Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tiểu luận kiểm tra và chẩn đoán hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.92 KB, 33 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HCMVIỆN KỸ THUẬT</b>

<b>Mơn học: Cơng nghệ chuẩn đốnTIỂU LUẬN CUỐI KỲ</b>

<b>KIỂM TRA VÀ CHẨN ĐOÁN </b>

<b>HỆ THỐNG CUNG CẤP NHIÊN LIỆU XĂNG</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Tiểu luận không chỉ đơn thuần là bài tập nghiên cứu khoa học, mà còn là bài tập để đánh giá cách thức giao tiếp và thái độ học tập của sinh viên. Do vậy để hoàn thành một đề tài tiểu luận là một việc không dễ dàng đối với những sinh viên như chúng em. Đầu tiên, chúng em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Viện kỹ thuật,

<i>Trường Đai học Công Nghệ TP. HCM đã đưa mơn học cơng nghệ chẩn đốn, sữachữa và kiểm định ơ tơ vào chương trình giảng dạy, tạo điều kiện thuận lợi cho chúng</i>

em học tập và hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Đặc biệt, chúng em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến thầy Trần Đình Việt đã dày cơng truyền đạt những vốn kiến thức quý báu và tận tình hướng dẫn chúng em trong suốt q trình hồn thành bài tiểu luận này, tạo cho chúng em những tiền đề, những kiến thức để tiếp cận, phân tích giải quyết vấn đề. Đây chắc chắn sẽ là những kiến thức quý giá, là những hành trang quan trọng để em có thể vững bước sau này.

<i>Bộ mơn “Cơng nghệ chẩn đốn, sữa chữa và kiểm định ô tô” là môn học thú vị,</i>

bổ ích và có tính thực tế cao. Đảm bảo cung cấp đầy đủ kiến thức, kỹ năng, giúp sinh viên có thể ứng dụng vào thực tế. Chúng em đã cố gắng vận dụng những kiến thức đã học được trong học kỳ qua cùng với sự nỗ lực không ngừng nghỉ để nghiên cứu đề

<i>tài “Kiểm tra và chẩn đốn hệ thơng cung cấp nhiên liệu xăng”. Chúng em cũng đã</i>

gặp khơng ít khó khăn, thử thách nhưng nhờ có sự giúp đỡ của Cơ chúng em đã có thể vượt qua. Tuy nhiên, do chưa có nhiều kinh nghiệm làm đề tài cũng như những hạn chế về kiến thức nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được sự nhận xét, ý kiến đóng góp, phê bình từ phía Cơ để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.

Cuối cùng, chúng em cũng xin cảm ơn bạn bè, anh chị và đặc biệt là thầy Trần Đình Việt đã tận tình chỉ bảo chúng em trong q trình hồn thành bài tiểu luận, tạo điều kiện cho chúng em hiểu thêm về những kiến thức thực tế , bổ ích thơng qua môn này.

Chúng em xin chân thành cảm ơn!

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ</b>

HỌC KÌ II (2023–2024) Nhóm 7 (Lớp 21DOTC3)

<b>ĐỀ TÀI: Kiểm tra và chuẩn đoán hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng</b>

 Trưởng nhóm: Trần Anh Quân

<b>NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC</b>

CHƯƠNG 1:

<b>KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỆ THỐNG CUNG CẤP NHIÊN LIỆU...2</b>

<b>1.1Khái niệm về cơng nghệ chẩn đốn và kiểm định...2</b>

<b>CHƯƠNG 2: NHIỆM VỤ , YÊU CẦU VÀ PHÂN LOẠI HỆ THỐNG CUNG CẤP NHIÊN LIỆU XĂNG2.1Thực trạng của áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật...10</b>

<b>2.1.1 Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn...10</b>

<b>2.1.2 Pháp luật còn nhiều vướng mắc...14</b>

<b>2.2Phân tích vụ việc tranh chấp đất đai...18</b>

<b>2.2.1 Khái niệm và đặc điểm của tranh chấp đất đai...18</b>

<b>2.2.2 Các dạng tranh chấp đất đai...18</b>

<b>2.2.3 Các hình thức giải quyết tranh chấp đất đai...20</b>

<b>2.2.4 Các nguyên tắc giải quyết đất đai...22</b>

<b>2.3Đề xuất giải pháp...23</b>

<b>2.3.1 Những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thừa kế theo pháp luật cóthể được sử dụng trong Tư pháp quốc tế Việt Nam...23</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỞ ĐẦU1. Lý do chọn đề tài.</b>

<b>Phổ biến và quan trọng: Hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng là một phần quan</b>

trọng của hệ thống động cơ của một xe ô tô. Khi hệ thống này gặp sự cố, có thể gây ra các vấn đề nghiêm trọng về hiệu suất và an toàn.

<b>Tiết kiệm thời gian và tiền bạc: Bằng cách phát hiện và chẩn đoán sớm các vấn</b>

đề trong hệ thống cung cấp nhiên liệu, người sử dụng có thể tránh được việc xe bị hỏng hoặc hỏng hóc trên đường. Điều này giúp tiết kiệm thời gian và chi phí sửa chữa đắt đỏ sau này.

<b>An tồn: Một hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng khơng hoạt động đúng cách có</b>

thể gây ra nguy hiểm, như nổ động cơ hoặc hỏa hoạn. Chẩn đoán và sửa chữa sớm sẽ giúp đảm bảo an toàn cho người lái và hành khách.

<b>Nâng cao hiểu biết kỹ thuật: Việc nghiên cứu và thực hành về hệ thống cung</b>

cấp nhiên liệu xăng cũng có thể giúp nâng cao hiểu biết của người tham gia về cơ cấu và hoạt động của xe ô tô.

<b>Cải thiện hiệu suất và tiêu thụ nhiên liệu: Một hệ thống cung cấp nhiên liệu</b>

xăng hoạt động tốt có thể giúp cải thiện hiệu suất của xe và tiết kiệm nhiên liệu.

Tóm lại, việc lựa chọn đề tài này không chỉ giúp cải thiện hiểu biết kỹ thuật mà còn giúp bảo dưỡng và bảo vệ xe ơ tơ một cách hiệu quả và an tồn.

<b>2. Mục đích nghiên cứu: cơng nghệ kiểm định và chẩn đoán </b>

<b>Tăng hiệu suất của hệ thống: Bằng cách hiểu rõ về cách hoạt động của hệ </b>

thống cung cấp nhiên liệu xăng và các thành phần của nó, nghiên cứu này có thể giúp tối ưu hóa hoạt động của hệ thống. Điều này có thể bao gồm cải thiện khả năng cung cấp nhiên liệu, tăng áp lực, và cải thiện phản hồi của động cơ.

<b>Phát hiện và sửa chữa sớm các sự cố: Bằng cách phân tích và chẩn đốn các </b>

vấn đề trong hệ thống cung cấp nhiên liệu, người nghiên cứu có thể phát hiện sớm các sự cố và hỏng hóc. Điều này giúp tránh được những sự cố lớn và giảm thiểu thời gian xe ô tô gặp sự cố khơng hoạt động.

<b>Tăng độ tin cậy và an tồn: Bằng cách chẩn đoán và sửa chữa các vấn đề liên </b>

quan đến hệ thống cung cấp nhiên liệu, nghiên cứu này có thể cải thiện độ tin cậy của hệ thống và đảm bảo an toàn cho người lái và hành khách.

<b>Nâng cao kiến thức kỹ thuật: Qua quá trình nghiên cứu và thực hành, người </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

sửa chữa hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng. Điều này có thể mang lại lợi ích cho cả người nghiên cứu và cộng đồng cơ động.

<b>Đóng góp vào việc phát triển cơng nghệ: Nghiên cứu này có thể đóng góp vào </b>

việc phát triển và cải tiến công nghệ trong lĩnh vực ô tô, bao gồm việc phát triển các công nghệ mới để cải thiện hiệu suất và an toàn của hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng.

<b>3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.</b>

Tìm hiểu, nghiên cứu các cơng nghệ kiểm định và chẩn đoán về hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng

<b>4. Phương pháp nghiên cứu.</b>

Kiểm tra thực tế và tiến hành thực hiện trong khu vực kiểm định về hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng

Phương pháp: Bao gồm kiểm tra các phần của hệ thống như ống dẫn nhiên liệu, bộ lọc, bơm nhiên liệu, van điều chỉnh, và các phần khác để xác định xem chúng có trong tình trạng hoạt động bình thường hay khơng.

<b>- Chẩn đốn (Diagnosis):</b>

Mục đích: Xác định nguyên nhân chính xác của sự cố hoặc vấn đề trong hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng.

Phương pháp: Sử dụng một loạt các phương pháp như kiểm tra cảm biến, kiểm tra áp suất và dịng nhiên liệu, phân tích dữ liệu điện tử, và các phương tiện khác để xác định vị trí và nguyên nhân của sự cố.

<b>- Cải thiện và sửa chữa (Improvement and Repair):</b>

Thực hiện các biện pháp sửa chữa và cải thiện hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng để khắc phục vấn đề.

Phương pháp: Dựa trên kết quả của q trình chẩn đốn, thực hiện các biện pháp sửa chữa cụ thể như thay thế bộ lọc, sửa chữa hoặc thay thế bơm nhiên liệu, và điều chỉnh các thành phần khác của hệ thống để đảm bảo hoạt động hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>- Kiểm tra sau khi sửa chữa (Post-Repair Testing):</b>

Đảm bảo rằng các biện pháp sửa chữa đã được thực hiện thành công và hệ thống cung cấp nhiên liệu xăng hoạt động đúng cách.

Phương pháp: Thực hiện kiểm tra và thử nghiệm hệ thống sau khi sửa chữa để đảm bảo rằng các vấn đề đã được giải quyết và hệ thống hoạt động như mong đợi.

<b>1.2 Điều kiện chia thừa kế theo pháp luật</b>

Thừa kế là một chế định được ghi nhận trong các Bộ luật Dân sự quy định về việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho người còn sống. Thừa kế có hai hình thức là thừa kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật. Người thừa kế nói chung phải đáp ứng các quy định sau:

- Là cá nhân còn sống tại thời điểm mở thừa kế (thời điểm mở thừa kế là thời điểm người để lại tài sản chết) hoặc sinh ra và vẫn còn sống đến sau thời điểm mở thừa kế nhưng thành thai trước khi người để lại di sản qua đời.

- Không thuộc đối tượng không được quyền hưởng di sản quy định tại khoản 1 Điều 621 Bộ luật Dân sự năm 2015. Những đối tượng đó là:

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

+ Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ ni dưỡng người để lại di sản;

+ Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

+ Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

<b>1.3 Hàng và diện thừa kế</b>

 Hàng thừa kế:

Để xác định được người thừa kế của người chết vào thời điểm người này chết, cần phải xác định được là người chết có để lại di chúc hay khơng. Nếu có di chúc thì

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

người thừa kế sẽ được xác định theo di chúc. Nếu khơng có di chúc hoặc di chúc khơng hợp pháp hoặc di chúc không phát sinh được hiệu lực pháp luật thì người thừa kế sẽ được xác định theo quy định của pháp luật. Theo đó người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:

- Hàng thừa kế thứ nhất gồm: Những người có chung huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng, quan hệ hôn nhân gần nhất gồm có vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Vì sao pháp luật lại cho những người này ở hàng thứ nhất, đơn giản vì nhà làm luật nghĩ rằng người chết có quyền và nghĩa vụ với những người này nhất, họ là những người thân ruột thịt nhất đối với người chết, nếu họ có thể để lại di chúc thì những người này phải được ưu tiên nhất.

- Hàng thừa kế thứ hai được hưởng thừa kế khi mà những người ở hàng thứ nhất thuộc các trường hợp quy định nêu trên thì hàng thứ hai này sẽ được hưởng di sản bao gồm: ông bà nội, ông bà ngoại, anh chị em ruột của người chết; cháu ruột của người để lại di sản mà người chết là ông bà nội hoặc ông bà ngoại. Về mối quan hệ huyết thống với người để lại di sản thì những người thừa kế ở hàng thứ hai này họ có mối quan hệ huyết thống xa hơn hàng thừa kế thứ nhất nhưng đồng thời cũng có mối quan hệ gần gũi nhất với hàng thứ nhất.

- Hàng thừa kế thứ ba: Khi hàng thừa kế thứ nhất, hàng thừa kế từ hai khơng có người thừa kế thì hàng thứ ba mới được quyền thừa kế bao gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ ruột, dì ruột, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột,; chắt ruột của người chết mà người để lại di sản là cụ nội, cụ ngoại. Hàng thừa kế này thì quan hệ huyết thống của người chết để lại cho người thừa kế xa hơn nhiều với hàng thừa kế thứ hai và thứ nhất. Hàng thừa kế này cũng bap gồm gần hết quan hệ huyết thống họ hàng của người chết.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở hàng thừa kế chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịn ai ở hàng thừa kế trước đó đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chồi nhận di sản ( Điều 679 ).

Tuy nhiên trong một số trường hợp kể cả thừa kế theo di chúc hay theo pháp luật, thì những người sau đây khơng có quyền được hưởng thừa kế:

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó.

- Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản.

- Bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền được hưởng.

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hoặc tòan bộ di sản trái với ý muốn của người để lại di sản.

Nhưng những người có hành vi này vẫn được hưởng di sản, nếu người để lại di sản đã biết hành vi của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản.

Như vậy, người thừa kế có thể là cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức. Trường hợp người thừa kế là cá nhân thì cá nhân đó phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì cơ quan , tổ chức phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế (Điều 638 Bộ Luật Dân Sự).

 Diện thừa kế:

- Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân: Điều 8 Luật Hôn nhân và Gia đình:

“Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hôn”. Như vậy, chỉ coi là quan hệ hôn nhân giữa một người nam và một người nữ khi họ kết hôn hợp pháp. Sau khi kết hơn, vợ và chồng có quyền và nghĩa vụ đối với nhau và một trong những quyền của vợ chồng được pháp luật thừa nhận là:

“Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của luật về thừa kế” (Khoản 1 Điều 31 Luật Hôn nhân và Gia đình).

Để có thể được pháp luật thừa nhận quan hệ hơn nhân hợp pháp thì việc kết hôn phải tuân thủ các điều kiện và thủ tục do pháp luật quy định (Điều 9_Điều kiện kết hôn và Điều 10_Những trường hợp cấm kết hôn Luật Hôn nhân và Gia đình).

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Quan hệ hơn nhân là cơ sở để xác định chủ thể trong các quan hệ sở hữu về tài sản, về nghĩa vụ,… một trong các quan hệ về tài sản là quyền thừa kế của nhau khi vợ hoặc chồng chết trước. quyền thừa kế của vợ chồng còn được bảo về bằng pháp luật, khi vợ hoặc chồng chết trước dù đã có di chúc là truất quyền thừa kế của vợ hoặc chồng còn sống.

- Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống:

Quan hệ huyết thống là quan hệ giữa những người có cùng dịng máu về trực hệ (Những người cùng dòng máu về trực hệ là cha, mẹ đối với con; ông bà đối với cháu nội và cháu ngoại; cụ đối với chắt nội và chắt ngoại) hoặc bàng hệ (không trực tiếp sinh ra nhau nhưng có cùng một nguồn gốc chung: ví dụ như quan hệ giữa anh chị em ruột và ngược lại).

Pháp luật về hôn nhân và gia đình bảo vệ lợi ích hợp pháp chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha mẹ và nghĩa vụ của người làm cha làm mẹ của con. Quyền thừa kế của con không phụ thuộc vào hình thức hơn nhân của cha đẻ, mẹ đẻ.

- Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ nuôi dưỡng:

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa những người nuôi dưỡng với người được nuôi dưỡng, là sự thể hiện nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng nhau giữa những người thân thuộc theo quy định của pháp luật.

Quan hệ nuôi dưỡng được thể hiện giữa anh chị em ruột đối với nhau trong hoàn cảnh mồ cơi cha mẹ hoặc cịn nhưng khơng có khả năng lao động, khơng có năng lực hành vi dân sự.

Quan hệ nuôi dưỡng giữa ông bà nội, ông bà ngoại với cháu, chắt nội, ngoại (Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình).

Quan hệ ni dưỡng giữa cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, của chồng. Cha dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng luật không quy định có nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc nhau, nhưng trong trực tế, cha dượng, mẹ kế với con riêng của của vợ, chồng đã thể hiện được nghĩa vụ ni dưỡng, chăm sóc nhau như cha mẹ con theo Điều 679 Bộ luật dân sự 2015, họ được hưởng thừa kế của nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và ngược lại. Việc xác định quan hệ nuôi dưỡng thông qua sự kiện nhận nuôi con nuôi theo quy định của pháp luật. Việc nhận nuôi con nuôi phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện do luật hơn nhân và gia đình quy định (Điều 68 và Điều 69).

 <b>Ý nghĩa:</b>

Xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật trước hết để xác định những người có quyển hưởng di sản. Sau nữa là loại trừ những trường hợp không thuộc diện thừa kế theo pháp luật hoặc thuộc nhưng khơng có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.

Phạm vi những người thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên 3 mối quan hệ như đã trình bày ở trên. Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng có tình độc lập tương đối, vì quan hệ này là tiền đề của quan hệ kia. Tuy nhiên, từng quan hệ được xác định theo quy định của pháp luật giữa người để lại di sản với người thừa kế. Chỉ có sự xác định diện những người thừa kế theo quy định pháp luật chuẩn xác mới ngăn chặn được sự mất đồn kết trong dịng tộc và có tác dụng giáo dục ý thức sống, ý thức pháp luật cho những người thuộc diện thừa kế.

<b>1.4</b>

<b>Thừa kế vị</b>

Theo Từ điển Hán - Việt thì “Thế vị” là sự thay thế vị trí, tức là những người thế vị nhau phải là người có mối quan hệ thừa kế thứ hai trong hàng thừa kế thứ nhất (quan hệ giữa cha, mẹ và con), trong đó người thế vị phải là người đời sau (con thế vị cha, mẹ nhưng cha, mẹ không được thế vị con). Việc thế vị là mối liên hệ hai bên, một bên gọi là người được thế vị, bên còn lại được gọi là người thế vị.

Theo Từ điển thuật ngữ Luật học - Trường Đại Học Luật Hà Nội thì “Thừa kế thế vị là thừa kế bằng việc thay vị trí để hưởng thừa kế". Theo cách hiểu trên thì thừa kế thế vị được hiểu là việc một người theo quy định pháp luật được thay thế vị trí của một người đã chết để hưởng di sản thừa kế của một người khác chết sau người đã chết đó.

Dưới góc độ là một quan hệ pháp luật thì người thừa kế phải cịn sống vào thời điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, thực tế có trường hợp người được thừa kế chết trước

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

hoặc chết cùng thời điểm với người để lại di sản. Pháp luật đã quy định việc dịch chuyển di sản thừa kế trong các trường hợp này gọi là thừa kế thế vị.

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, thừa kế thế vị được quy định tại Điều 652 BLDS 2015: "Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống". Theo quy định này, thừa kế thế vị thực chất là việc con thay thế vị trí của bố hoặc mẹ để nhận thừa kế di sản từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, hoặc cụ nội, cụ ngoại nếu bố hoặc mẹ chết trước hoặc chết cùng một thời điểm với những người nói trên. Quy định này mới chỉ liệt kê về các trường hợp thừa kế thế vị mà chưa định nghĩa thế nào là thừa kế thế vị.

Ngồi ra, BLDS 2015 cịn có quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi tại Điều 653 và quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế tại Điều 654. Cụ thể:

Điều 653 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con nuôi và cha nuôi, mẹ nuôi như sau: “Con nuôi và cha nuôi, mẹ ni được thừa kế di sản của nhau và cịn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 651 và Điều 652 của Bộ luật này”.

Điều 654 BLDS 2015 quy định về quan hệ thừa kế thế vị giữa con riêng và bố dượng, mẹ kế như sau: “Con riêng và bố dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kế di sản của nhau và còn được thừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653 của Bộ luật này”.

Do đó, có thể định nghĩa “Thừa kế thế vị là việc người ở hàng thừa kế sau (người thừa kế thế vị) thay thế vị trí của người ở hàng thừa kế trước (người được thế vị) hưởng phần di sản mà người được thế vị được hưởng trong khối di sản của người để lại thừa kế nếu người này còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”.

<b>CHƯƠNG 2: </b>

<b>THỰC TRẠNG ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b> THỪA KẾ THEO PHÁP LUẬT</b>

<b>2.1 Thực trạng của áp dụng quy định về thừa kế theo pháp luật2.1.1 Nhiều quy định của pháp luật còn mâu thuẫn</b>

Thừa kế là việc chuyển giao tài sản từ người đã chết sang những người còn sống. Trên nguyên tắc quyền tự định đoạt của người để lại di sản được tơn trọng. Do đó, chủ sở hữu có quyền lập di chúc đối với tài sản của mình. Ngồi ra, nếu tại thời điểm mở thừa kế khơng có di chúc hoặc có di chúc nhưng khơng thực hiện được việc phân chia di sản thừa kế vì những lý do nhất định thì tài sản của người thừa kế được chia cho người chết, ai. đang trong thời gian mở cửa di sản. hàng ngang của những người thừa kế, những người được pháp luật quy định trước.

Thứ hai, tơn trọng ý chí của những người trong quan hệ thừa kế theo pháp luật. Mục 2 và 3 Luật Dân sự (2015) đưa ra các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, trong đó mục 2 nêu: “Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tơn trọng"cá nhân có quyền lập di chúc với số lượng. tài sản của họ; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; được thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật ”(Mục 609 BLDS năm 2015). Như vậy, Điều 609 đồng thời ghi nhận quyền của cả người chuyển nhượng thừa kế và người nhận di sản thừa kế.

Pháp luật nước ta thể hiện sự tơn trọng ý chí của người nhận di sản bằng cách quy định quyền nhận hoặc từ chối di sản thừa kế cho những người có quyền hưởng di sản. Thái tử có quyền bày tỏ ý muốn của mình về việc nhận hay không thừa kế trước thời điểm phân chia tài sản thừa kế mà thái tử để lại.

Thứ ba, bảo đảm quyền thừa kế của bất kỳ người thừa kế nào theo pháp luật. Mặc dù pháp luật Việt Nam tôn trọng quyền để lại di sản thừa kế cho những người có tài sản cịn lại trước khi chết, nhưng họ cũng bảo vệ quyền lợi hợp pháp của một số người thừa kế. Vì vậy, trong một số trường hợp đặc biệt, pháp luật có quy định hạn chế quyền của người được hưởng di sản. Nếu vào thời điểm mở thừa kế, người để lại

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

di sản còn những người thân như cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng khơng cịn khả năng lao động nhưng người để lại di sản không cho hoặc cho họ hưởng di sản ít hơn 2/3 phần thừa kế theo luật thì pháp luật quy định bắt buộc người để lại di sản phải dành cho các người trên ít nhất 2/3 phần thừa kế theo pháp luật (Điều 6 BLDS năm 2015). Quyền của người để lại di sản sẽ khơng bị hạn chế khi họ khơng cịn người thân thiết rơi vào những trường hợp trên.

Từ thời điểm BLDS 2015 có hiệu lực (01/01/2017), các vụ tranh chấp về thừa kế có xu hướng tăng nhanh: năm 2017 số vụ án sơ thẩm được thụ lý tăng 26,7 % so với năm 2016, năm 2018 so với năm 2017 tăng với tỷ lệ tương đương, năm 2019 so với năm 2018 cũng tăng tới 27%. Tranh chấp thừa kế khá đa dạng, như: tranh chấp hiệu lực của di chúc tạo nên sự tranh chấp giữa những người thừa kế theo di chúc và những người thừa kế theo pháp luật, tranh chấp về nội dung di chúc, với các trường hợp di chúc có nội dung không phát sinh được hiệu lực pháp luật, dẫn đến vấn đề tranh chấp giữa những người được thừa kế, người thừa kế theo di chúc và theo pháp luật tranh chấp với nhau, tranh chấp về tư cách người thừa kế… Nguyên nhân dẫn các vụ tranh chấp tăng vọt từ khi BLDS 2015 có hiệu lực pháp luật một phần là do tính mở của BLDS năm 2015 về thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng đã khiến cho trước đây nhiều trường hợp các đương sự thấy e ngại thì nay đã tự tin hơn để đưa vụ việc ra tòa giải quyết trước pháp luật. Cùng việc BLDS 2015 quy định thời hiệu giải quyết các tranh chấp thừa kế nói chung và thừa kế theo pháp luật nói riêng là 30 năm với bất động sản (trong khi thời hiệu khởi kiện để chia di sản thừa kế theo BLDS 2005 là 10 năm) nên những vụ việc chia di sản thừa kế trước đây chưa được giải quyết do hết thời hiệu 10 năm thì nay lại được các đương sự đưa ra trước tòa để giải quyết khiến cho các tranh chấp tại tòa tăng vọt kể từ khi BLDS 2015 có hiệu lực. Trong thực tiễn thi hành các quy định của Luật Thừa kế dân sự năm 2015, vẫn còn một số điều luật chưa thực sự rõ ràng, phù hợp và cần được sửa đổi, bổ sung hoặc làm rõ bằng các văn bản mới. để đảm bảo áp dụng đúng luật, ví dụ:

- Thứ nhất, vấn đề về di chúc miệng (Điều 629, BLDS 2015). Theo quy định tại

<i>Mục 629 (1) Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Trường hợp tính mạng một ngườibị cái chết đe dọa và không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể lập di chúc</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<i>được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mìnhtrước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ýchí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thờihạn năm ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì dichúc phải được cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhậnchữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng". di chúc cuối cùng mà người làm chứng đã</i>

đăng ký, ký tên hoặc chứng minh. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày công bố bản di chúc cuối cùng của người lập di chúc miệng, bản di chúc phải được cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực chữ ký, điểm chỉ của người làm chứng. Theo quy định của pháp luật, trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày công bố bản di chúc cuối cùng của người lập di chúc miệng, bản di chúc phải có chứng thực của cơng chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền để kiểm tra chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc có mâu thuẫn với thực tế không. . Nếu người làm chứng đang trong tình trạng nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng hoặc bị thiên tai, tai nạn mà không đăng ký di chúc đúng thời gian quy định thì di chúc miệng này khơng có giá trị pháp lý.

- Thứ hai, xác định tình trạng thừa kế hợp pháp giữa con riêng với mẹ kế và mẹ

<i>kế. Theo quy định tại Mục 65, Bộ luật Dân sự năm 2015, "Con riêng và bố dượng, mẹkế nếu có quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì được thừa kếdi sản của nhau và còn đượcthừa kế di sản theo quy định tại Điều 652 và Điều 653của Bộ luật này’’. Do đó, luật đặt ra điều kiện để </i>con riêng, bố dượng, mẹ kế được

<i>quan hệ chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con</i>". Tuy nhiên, khi giải quyết các vụ án liên quan đến việc xác định mối quan hệ giữa cha dượng và cháu của vợ,

<i>cháu chồng và cháu của mẹ kế “chăm sóc, ni dưỡng nhau như cha con, mẹ con” thì</i>

mới xác định được người thừa kế là rất khó khăn.

- Thứ ba, theo quy định tại Mục 621 Bộ luật Dân sự năm 2015, khơng có quyền thừa kế: người bị kết án về tội cố ý gây thiệt hại cho tính mạng, sức khỏe hoặc nặng hơn là hành hung, cưỡng đoạt tài sản, nặng hơn là hành hung. đến danh dự và nhân phẩm của người đó; người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc người đã khuất; người đã bị kết án cố ý làm tổn hại đến tính mạng của người thừa kế khác nhằm mục

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

đích chiếm đoạt một phần hoặc tồn bộ tài sản mà người thừa kế nói trên có quyền; người lừa dối, ép buộc, ngăn cản người lập di chúc; giả mạo di chúc, thay đổi di chúc, hủy bỏ di chúc, che giấu di chúc trái ý muốn để lấy một phần hoặc toàn bộ di sản. Như vậy, trường hợp quy định tại Mục 612 (1) (a) và (c) BLDS 2015 là rất rõ ràng. Đối tượng cho thừa kế của người phạm tội do lỗi “cố ý” ... Nhưng các trường hợp được quy định tại điều 612 khoản 1 b, d. "người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ chăm sóc người lập di chúc" hoặc "người ... có hành vi cản trở người lập di chúc" là những quy định định tính dễ dẫn đến mâu thuẫn giữa các cơ quan pháp luật. Hiện tại khơng có hướng dẫn bằng văn bản nào về cách thức hướng dẫn nên được áp dụng liên quan đến "vi phạm nghiêm trọng" hoặc mức độ của hoạt động để "ngăn chặn" việc chờ đợi ai đó rời khỏi tài sản.

- Thứ tư, theo quy định tại Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015: "Người thừa kế phải là người còn sống tại thời điểm mở thừa kế hoặc người sinh ra và sống sau thời điểm mở thừa kế." sự thừa kế. sự thừa kế. sự mở ra của cơ nghiệp, nhưng đã có thai trước khi thái tử. thừa kế đã chết ". Tuy nhiên, trong thực tế ngày nay tình trạng vơ sinh, vơ sinh cịn nhiều, với sự phát triển của các phương pháp thụ tinh nhân tạo, hiện tượng một số trẻ sinh ra vẫn sống sau khi sinh ra, chết đi và cũng có thể mang thai. sau khi người để lại di sản chết Như vậy BLDS 2015 Theo quy định tại điều 613, cơ sở pháp lý người con được thụ thai sau khi người chết khơng có quyền hưởng di sản của chính cha đẻ. việc sinh ra những đứa trẻ này là phù hợp với nguyện vọng của người đã khuất, nguyện vọng của gia đình và khơng trái với thuần phong mỹ tục, đạo đức xã hội. Đây cũng là vướng mắc thực tế trong q trình áp dụng pháp luật. Ngồi ra, một người được sinh ra và "sống" được bao lâu thì có thể trở thành người thừa kế thì cho tới thời điểm hiện tại chưa có quy định pháp luật nào quy định cụ thể về vấn đề này. Điều 30 BLDS 2015 quy định “<i>Trẻ em sinh ra mà sống được từ hai mươi</i>

<i>thì phải được khaisinh và khai tử; nếu sinh ra mà sống dưới hai mươi bốn giờ thì khơng phải khai sinh và khai tử, trừ trường hợp cha đẻ, mẹ đẻ có yêu cầu</i>”. Quy định này cũng không đủ căn cứ để suy luận rằng đứa trẻ sinh ra được 24 giờ trở lên rồi sau đó mới chết, thì đứa trẻ đó vẫn được xác định là người thừa kế hay khx`ông, điều này vẫn cịn gây nhiều tranh cãi trong q trình áp dụng pháp luật.

</div>

×