Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tiểu luận nghệ thuật điêu khắc phật giáo trong văn hóa óc eo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.47 KB, 18 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐỒNG THÁP</b>

<b>NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁOTRONG VĂN HĨA ĨC EO</b>

<b>Ngành đào tạo: ...Trình độ đào tạo: ...</b>

<b>TIỂU LUẬN KẾT THÚC MÔN HỌC</b>

<b>Giảng viên hướng dẫn:...</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>1. Điều kiện tự nhiên vùng Giồng Cát duyên hải Tây Nam Bộ...4</b>

<b>2. Quá trình phát hiện và nghiên cứu loại hình di tích kiến trúc trên vùngGiồng Cát duyên hải Tây Nam Bộ...5</b>

<i>2.1. Thời kỳ trước năm 1975...5</i>

<i>2.2. Thời kỳ sau năm 1975...6</i>

<b>II. NGHỆ THUẬT... ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁO TRONG VĂNHÓA ÓC EO...6</b>

<b>1. Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo từ thế kỉ I đến thế kỉ VI ...6</b>

<i>1.1. Tượng đồng phong cách Gandhara...6</i>

<i><b>1.2. Tượng đồng phong cách Bắc Ngụy ...7</b></i>

<i>2.3. Nhóm tượng Phật ngồi bán kiết già...13</i>

<i>2.4. Tượng Phật ngồi thế đại sư...14</i>

<b>III. KẾT LUẬN...15</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...16</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Phật giáo khởi nguồn từ Ấn Độ vào thế kỷ thứ VI trước Công nguyên sau đó truyền đi khắp thế giới, phía bắc từ Trung Á qua vùng núi Hymalaya, đến Trung Hoa, phía nam qua Sri Lanka và Đơng Nam Á. Ngồi kinh điển, văn hóa Phật giáo cịn kèm theo một lượng lớn các tác phẩm nghệ thuật và kiến trúc. Sau cái chết của đại đế Alexander (356-323 TCN), khoảng trống quyền lực do đế chế Ba Tư tan rã để lại giúp vua Chandragupta (332-298 TCN) kiểm sốt tiểu lục địa phía bắc Ấn Độ. Khi vương quốc Maurya đạt đến đỉnh cao dưới thời vua Ashoka (272-232 TCN), dưới sự bảo trợ của nhà vua một phong cách nghệ thuật Phật giáo đã phát triển mang ảnh hưởng của nghệ thuật Hy - La cổ. Trong vài thế kỷ đầu tiên, nghệ thuật Phật giáo sơ kỳ chỉ mang tính tượng trưng (iconic), không miêu tả nhân dạng mà chủ yếu là các biểu tượng như sư tử, pháp luân, dấu chân, ngai vàng để trống, ngựa không người cỡi… Những nhân hình đầu tiên của đức Phật xuất hiện ở hai trung tâm Gandhara với những nét Châu Âu, tóc xoăn và có ria mép, và Mathura mang ảnh hưởng của Ấn Độ nhiều hơn trong trang phục và khuôn mặt trịn. Nghệ thuật Phật giáo đạt đến thời hồng kim dưới triều đại Gupta (thế kỷ IV-V), với khuôn mặt, chuyển động thân thể và trang phục được tạo tác một cách chân thật, duyên dáng. Phong cách Gupta nhanh chóng lan tỏa, được tiếp biến các văn hóa và thẩm mỹ bản địa, để tạo nên nhiều trung tâm nghệ thuật khắp Châu Á.

Thông qua mạng lưới thương mại, các ý tưởng văn hóa thượng tầng của Ấn Độ đã đến Đơng Nam Á, tạo nên q trình “Ấn Độ hóa” trong những thế kỷ đầu Cơng ngun, với sự du nhập nhiều khía cạnh như ngơn ngữ, nghệ thuật, cũng như tư tưởng, mơ hình nhà nước, chính trị và tơn giáo, bao gồm cả Phật giáo. Các trường phái Phật giáo khác nhau, cả Đại thừa, Nguyên thủy, Kim Cương thừa… đã cùng tồn tại với đạo Bà La Mơn và tín ngưỡng vật linh bản địa trong nhiều thế kỷ.

Bằng chứng khảo cổ học cho thấy Phật giáo có mặt ở Đơng Nam Á và Đồng bằng sơng Cửu Long ít nhất là vào thế kỷ thứ III và bắt đầu có ảnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

hưởng mạnh vào thế kỷ thứ V, và sau đó vào các thế kỷ VII-IX. Các tác phẩm nghệ thuật Phật giáo từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI ở Đồng bằng sông Cửu Long tiêu biểu có nhóm tượng Phật bằng gỗ, các bức tượng đồng mang phong cách Bắc Ngụy và các tượng đá mang ảnh hưởng trực tiếp của các phong cách Ấn Độ và Trung Hoa. Phần lớn di vật này phân bố ở các di tích quan trọng của văn hóa Ĩc Eo, thuộc các vùng đất thấp như Ĩc Eo, Nền Chùa, Cạnh Đền, Gị Tháp.

Vấn đề đang được quan tâm nhất là việc xác định tính chất, vai trị, chức năng của các di tích kiến trúc; chủ nhân và đời sống vật chất, đời sống tinh thần của họ; hình thức cư trú, sản xuất và các hoạt động tơn giáo tín ngưỡng cũng như mối liên hệ giữa các di tích ở Gị Tháp và các loại hình di tích trong tồn khu vực,… Nhằm góp phần tìm hiểu bức tranh tồn cảnh về quá xứ xa xưa thông qua các tác phẩm nghệ thuật điêu khắc, tôi chọn đề tài

<i><b>“Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo trong văn hóa Ĩc Eo” làm đề tài nghiên</b></i>

cứu kết thúc học phần.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>NỘI DUNG</b>

<b>I. KHÁI QUÁT VỀ DI TÍCH KIẾN TRÚC VĂN HĨA ĨC EO ỞTÂY NAM BỘ</b>

Văn hóa Ĩc Eo hình thành và phát triển trong khoảng thiên niên kỷ I Cơng ngun và được xem là nền tảng văn hóa vật chất của quốc gia cổ đại đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á - vương quốc Phù Nam. Trên không gian rộng lớn với nhiều phân vùng địa lý - môi trường khác nhau của đồng bằng châu thổ sông Cửu Long, mỗi giai đoạn tồn tại và phát triển của nền văn hóa này lại có những thay đổi về mặt không gian phân bố, cấu trúc kinh tế - văn hóa dân cư. Mỗi phân vùng địa lý với đặc trưng riêng biệt cũng thể hiện vai trò cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển tương ứng.

Trong nền cảnh văn hóa - mơi trường chung Đồng bằng sông Cửu Long, vùng giồng cát duyên hải Tây Nam Bộ là một bộ phận cấu thành quan trọng của văn hóa Ĩc Eo. Nó phản ánh diện mạo của nền văn hóa này trong một giai đoạn phát triển cụ thể thơng qua hàng loạt di tích vật chất được phát hiện và khai quật, đặc biệt là các di tích - di vật liên quan đến loại hình di tích kiến trúc tơn giáo.

Nghiên cứu này tổng hợp các phát hiện trên vùng giồng cát duyên hải miền Tây Nam Bộ, đồng thời làm rõ đặc trưng của các di tích kiến trúc tiêu biểu đã được thẩm tra, khai quật hoặc đào thám sát từ thập niên 1980 đến năm 2014, gồm: Gò Thành, Gò Huyện Ủy, Chùa Bà Kết, Trường Sơn A (Tiền Giang), An Phong (Bến Tre), Lưu Cừ II, Chùa Lò Gạch (Trà Vinh) và một số hiện vật tiêu biểu phát hiện trên phân vùng địa lý này.

<b>1. Điều kiện tự nhiên vùng Giồng Cát duyên hải Tây Nam Bộ</b>

Vùng giồng cát Tây Nam Bộ nằm trên địa bàn các tỉnh duyên hải gồm Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và một phần tỉnh Sóc Trăng. Các giồng cát hình cánh cung, phân bố liên tục ven biển theo hướng đông bắc- tây nam tạo thành hệ thống đê tự nhiên với nhiều lớp. Chúng che chắn cho vùng đồng bằng châu thổ

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

bên trong khỏi tác động của sự xâm nhập mặn và bị biến đổi bởi thủy triều. Những giồng cát này là một dạng địa hình đặc biệt của vùng hạ lưu châu thổ sơng Cửu Long, được hình thành từ quá trình tác động bởi các dịng chảy của sơng, thủy triều, sóng biển trên cơ sở sự bồi tụ của phù sa.

Chúng là dấu tích của các đường bờ biển cổ hình thành do sự dao động của mực nước biển theo xu hướng hạ thấp dần trong thời kỳ Holocene cách nay khoảng 4.000 năm. Theo đó, các giồng trẻ hơn ở bên ngồi có cao độ lớn hơn các giồng hình thành trước ở sâu trong nội địa, tiêu biểu có giồng Cai Lậy (4.000 năm), giồng Tiền Giang (3.000 năm), giồng Trà Vinh (3.000 năm), giồng Bến Tre (khoảng 2.000 năm)… Xen giữa những giồng cát là vùng đất trũng thấp với hệ thống kênh rạch phát triển mạnh có hệ thực vật đặc trưng của vùng đất ngập nước như dừa nước, ô rô, bần, đước…

Trên phân vùng địa lý này, từ thập niên 1980 đến nay, các nhà khảo cổ học đã phát hiện và khai quật hàng loạt di tích kiến trúc cổ trên địa bàn các tỉnh Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh gồm nhiều loại hình di tích kiến trúc, kiến trúc -mộ táng, di chỉ cư trú cùng với các loại hình hiện vật tương ứng mang đặc trưng của văn hóa Ĩc Eo. Các thành tựu nghiên cứu này đã góp phần quan trọng cho nhận thức đối với giai đoạn muộn của nền văn hóa này.

<b>2. Q trình phát hiện và nghiên cứu loại hình di tích kiến trúc trênvùng Giồng Cát duyên hải Tây Nam Bộ</b>

Hoạt động nghiên cứu khảo cổ học trên vùng giồng cát duyên hải miền Tây Nam Bộ đã trải qua hai thời kỳ nghiên cứu cơ bản sau:

<i><b>2.1. Thời kỳ trước năm 1975</b></i>

Vào nửa đầu thế kỷ XX, các học giả người Pháp đã ghi nhận và phát hiện hàng loạt các vết tích vật chất thuộc thời kỳ văn hóa Ĩc Eo trên vùng giồng cát, gồm các giồng Phủ Nơ, Sóc Trăng, Mahã Dab, Cơn Pị (Sóc Trăng) (L. Malleret 1969: 210-231), các giồng Tiểu Cần, Hiếu Tử, Bắc Trang, Hội Long Kim Hòa, Lưu Nghiệp Anh, Câu Ngạn, Ba Tục, Basei (hay Ba si), Càng Long, Cầu Kè… (tỉnh Trà Vinh) (L. Malleret 1963: 9-43). Những phát hiện đáng chú ý trong thời kỳ này gồm các điêu khắc tôn giáo (tượng thờ, mảnh tượng thờ hay vật liệu

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

trang trí kiến trúc, trong đó có những dấu tích được xem là hải cảng cổ, hồ nước cổ…). Tuy nhiên, trong giai đoạn này công tác nghiên cứu thực địa trên vùng giồng cát chưa được quan tâm nhiều so với vùng miền tây sông Hậu.

<i><b>2.2. Thời kỳ sau năm 1975</b></i>

Sau năm 1975, khảo cổ học tiếp tục có những phát hiện quan trọng về thời kỳ văn hóa Óc Eo trên vùng giồng cát thuộc địa bàn hai tỉnh Tiền Giang và Trà Vinh.

Tại Tiền Giang, di tích Gò Thành (huyện Chợ Gạo) đã được phát hiện năm 1979, khảo sát năm 1987 và khai quật với quy mô lớn liên tục vào các năm 1988, 1989, với hàng loạt vết tích kiến trúc và di vật tượng thờ. Bên cạnh đó, các cuộc điều tra trên địa bàn các giồng cát của tỉnh đã phát hiện nhiều di tích kiến trúc như Giồng Bà Phúc, Chùa Bà Kết, Gò Chùa Bửu Tháp, Gò Huyện Ủy, Trường Sơn A… Còn tại Trà Vinh hai cuộc khai quật quy mơ lớn đã được tiến hành ở các di tích Lưu Cừ II (huyện Trà Cú, 1986) và Chùa Lò Gạch (huyện Châu Thành, 2014). Ngoài ra, nhiều đợt điều tra khảo cổ học đã được triển khai ở các di tích Gị Lâm Vồ, Chong Bát, Gị Ơng Tà, Chùa Cây Hẹ, Chùa Tháp, Chùa Trà Kháo,…

Ở Bến Tre cũng đã ghi nhận các vết tích kiến trúc thời kỳ văn hóa Ĩc Eo, tiêu biểu là phát hiện di tích kiến trúc An Phong.

<b>II. NGHỆ THUẬT ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓAÓC EO</b>

<b>1. Nghệ thuật điêu khắc Phật giáo từ thế kỉ I đến thế kỉ VI</b>

Các tác phẩm nghệ thuật Phật giáo từ thế kỷ thứ I đến thế kỷ thứ VI ở Đồng bằng sông Cửu Long tiêu biểu có nhóm tượng Phật bằng gỗ, các bức tượng đồng mang phong cách Bắc Ngụy và các tượng đá mang ảnh hưởng trực tiếp của các phong cách Ấn Độ và Trung Hoa. Phần lớn di vật này phân bố ở các di tích quan trọng của văn hóa Ĩc Eo, thuộc các vùng đất thấp như Ĩc Eo, Nền Chùa, Cạnh Đền, Gị Tháp.

<i><b>1.1. Tượng đồng phong cách Gandhara Một mảnh đầu tượng đức Phật</b></i>

ký hiệu BTLS.1587 mang đậm dấu ấn nghệ thuật Gandhara với nhiều nét ảnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hưởng từ nghệ thuật tạo hình cổ Hy Lạp. Tượng có khn mặt trịn, đơi mắt hình hạnh nhân rõ mí, mũi cao, miệng rộng, tai lớn và dài. Đầu tóc búi cao tạo thành nhục kế (ushnisha) với những nếp tóc xoăn mềm (Malleret, 1960: 201-202; Lê Thị Liên, 2006: 54; Bùi Chí Hồng và nnk., 2018: 265).

<i><b>1.2. Tượng đồng phong cách Bắc Ngụy</b></i>

Hai pho tượng Phật bằng đồng nguyên vẹn có kích thước khá nhỏ, được tìm thấy tại khu vực Óc Eo-Ba Thê (An Giang), cả hai đều mang đặc điểm của tượng Phật triều đại Bắc Ngụy (386-534), với thế đứng thẳng, trang trọng và hơi cứng, thân phẳng, y khá nặng nề, không lộ thân thể và tạo nên nhiều nếp gấp ngang thân như những gợn sóng, nét mặt tượng thanh tú, mắt, mũi, miệng, lơng mày đều mảnh, nhục kế khá nhỏ và phẳng. Cả hai bức tượng đều có cánh tay đưa lên phía trước, lòng bàn tay trái ngửa, hơi khum nhẹ và hướng xuống dưới,

<i>kết ấn ban ân (varada mudra), tay phải giơ cao ngang vai, cánh tay uốn cong và</i>

lòng bàn tay hướng ra ngồi với các ngón tay thẳng đứng kết ấn vô úy (abhaya mudra) (Lê Thị Liên, 2006: 54-55; Bùi Chí Hồng và nnk., 2018: 264). Ngồi ra, sưu tập tượng phong cách Bắc Ngụy ở khu vực này cịn có một bức Qn Âm bằng đồng nhỏ, tìm thấy ở Ĩc Eo. Tượng bán trịn, phần lưng dẹt gần như một phù điêu, trong tư thế đứng trên bệ. Gương mặt trịn nhỏ, tạo hình phi giới tính với trang phục xếp tầng ơm sát cơ thể (Malleret, 1960: 208; Lê Thị Liên, 2006: 56).

Cả 3 tượng đều mang rõ phong cách Á Đông, triều Bắc Ngụy và Bắc Tề, các ngón tay tượng thường rất cứng, và sau đó dần dần mới bắt đầu thả lỏng, đến thời nhà Đường thì các đường nét ngón tay mới cong tự nhiên. Dưới triều Bắc Ngụy, nghệ thuật Phật giáo rất phát triển, phong cách tượng vừa phản ánh những ảnh hưởng từ phong cách nghệ thuật Gupta và Mathura, trung tâm Bắc Ấn, vừa chịu ảnh hưởng bởi các đặc điểm của văn hóa Trung Hoa. Bằng chứng rõ ràng nhất là những đường nét thanh tú trên khuôn mặt và y phục. Y phục tượng vào cuối thời Bắc Ngụy thường rất nặng nề, che kín thân thể, nhưng đến thời Bắc Tề, kiểu dáng trang phục trở nên tự nhiên hơn nhiều, có thể thấy đường nét của thân thể sau làn y mỏng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i><b>1.3. Các tượng đá</b></i>

Các bức tượng nhỏ trong tư thế kiết già hoặc bán kiết già, nhưng tạo hình và phong cách hồn tồn khác biệt, khó có thể xếp thành một nhóm.

Tượng ở Mỹ Thạnh Đông (Long An) trong tư thế ngồi kiết già (padmasana) lộ rõ hai bàn chân bắt chéo, hai tay ôm trước bụng bắt ấn thiền định (dhyana-mudra). Khuôn mặt bầu, mơi dày, mũi to, đầu trịn, nhục kế nổi cao nhưng khơng có búi tóc mà giống như một cái mũ ni (karpadin). Trang phục chỉ có thể nhận ra ở một viền tròn quanh cổ. Tượng tạo hình mập khỏe ở thế chính diện nhưng lại dẹp nếu nhìn nghiêng phần lưng phẳng và để nguyên mặt đá tự nhiên. Tượng cho thấy nhiều đặc điểm của nghệ thuật Mathura giai đoạn Kushana-Gupta (thế kỷ II-IV), tính phù điêu cịn đậm nét, trang phục và các chi tiết được đơn giản hóa. Đặc biệt là chất liệu đá xanh đen, hạt mịn, ít gặp trong khu vực khiến người ta ngờ rằng tượng có thể được du nhập từ bên ngồi (Lê Thị Liên, 2006: 51).

Tượng ở Tân Mỹ (Long An) cũng thể hiện Phật trong tư thế ngồi kiết già và thiền định, tuy nhiên có lối xếp chân hơi khác lạ, hai chân chúc xuôi chữ V. Trang phục trơn, gần như không được thể hiện, khuôn mặt dài, nét mặt mờ nhạt, mũi, miệng, cằm đều nhỏ thanh. Lối xếp chân và chi tiết nhân dạng gần gũi với các điêu khắc hang động thời Nam - Bắc Triều (Trung Hoa), niên đại có thể khoảng thế kỷ thứ IV-V (Lê Thị Liên, 2006: 51).

Một nhóm khoảng 3 tiêu bản tượng phát hiện ở Óc Eo-Ba Thê (An Giang) và Bàu Cơng (Long An), kích thước rất nhỏ; tạo hình Phật ngồi trong tư thế bán kiết già (paryankasana) trên một bệ cao, hai tay để phía trước bụng trong cử chỉ thiền định. Các chi tiết nhân dạng và trang phục gần như khơng nhận ra, kích thước nhỏ, tạo hình đơn giản hình thức nặng về tính phù điêu cộng với trang phục trơn thường thấy trong nghệ thuật Gupta, cho thấy những nét gần gũi với tượng trong các ô khám thờ nhỏ ở các hang động vùng Tây Ấn (Bùi Chí Hồng và nnk., 2018; Lê Thị Liên, 2006).

<i><b>1.4. Các bức tượng Phật bằng gỗ Những bức tượng Phật bằng gỗ được</b></i>

tìm thấy tại các vùng Đồng Tháp Mười, Bình Hịa, Phong Mỹ, Giồng Xồi… là

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

những ví dụ điển hình cho những tác phẩm đầu tiên về nghệ thuật Phật giáo ở Đơng Nam Á. Đặc biệt khu di tích Gị Tháp, nơi tìm thấy một số lớn hiện vật, với nhiều bức phác vật dang dở, là bằng chứng tồn tại một xưởng chế tác bản địa. Ở đây, các tác phẩm điêu khắc bằng gỗ đặc biệt hiếm, chỉ còn khoảng hơn 30 bức được tìm thấy trong vùng đất yếm khí của Đồng bằng sơng Cửu Long, một số bị hư hại, một số may mắn vẫn còn những đường nét cơ bản. Bề mặt các tượng bị nứt và cong vênh nên khó xác định phong cách, tuy nhiên có thể nhận thấy chúng mang ảnh hưởng của phong cách Amaravati và Dvaravati, đặc trưng bởi một vai phải trần và một y xếp ly hẹp với viền rơi trên mắt cá chân, tỷ lệ cơ thể cân đối khơng có chi tiết cách điệu.

Các tượng bằng gỗ có kích thước bằng một người thật của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được tạo hình mảnh khảnh, cơ thể được che bởi một thượng y (uttaraanga) chéo qua vai phải, phủ đến mắt cá chân. Thân dưới đắp hạ y (antarvasa), có thể nhận thấy qua một vệt cong ngang eo. Nhục kế nổi cao, với những lọn tóc rõ rệt, mặt mỉm cười bình thản. Bàn tay phải đưa lên trong cử chỉ trấn an (abhayamudra), tay trái nắm chéo y, cả hai mắt cá chân có thể nhìn thấy bên dưới lớp y. Phần lớn các bức tượng Phật được tạo tác trong tư thế đứng (sthanaka) trên bệ hoa sen (padma-pita), với 3 thế: đứng thẳng (samabhanga) đầu, cổ và rốn trên một đường thẳng, tạo hình được sắp xếp đối xứng với đường thẳng đi từ đỉnh đầu, qua rốn đến giữa gót chân. Đứng lệch (abhanga) thân uốn cong nhẹ ở thắt lưng, đường thẳng trung tâm từ đỉnh đầu đến điểm giữa gót chân, hơi đi qua bên phải của rốn. Trong đó chia thành hai tư thế phụ là lệch nhẹ (dvibhanga), tư thế chỉ uốn cong ở thắt lưng, trong khi các bộ phận từ thắt lưng đến đầu và từ eo đến chân gần như thẳng và lệch mạnh (tribhanga), cơ thể ở ba khúc cua thanh nhã và duyên dáng riêng biệt - ở cổ, vai và thắt lưng, một tư thế múa cổ điển, thường sử dụng cho tượng nữ thần như Krishna và Ganapathi, hiếm khi thấy ở một điêu khắc Phật giáo. Ngồi ra cịn có một bức phác vật ở thế ngồi đại sư (bhadrasana) được thấy trong một ngôi chùa ở Đồng Tháp (Lê Thị Liên, 2006: 42-48; Bùi Chí Hồng và nnk., 2018: 266273). Về niên đại, các tượng tư thế lệch hông mạnh chịu ảnh hưởng nhiều của phong cách Amaravati,

</div>

×