơng có khả năng tiết kiệm:

Việt Nam khơng có khả năng tiết kiệm do thu nhập quá thấp nên thiếu vốn để phát triển sản xuất. Đầu tư phát triển hoàn toàn dựa vào vốn vay và vốn viện trợ. Thu chi ngân sách phải dựa vào vốn vay và viện trợ nước ngoài. Trong giai đoạn 1976-1980, vay nợ và viện trợ nước ngoài chiếm đến 38,2% tổng thu ngân sách và bằng 61,9% tổng thu trong nước, 37,3% tổng chi ngân sách. Bội chi ngân sách năm 1980 là 18,1% và năm 1985 là 36,6% phải bù đắp bằng phát hành giấy bạc dẫn đến siêu lạm phát vào năm 1986 với tốc độ tăng giá 774,7%. Công nghiệp đình đốn do thiếu nguyên liệu sản xuất vì bị bao vây cấm vận và thiếu ngoại tệ để nhập khẩu nguyên liệu, thiếu điện để vận hành máy móc, hệ thống máy móc lạc

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

hậu và khơng có phụ tùng để thay thế khi bị hư hỏng. Hầu hết các loại hàng tiêu dùng đều phải nhập khẩu toàn bộ hay một phần do sản xuất trong nước không đảm bảo được cho tiêu dùng. Trong giai đoạn 1976-1985 đã nhập 60 triệu mét vải và 1,5 triệu tấn lương thực . Hiệu quả đầu tư cho công nghiệp thời kỳ này thấp nên sản xuất tăng trưởng chậm và không ổn định. Nông nghiệp không đủ sức đáp ứng nhu cầu trong nước. Bộ máy nhà nước cồng kềnh và thiếu hiệu quả, tệ quan liêu bàn giấy phổ biến. Toàn bộ xã hội rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Liên Xơ, Trung Quốc, Bắc Triều Tiên và nhiều nước khác đã sử dụng mơ hình kinh tế chỉ huy để hiện đại hóa quốc gia, xây dựng nền tảng cơng nghiệp, nhưng Việt Nam khơng thể làm được điều đó vì Việt Nam khơng có nguồn lực để phát huy được thế mạnh của mơ hình kinh tế này, mà cịn phải hứng chịu những nhược điểm của nó.

4. Thiếu nguồn vốn đầu tư:

Việt Nam trước đây thiếu nguồn vốn đầu tư và các nguồn tài chính. Sự thiếu hoặc hạn chế vốn đã làm chậm tiến độ và giới hạn phạm vi các dự án kinh tế. Trước năm 1975, mỗi năm Kinh tế Việt Nam Cộng hòa được Mỹ viện trợ khoảng một tỷ USD. Miền Bắc cũng được chi viện của các nước xã hội chủ nghĩa một lượng khoảng 200 triệu USD. Sau ngày thống nhất không lâu, Mỹ bao vây cấm vận, đặc biệt là tại miền Nam, các nhà xưởng vốn đã sử dụng phương tiện, máy móc sản xuất của Mỹ và phương Tây nên khơng có phụ tùng để tiếp tục hoạt động. Quy mô viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cũng giảm đi nhanh chóng, Liên Xơ và Đơng Âu dù vẫn cịn giúp đỡ vài năm nữa, nhưng do trượt giá đồng tiền của họ nên lượng hàng hóa, ngun liệu thực về nước chỉ cịn phân nửa trước đây. Tất cả đã tác động rất mạnh vào nền kinh tế của đất nước. Quy mô xuất khẩu của miền Bắc (than, thiếc, đồ thủ công…) lúc này chỉ độ 200 triệu rúp mỗi năm. Lúc đó, trao đổi thương mại chủ yếu là với các nước trong Hội đồng Tương trợ Kinh tế do Nhà nước độc quyền. Do bị Mỹ cấm vận kinh tế nên quan hệ mậu dịch với bên ngoài bị hạn chế, trong khi Liên Xơ và Đơng Âu lúc đó cũng gặp khó khăn nên khơng hỗ trợ được nhiều.

5.Thiếu công nghệ và chuyển giao công nghệ:

Nhà nước chú trọng phát triển công nghiệp nặng để xây dựng nền tảng kỹ thuật cho nền kinh tế trong khi công nghiệp nhẹ và nông nghiệp không được đầu tư đúng mức nên đã gây ra lãng phí lớn các nguồn lực đầu tư vốn đã khan hiếm. Hệ quả là công nghiệp nặng không

</div>

×