Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (48.52 MB, 288 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
tội phạm, kiến nghị khởi tố, người làm chứng, người bị hại dé thu thập thông tin. Cơ quan có tham quyền cũng có thé áp dụng biện pháp dẫn giải trong những trường hợp sau: người làm chứng khơng có mặt theo giấy triệu tập mà khơng vì lí do bất khả kháng hoặc khơng do trở ngại khách quan; người bi hai từ chối việc giám định theo quyết định trưng cầu của cơ quan có thâm qun tiến hành tố tụng mà khơng vì lí do bất khả kháng hoặc khơng do trở ngại khách quan; người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố mà qua kiểm tra,
xác minh có đủ căn cứ xác định người đó liên quan đến hành vi phạm tội được khởi tố vụ án, đã được triệu tập mà vẫn vắng mặt
khơng vi lí do bất khả kháng hoặc không do trở ngại khách quan.
Nếu giữ người trong trường hợp khân cấp, nhận người bị bắt
phạm tội quả tang, người đang bị truy nã thì lấy lời khai ngay. Yêu cầu cơ quan nhà nước, tô chức xã hội hoặc cá nhân có liên quan đến sự việc cung cấp những tài liệu cần thiết. Những tài liệu này có thể là những hiện vật có giá trị chứng minh sự việc phạm tội hay các văn bản, giấy tờ, tài liệu hoặc các biên bản kiểm tra nội bộ cơ quan... Cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và cá nhân có liên quan có nghĩa vụ phải chấp hành các yêu cầu của cơ quan khởi tố.
Khi cần thiết phải kiểm tra nội bộ cơ quan nhà nước, tơ chức xã hội thì phải yêu cầu cơ quan, t6 chức hữu quan tự kiểm tra hoặc yêu cầu cơ quan thanh tra cùng cấp tiễn hành thanh tra để
<small>làm rõ sự việc.</small>
<small>- Khám nghiệm hiện trường.</small>
Việc tiến hành hoạt động khám nghiệm hiện trường nơi xảy ra, nơi phát hiện tội phạm để phát hiện dấu vết của tội phạm, thu giữ vật chứng, tải liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử khác liên quan va làm sáng tỏ những tình tiết có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án phải do người có thâm quyền tiến hành và phải theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 201 BLTTHS năm 2015.
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>- Khám nghiệm tử thi.</small>
Đây là hoạt động điều tra cũng được tiến hành trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, do người có thâm quyền tiến hành và phải theo đúng trình tự, thủ tục quy định tại Điều 202 BLTTHS
<small>năm 2015.</small>
- Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản.
Trong các trường hợp quy định tại Điều 206 BLTTHS năm 2015 hoặc trong các trường hợp cần thiết khác, để xác định có hay
khơng có dấu hiệu tội phạm, co quan có thâm quyền khởi tố ra
quyết định trưng cầu giám định. Khi cần định giá của tài sản để xác định dấu hiệu tội phạm, cơ quan có thầm quyền khởi tố ra văn
bản yêu cầu định giá tài sản.
Tất cả các tin tức về tội phạm đều phải được kiểm tra kĩ để
xác định căn cứ khởi tố và tuỳ từng sự việc mà dé ra biện pháp
kiểm tra cho thích hợp. Khi kiểm tra phải triệt để chấp hành những quy định của BLTTHS. Sau khi kiểm tra, xác minh thì kết quả giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tổ của cơ quan nhà nước phải được cơ quan điều tra gửi cho viện kiểm sát cùng cấp và thông báo cho cơ quan, tổ chức đã báo tin hoặc người đã tố giác biết.
Trong trường hợp viện kiểm sát giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố thì thời hạn, trình tự, thủ tục cũng
<small>được thực hiện như trên.</small>
3. Quyết định khởi tố, khơng khởi tố vụ án hình sự, tạm
đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tổ
3.1. Quyết định khởi tơ vụ án hình sự (Điều 154 BLTTHS <small>năm 2015)</small>
Quyết định khởi tố vụ án hình sự là văn bản pháp lí xác định có sự việc phạm tội làm cơ sở dé tiễn hành các hoạt động điều tra.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Tất cả các hoạt động điều tra chỉ được coi là hợp pháp khi đã có quyết định khởi tố vụ án (trừ các hoạt động được tiến hành trước khi khởi t6 vụ án hình sự theo quy định của pháp luật). Vì vậy, sau khi tiến hành kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố có dấu hiệu của tội phạm, các cơ quan có thẩm quyền khởi tố trong phạm vi trách nhiệm của mình ra quyết định khởi tố vụ án hình sự. Vì ngày khởi tổ vụ án hình sự là thời điểm bắt đầu dé tính thời hạn điều tra vụ án nên trong quyết định phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định. Sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, hàng loạt các biện pháp tố tụng trong đó có cả những biện pháp cưỡng chế đối với người thực hiện tội phạm sẽ được áp dụng nên quyết định khởi tố phải ghi rõ các căn cứ pháp lí dé quyết định khởi tố vụ án, viện dẫn các văn bản, tài liệu cho căn cứ này và ghi rõ tội danh, điều khoản BLHS được áp dụng làm cơ sở cho các hoạt động tô tụng tiếp theo. Việc ghi rõ căn cứ khởi tố trong quyết định giúp cho người có thâm quyền khởi tổ phải cân nhắc kĩ, tránh sự hời hợt, đại khái và chỉ kí quyết định khi có căn cứ theo luật định. Trong quyết định khởi tố cũng ghi rõ họ tên, chức vụ của người ra quyết định, chữ kí của người ra quyết định và đóng dấu dé nâng cao trách nhiệm của người này khi ra quyết định khởi tố vụ án.
Dé việc tiến hành điều tra vụ án được kịp thời, nhanh chóng làm rõ tội phạm, BLTTHS quy định, trong thời hạn 24 giờ kê từ khi ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát đã khởi tố vụ án phải gửi quyết định khởi tố đến cơ quan điều tra để tiến hành điều tra. Dựa vào các tài liệu cũng như căn cứ khởi tố vụ án,
cơ quan điều tra có định hướng tiến hành điều tra để làm rõ hành
vi được ghi trong quyết định khởi tố. Trong trường hợp các cơ quan khác khởi tố vụ án thì viện kiểm sát có trách nhiệm kiểm sát dé bao đảm việc khởi tố đúng pháp luật. Vì thế, khi cơ quan điều tra, cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra ra
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">quyết định khởi tố vụ án hình sự thì quyết định khởi tố cùng các tài liệu liên quan đến việc khởi tố phải được gửi tới viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ ké từ khi ra quyết định khởi tố để kiểm sát việc khởi tố. Trong trường hợp hội đồng xét xử khởi tố vụ án thì quyết định khởi tố được gửi tới viện kiểm sát cùng cấp để xem xét, quyết định việc điều tra; yêu cầu khởi tố của hội đồng xét xử được gửi cho viện kiểm sát dé xem xét, quyết định việc khởi tố.
Vi việc ra quyét định khởi tố được thực hiện ở giai đoạn đầu của tố tụng hình sự khi cơ quan có thâm quyền khởi tố mới có một số thơng tin về tội phạm, lại tiến hành kiểm tra, xác minh trong một thời gian ngắn nên có thé bỏ sót hành vi phạm tội hoặc xác định khơng đúng tội danh, điều khoản của BLHS cần áp dụng. Việc xác định tội danh, hành vi phạm tội, điều khoản của BLHS
được áp dụng trong quyết định khởi tố vụ án sẽ quyết định rất
nhiều vẫn đề của quá trình tổ tụng tiếp theo cả về trình tự, thủ tục, thâm quyền điều tra, truy tố, xét xử cũng như việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với bị can, bị cáo.
Sau khi khởi tố vụ án, với việc tiến hành các hoạt động điều tra, cơ quan điều tra có điều kiện thu thập nhiều tài liệu, chứng cứ. <small>Các tài liệu, chứng cứ mới được thu thập giúp cho nhận thức,</small> đánh giá về hành vi phạm tội được day đủ, chính xác hơn. Vì vậy, những nhận thức ban đầu về tội phạm khi khởi tố vụ án đã không
<small>đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc mới phát hiện thêm tội</small>
phạm khác chưa bị khởi tố thì quyết định khởi tố cần phải được thay đổi hoặc bổ sung cho phù hợp. Trên tinh thần này, Điều 156
<small>BLTTHS năm 2015 quy định, khi có căn cứ xác định tội phạm đã</small>
khởi tố khơng đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có tội phạm khác chưa bị khởi tố thì cơ quan điều tra, cơ quan được giao
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đổi hoặc bổ
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định kèm theo các tài liệu liên quan đến việc thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự cho viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát có thâm quyền dé kiểm sát việc khởi tố.
Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định thay đôi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát phải gửi cho cơ quan điều tra để tiễn hành điều tra.
3.2. Quyết định khơng khởi tơ vụ án hình sự
Quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự được ban hành khi có một trong những căn cứ khơng được khởi tố vụ án hình sự quy định tại Điều 157 BLTTHS năm 2015. Những căn cứ không được
<small>- Khơng có sự việc phạm tội</small>
Sự việc phạm tội là sự việc do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra. Khi có sự việc phạm tội, cơ quan có thâm quyên phải khởi tố vụ án hình sự dé tiễn hành điều tra làm rõ tội phạm và người phạm tội. Trường hợp khơng có sự việc phạm tội, việc khởi tố vụ <small>án hình sự khơng mang lại ý nghĩa nào. Do đó, khi xác định</small> khơng có sự việc phạm tội thì khơng được khởi tố vụ án hình sự. <small>Thơng thường, có hai trường hợp xác định khơng có sự việc phạm</small> tội: thir nhất, có sự việc xảy ra trong thực tế nhưng không phải do hành vi nguy hiểm cho xã hội gây ra thì khơng phải là sự việc phạm tội; thir hai, khơng có sự việc nào xảy ra mà nguồn tin chỉ là
- Hành vi khơng cấu thành tội phạm
Cấu thành tội phạm cụ thê là tổng hợp những dấu hiệu cơ bản, điển hình nhất được quy định trong BLHS đặc trưng cho một tội phạm nhất định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Một hành vi chỉ bi coi là tội phạm khi hành vi đó có đầy đủ yếu tố cầu thành tội phạm cụ thé được quy định trong BLHS. Nếu hành vi khơng có hoặc có nhưng khơng day đủ yếu tổ cau thành tội phạm nào thì hành vi ấy không phải là tội phạm và người đã
<small>thực hiện hành vi đó khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Theo</small>
quy định của BLHS năm 2015 thì một hành vi về hình thức tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng ké thi không phải là tội phạm và được xử lí bang các biện pháp khác; một hành vi đã có những tình tiết loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội như sự kiện bất ngờ, phịng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm tội, rủi ro trong khi nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa <small>học, kĩ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy</small> hoặc của cấp trên... thì khơng bị khởi tố về hình sự.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội chưa đến tudi <small>chịu trách nhiệm hình sự</small>
Đến độ tuổi nhất định thì con người mới có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi và mới điều khiển được hành vi của mình. Vì thế, chỉ đến độ tuổi đó con người mới phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi nguy hiểm cho xã hội do mình gây ra. Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015: Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà BLHS có quy định khác.
Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng quy định tại một trong các điều 123, 134, 141, 142, 143, 144, 150, 151,
<small>168, 169, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250,251, 252, 265, 266,286, 287, 289, 290, 299, 303 và 304 của BLHS năm 2015.</small>
<small>định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>Tồ án là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa</small> Việt Nam. Toà án ra bản án nhân danh Nhà nước để quyết định <small>việc bị cáo phạm tội hay khơng phạm tội, hình phạt và các biện</small> pháp tư pháp khác. Nếu có căn cứ dé đình chỉ vụ án, tồ án ra quyết định đình chỉ vụ án. Khi toà án đã ra bản án hoặc ra quyết định đình chỉ vụ án đối với sự việc nào đó thì có nghĩa sự việc đó đã được giải quyết và khơng ai có quyền khởi tố lại sự việc đã được giải quyết. Điều 106 Hiến pháp năm 2013 quy định: Bản án, quyết định của tồ án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trong; cơ quan, t6 chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành. Đồng thời Điều 31 Hiến pháp năm 2013
cũng quy định: Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
<small>Vi vậy, khi người có hành vi phạm tội mà toà án đã ra bản án</small> hoặc quyết định đình chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật thì cơ quan có thâm quyền khơng được khởi tố vụ án đó. Nếu có lí do xác định bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án đã có hiệu lực pháp luật của tồ án khơng đúng thì người có thâm quyền kháng
<small>nghị theo quy định của pháp luật.</small>
- Đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
<small>Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là thời hạn pháp luật</small>
quy định được tính kế từ ngày xảy ra tội phạm mà khi hết thời hạn
<small>đó thì người phạm tội khơng bị truy cứu trách nhiệm hình sự nữa.Một người đã thực hiện tội phạm bình thường thì người đó phải bịtruy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, có trường hợp vì lí do</small>
nào đó sau một thời gian dài, có khi rất lâu, người phạm tội chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự thì tuỳ theo tính chất và mức độ
<small>nghiêm trọng của tội phạm mà thời hiệu truy cứu trách nhiệm</small>
hình sự dai hay ngắn. Theo quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS
<small>năm 2015 thì thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự là năm năm</small>
đối với tội phạm ít nghiêm trọng; mười năm đối với tội phạm nghiêm trọng; mười lăm năm đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">hai mươi năm đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu trong <small>thời hạn trên, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới</small> mà BLHS quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ay trên một năm tù thì thời hiệu đối với tội cũ được tinh lại ké từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới. Nếu người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã thì thời gian trốn tránh khơng được tính và thời hiệu tính lại kê từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ. BLHS năm 2015 quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm sau đây: các tội xâm phạm an ninh quốc gia; các tội phá hoại hồ bình, chống lồi người và tội phạm chiến tranh; tội tham ô tài sản thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 353 của BLHS; tội nhận hối lộ thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 354 của BLHS nên không áp dụng căn cứ không khởi tố vụ án hình sự vì “đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự” đối với các loại tội phạm trên. Đối với các tội phạm khác nếu qua thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 27 BLHS năm 2015 thì khơng khởi tố vụ án hình sự nữa.
<small>- Tội phạm được đại xá</small>
Việc đại xá do cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước quyết định đối với những tội phạm nhất định.
Văn bản đại xá chỉ có hiệu lực đối với những hành vi phạm tội <small>được nêu trong văn bản và đã xảy ra trước khi ban hành văn bản</small> đại xá. Đối với những tội phạm được đại xá xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá thì co quan có thẩm quyền khơng được khởi tố vu án.
- Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, trừ trường hợp cần tái thâm đối với người khác
<small>nhân phạm tội mà còn giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật và</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa họ phạm tội mới; giáo dục người, pháp nhân khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
<small>Khi một người phạm tội thì những biện pháp tác động bình</small>
thường của xã hội đối với người ấy khơng cịn hiệu quả, vì thế phải áp dụng hình phạt đối với họ mới làm họ nhận thức được sâu sắc tính chất nguy hiểm của hành vi và chịu hồi tâm sửa chữa để trở thành người tốt. Tuy nhiên cũng có trường hợp vì lí do nào đó, sau khi thực hiện tội phạm, người phạm tội đã chết. Trường hợp này nếu truy cứu trách nhiệm hình sự dé ap dung mot hinh phat đối với ho sẽ không mang lại ý nghĩa nào. Vì thế, khi người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã chết, các cơ quan có thâm quyền khơng khởi tố vu án hình sự, trừ trường hop cần tái thâm đối với người khác.
- Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138,
<small>139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS mà bi hại hoặc người</small>
đại diện của bị hại không yêu cau khởi tố.
Đây là những vụ việc tuy có dấu hiệu của tội phạm nhưng do khơng có u cầu khởi tố của bị hại quy định tại Điều 155 BLTTHS năm 2015 nên cơ quan có thẩm quyền khơng được khởi tố vụ án hình sự.
Khi có một trong các căn cứ khơng được khởi tố vụ án hình sự thì người có quyền khởi tố vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Nếu đã khởi tố thì phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và thơng báo cho cơ quan, tơ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố biết rõ lí do. Vi du: Khi nhận được tổ giác của công dân, sau khi kiểm tra, xác minh thay có một trong những căn cứ khơng được khởi tổ thì cơ quan điều tra ra quyết định khơng khởi t6 vụ án hình sự. Trong trường hợp do đánh giá sai, cơ quan điều tra đã ra quyết định khởi tố vụ án, sau đó mới phát hiện có căn cứ khơng được khởi tố thì
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">cơ quan điều tra phải ra quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án của mình. Nếu xét thấy cần xử lí băng biện pháp khác thì chuyên hồ sơ cho cơ quan có thấm quyên giải quyết. Tuy từng trường hop cụ thé, sau khi ra quyết định không khởi tố vụ án hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố, cơ quan đã ra quyết định gửi hồ sơ cho cơ quan, tổ chức hữu quan giải quyết băng biện
<small>pháp hành chính, xử lí kỉ luật, trách nhiệm dân sự... Cơ quan đã ra</small>
quyết định phải thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác hoặc báo tin về tội phạm biết rõ lí do. Những người này có
quyền khiếu nại quyết định khơng khởi tố vụ án. Việc giải quyết
khiếu nại được thực hiện theo Chương XXXIII “Khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự” của BLTTHS năm 2015.
Sau khi ra quyết định, trong thời hạn 24 giờ, cơ quan đã ra quyết định phải gửi quyết định không khởi tố, quyết định huỷ bỏ quyết định khởi tố vụ án hình sự và các tài liệu liên quan đến viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát có thâm quyền dé viện kiểm sát kiểm sát việc ra quyết định. Nếu thấy việc ra quyết định khơng có căn cứ thì viện kiểm sát huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và ra quyết định khởi tố vụ án dé tiễn hành điều tra.
3.3. Quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết to giác, tin báo vé tội phạm, kiến nghị khởi tổ
Khi hết thời hạn kiểm tra, xác minh quy định tại Điều 147 của BLTTHS năm 2015, cơ quan có thâm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố nếu thuộc một trong các trường hợp: đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả; đã yêu cầu cơ quan, tô chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tô hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">Trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định tạm đình chỉ VIỆC giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định tạm đình chỉ kèm theo tài liệu liên quan đến viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát có thâm quyền dé kiểm sát và gửi quyết định tạm đình chỉ đó cho cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tô giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
Trường hợp quyết định tạm đình chỉ khơng có căn cứ thì viện kiêm sát ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ dé tiếp tục giải quyết. Trong thời hạn 24 giờ ké từ khi ra quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ, viện kiểm sát phải gửi quyết định đó
cho cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một
số hoạt động điều tra, cơ quan, tô chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tiếp không quá 01 tháng kế từ ngày cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra nhận được quyết định huỷ bỏ quyết định tạm đình chỉ.
Trường hợp tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tổ thì việc giám định, định giá tài sản hoặc tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiễn hành cho đến khi có kết quả.
Khi có kết quả trưng cầu giám định, kết quả định giá tài sản, kết quả thực hiện uỷ thác tư pháp hoặc hợp tác quốc tế khác hoặc
Trong thời hạn 03 ngày ké từ ngày ra quyết định phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vu tiến hành một số hoạt động điều tra phải gửi quyết định phục hồi cho viện kiểm sát cùng cấp hoặc viện kiểm sát có thẩm quyền, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố.
VI. NHIEM VỤ VÀ QUYEN HAN CUA VIEN KIÊM SAT TRONG GIAI DOAN KHOI TO VU ÁN HÌNH SỰ
Khởi tố vu án là giai đoạn đầu tiên của tố tụng hình sự, được tiến hành nhiều biện pháp khơng mang tính cưỡng chế nhằm xác
định dấu hiệu của tội phạm. Kết thúc giai đoạn này, khi đã ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan điều tra được tiễn hành các biện
pháp điều tra, kế cả áp dung các biện pháp cưỡng chế tố tụng dé nhanh chóng phát hiện tội phạm và người phạm tội. Nếu khơng <small>thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định ở giai</small> đoạn này rất có thể tội phạm sẽ bị bỏ lọt hoặc lợi ích hợp pháp, quyền dân chủ của cơng dân bị vi phạm, làm oan người vô tội. Trong giai đoạn khởi tố vụ án, viện kiểm sát có vai trò và trách nhiệm rất quan trọng là thực hành quyền công tố, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố vụ án hình sự, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện phải bị khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn <small>cứ và hợp pháp.</small>
1. Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm
1.1. Nhiệm vu, quyên hạn của viện kiểm sát khi thực hành quyên công to trong việc giải quyết nguôn tin về tội phạm (Diéu
<small>159 BLTTHS nam 2015)</small>
BLTTHS năm 2015 quy định chức năng thực hành quyền công tố được thực hiện ngay từ khi giải quyết tổ giác tin báo về
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">tội phạm, kiến nghị khởi tố. Theo đó, khi thực hành quyền công tố trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm, viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Phê chuẩn, không phê chuẩn việc bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, gia hạn tạm giữ; phê chuẩn, không phê chuẩn các biện pháp khác hạn chế quyền con người, quyền công dân trong việc giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS.
- Khi cần thiết, đề ra yêu cầu kiểm tra, xác minh và yêu cầu cơ quan có thâm quyền giải quyết nguồn tin về tội phạm thực hiện.
- Quyết định gia hạn thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn
hành một số hoạt động điều tra khởi tố vụ án hình sự.
- Trực tiếp giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong các trường hợp do BLTTHS quy định.
- Huỷ bỏ quyết định tạm giữ, quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khơng khởi tố vụ án hình sự, quyết định tạm đình chỉ giải quyết nguồn tin về tội phạm và các quyết định tổ tụng khác trai pháp luật của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc thực hành quyền công tố theo quy định của BLTTHS nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội.
1.2. Nhiệm vu, quyên hạn của viện kiểm sát trong việc tiếp nhận và kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm (Điêu 160
<small>BLTTHS năm 2015)</small>
Thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết nguồn tin tội phạm, viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">- Kiểm sát việc tiếp nhận, trực tiếp kiểm sát, kiểm sát việc kiểm tra, xác minh và việc lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra; kiểm sát việc tạm đình chỉ việc giải quyết nguồn tin về tội phạm; kiểm sát việc phục hồi giải quyết nguồn tin về tội phạm.
- Khi phát hiện việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm không đây đủ, vi phạm pháp luật thì yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vu tiến hành một số hoạt động điều tra thực hiện các hoạt động: tiếp nhận, kiểm tra, xác minh, ra quyết định giải quyết nguồn tin về tội phạm đầy đủ, đúng pháp luật; kiểm tra việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm và thông báo kết quả cho viện kiểm sát; cung cấp tài liệu về vi phạm pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm; khắc phục vi phạm pháp luật và xử lí nghiêm người vi phạm; yêu cầu thay đôi điều tra viên, cán bộ điều tra.
- Giải quyết tranh chấp về thâm quyên giải quyết nguồn tin về
<small>tội phạm.</small>
- Yêu cầu cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan để kiểm sát việc giải quyết nguồn tin về tội phạm.
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm theo quy định của BLTTHS.
2. Nhiém vụ, quyền hạn của viện kiểm sát khi thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự
2.1. Nhiệm vu quyên hạn của viện kiểm sát khi thực hành
qun cơng tơ việc khởi tố vụ án hình sự (khoản 1 Điều 161 <small>BLTTHS năm 2015)</small>
<small>- Yêu câu cơ quan điêu tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiên</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">hành một số hoạt động điều tra khởi tố hoặc thay đôi, bố sung quyết định khởi tố vụ án hình sự.
- Huy bỏ quyết định khởi tố, quyết định thay đổi hoặc bé sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, quyết định khơng khởi tố vụ án
<small>hình sự khơng có căn cứ và trái pháp luật.</small>
-Trường hợp quyết định khởi tố vụ án hình sự của hội đồng xét xử khơng có căn cứ thì viện kiểm sát kháng nghị lên tồ án
- Khởi tố, thay đối, bố sung quyết định khởi tố vụ án hình sự
<small>trong các trường hợp do BLTTHS quy định.</small>
- Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác để thực hành quyền công tố trong việc khởi tơ vụ án hình sự theo quy định của BLTTHS.
2.2. Nhiệm vụ quyên hạn của viện kiểm sát khi kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự (khoản 2 Điều 161 BLTTHS năm 2015)
Khi kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự, viện kiểm sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau:
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc khởi tố của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vu tiến hành một số hoạt động điều tra, bảo đảm mọi tội phạm được phát hiện đều phải được khởi tố, việc khởi tố vụ án có căn cứ và đúng pháp luật.
- Yêu cầu cơ quan điều tra, co quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cung cấp tài liệu liên quan dé kiêm sát việc khởi tố vụ án hình su.
- Thuc hién nhiém vu, quyén han khac trong kiém sat viéc khởi tố vu án hình sự theo quy định của Bộ luật này.
CÂU HOI HƯỚNG DAN ON TẬP, ĐỊNH HƯỚNG THẢO LUẬN
1. Tại sao ngồi cơ quan tiến hành tố tụng, pháp luật cịn quy định một số co quan khác cũng có thâm quyền khởi tố vụ án hình sự?
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">2. Việc xác định dấu hiệu của tội phạm dựa trên những căn
<small>cứ nào?</small>
3. Tại sao BLTTHS quy định toà án chỉ được khởi tố trong trường hợp tại phiên tồ xét xử, hội đồng xét xử phát hiện có việc <small>bỏ lọt tội phạm?</small>
4. Tại sao BLTTHS quy định đối với những vụ án về các tội phạm được quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của BLHS, chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của họ?
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Điều tra là giai đoạn của tô tụng hình sự, trong đó cơ quan có thâm quyền điều tra áp dụng mọi biện pháp do luật định để xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội và các tinh tiết khác làm cơ sở cho việc giải quyết vụ án.
Đề thu thập chứng cứ, trong giai đoạn điều tra, cơ quan có thâm quyền điều tra được tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định của BLTTHS. Nếu khơng có hoạt động điều tra, viện kiểm sát khơng có cơ sở dé truy tố, tồ án khơng có cơ sở để xét xử vụ án. Dé viện kiểm sát có thé truy tơ đúng người phạm tội, tồ án có thé xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì trước đó, giai đoạn điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình tiết tăng nặng và tình tiết
<small>giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can và chứng cứ xác định các</small>
tình tiết khác của vụ án. Nếu giai đoạn điều tra không thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu thập chứng cứ có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì viện kiểm sát hoặc toà án
sẽ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bố sung. Cơ quan có thẩm quyền điều
tra có trách nhiệm điều tra bố sung đáp ứng yêu cầu của viện kiểm <small>sát hoặc toà án.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18"><small>2. Nhiệm vụ</small>
<small>a. Xác định tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội cũngnhư các tình tiêt khác có liên quan đên việc giải quyết vụ an</small>
Trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra phải thu thập đầy đủ chứng cứ để xác định có hay khơng có việc phạm tội, đối chiếu với BLHS xem hành vi phạm tội thuộc vào điều khoản nao; phải xác định tất cả tội phạm dé không bỏ lọt tội phạm và khơng làm
<small>oan người vơ tdi.</small>
Khi xác định có tội phạm xảy ra, cơ quan điều tra phải làm rõ ai là người thực hiện hành vi phạm tội; lỗi của họ trong việc thực hiện tội phạm; động cơ, mục đích phạm tội; các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; các đặc điểm nhân thân
của bị can; nếu là vụ án đồng phạm, phải xác định rõ hành vi, vai
trò của từng người dé làm cơ sở cho toà án xét xử được chính xác. Mỗi tội phạm xảy ra đều dé lại hậu quả nguy hại nhất định cho xã hội. Trong giai đoạn điều tra phải xác định đúng những thiệt hại do tội phạm gây ra đề đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Những thiệt hai cần xác định bao gồm thiệt hại về vật chất, tinh thần và tài sản. Dé tạo điều kiện cho việc giải quyết vụ án, nếu xét thấy cần thiết, co quan điều tra phải áp dung biện pháp kê biên tài sản, phong toả tài khoản đối với những người phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại hoặc có thê bị tịch thu tài sản hay phạt tiền.
<small>b. Lập hô sơ vụ án, dé nghị truy tơ bị can ra tồ án để xét xửhoặc ra quyết định khác để giải quyết vụ án</small>
<small>Đề ra quyết định truy tố và tiễn hành xét xử đúng người, đúng</small>
tội, đúng pháp luật, viện kiểm sát và toà án phải dựa vào hồ sơ vụ án. Hồ sơ điều tra hình sự tập hợp hệ thống các văn bản, tài liệu được thu thập hoặc lập trong quá trình khởi tố, điều tra, được sắp xếp theo trật tự nhất định, phục vụ cho việc giải quyết vụ án và
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">lưu trữ lâu dài. Nếu hồ sơ điều tra hình sự khơng day đủ, viện kiểm sát sẽ gặp khó khăn trong việc đưa ra các quyết định và yêu cầu hợp lí trong và sau quá trình điều tra như khởi tố bổ sung, thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, thay đổi điều tra viên, ra quyết định truy tô bị can. Vì vậy, việc lập và củng có hồ sơ điều tra hình sự là nhiệm vụ quan trọng của giai đoạn điều tra. Cơ quan điều tra phải lập hồ sơ ngay sau khi có quyết định khởi tố vụ án và thường xuyên củng có hồ sơ để các tài liệu thu thập được hoặc các văn bản tố tụng được lập ra bảo đảm đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định. Khi đã có day đủ chứng cứ dé xác định có tội phạm và bị can thì cơ quan điều tra có nhiệm vụ làm bản kết luận điều tra, trình bày diễn biến hành vi phạm tội, nêu rõ các chứng cứ chứng minh tội phạm, những li do và căn cứ đề nghị truy tố. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tổ là cơ sở pháp lí xác định tội phạm và bị can đề nghị truy tố đã được điều tra và có đầy đủ chứng cứ dé chứng minh. Căn cứ bản kết luận điều tra, viện kiểm sát chỉ ra ban cáo trạng truy t6 những bị can về các tội phạm đã được điều tra có đủ chứng cứ chứng minh. Những tội phạm và bị can chưa được điều tra sẽ không bị truy tố. Trong trường hợp khơng có căn cứ dé đề nghị truy tổ thì ra các quyết định khác theo quy định của BLTTHS để giải quyết vụ án. Vi du: hết thời hạn điều tra vẫn không chứng minh được bị can phạm tội hoặc xác định hành vi bị khởi tố, điều tra không cầu thành tội phạm thì ra quyết định đình chỉ điều tra.
<small>c. Xác định nguyên nhân và điêu kiện phạm lội, yêu cấu các</small>
<small>cơ quan, tô chức hữu quan ap dụng các biện pháp khắc phục vàngăn ngừa</small>
Trong giai đoạn điều tra, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội dé phòng ngừa tội phạm là một nhiệm vu quan trọng. Thực hiện nhiệm vụ này, đối với mỗi tội phạm, cơ quan điều tra phải tìm ra nguyên nhân và điều kiện thúc đây việc thực hiện tội phạm. Nếu tội phạm phat sinh do thiếu sót của cơ quan, tơ chức
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">thì yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Vi du: qua việc điều tra, phát hiện những thiếu sót trong quản lí kinh tẾ, trong bảo vệ tai sản, trong việc giáo dục thanh, thiếu niên... dẫn đến việc phạm tội thì cơ quan điều tra yêu cầu các cơ quan có liên quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Các cơ quan, tổ chức được yêu cầu phải chấp hành yêu cầu của cơ quan điều tra.
3. Ý nghĩa
Điều tra vụ án là giai đoạn thu thập chứng cứ dé chứng minh tội phạm, người thực hiện hành vi phạm tội, xác định các tinh tiết <small>ảnh hưởng tới trách nhiệm hình sự và hình phạt của người thực</small> hiện tội phạm. Vì vậy, giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng đối
với việc giải quyết vụ án.
Kết quả điều tra là cơ sở dé viện kiểm sát quyết định truy tố bi can trước toà án hoặc quyết định khác dé giải quyết vụ án.
Khi kết thúc điều tra, nếu có căn cứ xác định tội phạm và bị can, cơ quan điều tra làm bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Viện kiểm sát chỉ có thể quyết định truy tố bị can khi vu án đã được điều tra, có bản kết luận điều tra kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ án. Nếu vụ án chưa được điều tra hoặc điều tra khơng đầy đủ mà viện kiểm sát khơng có khả năng bồ sung thì khơng thé quyết định truy tố bị can và hé sơ vụ án phải được trả lại dé điều tra bố sung.
Kết quả điều tra là cơ sở để toà án xét xử đúng người, đúng tội, <small>áp dụng đúng pháp luật.</small>
Tồ án chỉ có thể xét xử vụ án trên cơ sở vụ án đã được điều tra, lập hồ sơ và có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của viện kiểm sát. Thiếu hoạt động điều tra, khơng có hồ sơ vụ án, tồ án
khơng có cơ sở dé xét xử. Kết quả của hoạt động điều tra càng cụ
thể, chính xác, càng thu thập được đầy đủ các chứng cứ bao gồm <small>cả chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, chứng cứ xác định tình</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, cũng như chứng cứ xác định các tình tiết khác của vụ án thì càng tạo điều kiện cho toà án xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nếu điều tra chưa thu thập được đầy đủ chứng cứ hoặc việc thu thập chứng cứ có những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng thì tồ án khơng thể đưa vụ án ra xét xử mà phải trả lại hồ sơ dé yêu cầu điều tra bổ sung.
II. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VE DIEU TRA 1. Tham quyền điều tra
<small>a. Thâm quyên diéu tra của cơ quan diéu tra cua công annhan dan</small>
<small>Co quan điêu tra cua công an nhân dan gôm cơ quan cảnh sát</small>
<small>điêu tra và cơ quan an ninh điêu tra.</small>
- Tham quyên diéu tra của cơ quan cảnh sát diéu tra (Điều 163 BLTTHS; các điều 19, 20, 21 Luật tơ chức cơ quan điều tra
<small>hình sự):</small>
Cơ quan cảnh sát điều tra cơng an cấp huyện có thâm quyền điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan an ninh điều tra của công an nhân dân. Thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện được quy định theo lĩnh vực chuyên môn của
<small>các cơ quan này.</small>
Vi dụ: Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội tiễn
hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các <small>chương: Chương XIV (các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,</small> danh dự nhân phẩm của con người), Chương XV (các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dan chủ của công
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22"><small>dân), Chương XVI (các tội xâm phạm sở hữu), Chương XVII (các</small> tội xâm phạm chế độ hơn nhân và gia đình), Chương XXI (các tội <small>xâm phạm an tồn cơng cộng, trật tự công cộng), Chương XXII</small>
<small>(các tội xâm phạm trật tự quan lí hành chính), Chương XXIV (các</small>
<small>tội xâm phạm hoạt động tư pháp) của BLHS khi các tội phạm đó</small> thuộc thâm quyền xét xử của tồ án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thấm quyền điều tra của co quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan an ninh điều tra trong công
<small>an nhân dân.</small>
Đội cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ tiễn hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy <small>định tại các chương: Chương XVIII (các tội xâm phạm trật tự</small> quản lí kinh tế); Chương XIX (các tội phạm về môi trường); Chương XXIII (các tội phạm về chức vụ) của BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp huyện, trừ các tội phạm thuộc thâm quyên điều tra của cơ quan an ninh điều tra trong công an nhân dân.
Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XX (các tội phạm về ma tuý) của BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp huyện.
Cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXIV của BLHS khi các tội phạm đó thuộc thầm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Tổ chức cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh gồm có phịng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, tham nhũng và chức vụ, phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý.
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội tiễn hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các
<small>chương XIV, XV, XVI, XVII, XXI, XXII, XXIV của BLHS khi</small>
các tội phạm đó thuộc thâm qun xét xử của tồ án nhân dân cap tỉnh (trừ các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao và cơ quan an ninh điều tra trong công an nhân dân) hoặc các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ tiễn hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy <small>định tại các chương XVII, XIX, XXIII của BLHS khi các tội</small> phạm đó thuộc thẩm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp tỉnh (trừ các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra trong công an nhân dân) hoặc các tội phạm thuộc thấm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Phòng cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý tiến hành điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XX của BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toa án nhân dân cấp tỉnh hoặc các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp huyện nhưng xét thay cần trực tiếp điều tra.
Cơ quan cảnh sát điều tra Bộ cơng an điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thầm
quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh về <small>những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa</small>
bàn nhiều tỉnh, thành phó trực thuộc trung ương hoặc tội phạm có
tổ chức xuyên quốc gia nếu xét thay cần trực tiếp điều tra; các vụ
án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra do Hội đồng thâm phán Tòa án nhân dân tối cao huỷ dé điều tra lại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Tổ chức cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an gồm có: Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội; Cục cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế, tham nhũng và chức vụ; Cục cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý; Cục cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu, vận chuyền trái phép hàng hoá qua biên giới, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm, xâm phạm sở hữu trí tuệ (Cục cảnh sát điều tra tội phạm về buôn lậu).
Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh quy định tại các chương XIV, XV, XVI, XVII, XXI, XXH, XXIV BLHS nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
Cục cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự quản lí kinh tế và chức vụ tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh quy định tại các chương XVIII, XIX, XXIII của BLHS nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra. Cục cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý tiến hành điều tra các vụ án hình sự về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra công an cấp tỉnh quy định tại Chương XX BLHS nhưng xét thấy cần trực tiếp điều tra.
- Tham quyên điều tra của cơ quan an ninh diéu tra (Điều 163 BLTTHS; các điều 16, 17 Luật tổ chức co quan điều tra hình SỰ):
Cơ quan an ninh điều tra cơng an cấp tỉnh điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XIII, Chương XXVI và các tội phạm quy định tại các điều 207, 208, 282, 283, 284, 299,
<small>300, 303, 304, 305, 309, 337, 338, 347, 348, 349 và 350 BLHS</small>
khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án nhân dân cấp tỉnh; tiễn hành điều tra vu án hình sự về tội phạm khác liên quan đến an ninh quốc gia hoặc để bảo đảm khách quan theo sự
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">phân công của Bộ trưởng Bộ công an.”
Cơ quan an ninh điều tra Bộ công an điều tra các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc có yếu tơ nước ngồi thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra công an cấp tỉnh quy định tại khoản 2 Điều 17 của Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 nếu xét thay can truc tiép điều tra; vu án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra của công an nhân dân do Hội đồng thâm phán toà án nhân dân tối cao huỷ dé điều tra lại.)
<small>b. Thâm quyên điểu tra cua cơ quan diéu tra trong quán độinhân dân</small>
- Tham quyên điều tra của cơ quan điều tra hình sự trong
quân đội nhân dan (Điều 163 BLTTHS; các điều 26, 27, 28 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự):
Bộ phận điều tra cơ quan điều tra hình sự khu vực điều tra các vụ án hình sự về tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXV BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của tồ án qn sự cùng cấp, trừ các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương và cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân.
Ban điều tra cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương điều tra các vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại các chương từ Chương XIV đến Chương XXV BLHS khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án quân sự quân khu
và tương đương hoặc các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự khu vực nhưng xét thấy cần trực
tiếp điều tra.
<small>(1).Xem: Điều 17 Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.(2).Xem: Điêu 16 Luật tơ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Các phòng điều tra cơ quan điều tra hình sự Bộ quốc phịng điều tra các vụ án hình sự thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự quân khu và tương đương về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều quân khu và tương đương, tội phạm có tơ chức xun quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra; vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự trong quân đội nhân dân do Hội đồng tham phán Toà án nhân dân tối cao huỷ dé điều tra lại.
- Thẩm quyển diéu tra của cơ quan an ninh điều tra trong quân đội nhân dân (Điều 163 BLTTHS; Các điều 23, 24 Luật tơ chức cơ quan điều tra hình sự):
Ban điều tra cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương đương điều tra vụ án hình sự về các tội phạm quy định tại Chương XIII, Chương XXVI và các tội phạm quy định tại các điều 207,
<small>208, 282, 283, 284, 299, 300, 303, 304, 305, 309, 337, 338, 347,</small>
348, 349 và 350 BLHS khi các tội phạm đó thuộc thẳm quyền xét
<small>xử của tồ án qn sự.</small>
Các phòng điều tra cơ quan an ninh điều tra Bộ quốc phịng điều tra các vụ án hình sự thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra quân khu và tương đương về những tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp, xảy ra trên địa bàn nhiều quân khu và tương đương hoặc có yêu tố nước ngoài nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra; vụ án đặc biệt nghiêm trọng thuộc thầm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra của quân đội nhân dân do Hội đồng thâm phán Toa án nhân dân tối cao huỷ dé điều tra lại.
c. Tham quyên điều tra của cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 163 BLTTHS; các điều 30, 31 Luật tổ <small>chức cơ quan điêu tra hình sự)</small>
Các phịng điều tra cơ quan điều tra Viện kiểm sát nhân dân tối cao điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">phạm về tham những, chức vụ quy định tại Chương XXIII và
<small>Chương XXIV BLHS xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người</small>
phạm tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thâm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của toà án nhân dân.
Ban điều tra cơ quan điều tra Viện kiểm sát quân sự trung ương điều tra các tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp, tội phạm về tham nhũng, chức vụ quy định tại Chương XXIII và
<small>Chương XXIV BLHS xảy ra trong hoạt động tư pháp mà người</small>
phạm tội là cán bộ, công chức thuộc cơ quan điều tra, toà án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án, người có thầm quyền tiến hành hoạt động tư pháp khi các tội phạm đó thuộc thâm quyền xét xử của tồ án quân sự.
Về thầm quyền điều tra theo lãnh thổ, theo quy định tại khoản 4 Điều 163 BLTTHS, co quan điều tra có thâm quyền điều tra <small>những vụ án hình sự mà tội phạm xảy ra trên địa phận của mình.</small> Khi có tội phạm xảy ra, phải căn cứ vào địa điểm xảy ra tội phạm thuộc địa phận của cơ quan điều tra nào để xác định thâm quyền điều tra. Trong trường hợp tội phạm được thực hiện tại nhiều nơi khác nhau hoặc không xác định được địa điểm xảy ra tội phạm thì việc điều tra vụ án thuộc thầm quyền của cơ quan điều tra nơi phát hiện tội phạm, nơi bị can cư trú hoặc bị bắt.
Đề kịp thời thu thập chứng cứ, ngăn chặn hành vi phạm tội, đối với sự việc có dấu hiệu phạm tội mà chưa xác định rõ thấm
quyền điều tra thì cơ quan điều tra nào phát hiện trước phải áp
dụng ngay các biện pháp điều tra theo quy định của BLTTHS; khi đã xác định được thâm quyền điều tra thì chuyển vụ án cho co quan điều tra có thẩm quyên theo quy định của BLTTHS.
<small>Khi có tranh châp vê thâm quyên điêu tra giữa các cơ quanđiêu tra thì viện trưởng viện kiêm sát cùng cap đang kiêm sát</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28"><small>điêu tra vụ án có thâm quyên giải quyết. Các cơ quan điêu traphải thực hiện quyét định của viện kiêm sát vê xác định thâmquyên điêu tra.</small>
d. Tham quyên điều tra của các cơ quan của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, kiểm ngư và các cơ <small>quan khác của công an nhân dân, quân đội nhân dân được giao</small> nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 164 BLTTHS; từ Điều 32 đến Điều 39 Luật tổ chức co quan điều tra hình sự)
- Các cơ quan của bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, lực
lượng cảnh sát biển, kiểm ngư khi thực hiện nhiệm vụ mà phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm trong lĩnh vực và địa bàn quản lí của mình thì có nhiệm vụ, quyền hạn sau:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lí lịch người phạm tội rõ ràng thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyên hồ sơ vụ án cho viện kiểm sát có thâm quyền trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án;
Đối với tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng, <small>tội phạm đặc biệt nghiêm trọng hoặc tội phạm ít nghiêm trọng</small> nhưng phức tap thì ra quyết định khởi t6 vụ án, tiến hành hoạt động điều tra ban đầu và chuyên hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thâm quyền trong thời hạn 7 ngày ké từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Các cơ quan của bộ đội biên phịng có thâm quyền điều tra
các tội phạm quy định tại Chương XIII và các điều 150, 151, 152,
<small>153, 188, 189, 192, 193, 195, 207, 227, 235, 236, 242, 247, 248,249, 250, 251, 252, 253, 254, 255, 256, 303, 304, 305, 306, 309,330, 337, 338, 346, 347, 348, 349 và 350 của BLHS xảy ra trong</small>
khu vực biên giới trên đất liền, bờ biển, hải đảo và các vùng biển <small>do bộ đội biên phịng quản lí;</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">+ Các cơ quan của hải quan có thâm điều tra các tội phạm quy định tại các điều 188, 189, 190 của BLHS.
+ Các cơ quan của kiểm lâm có thâm quyền điều tra tội phạm quy định tại các điều 232, 243, 244, 245, 313 và 345 của BLHS.
+ Các cơ quan của lực lượng cảnh sát biển có thâm điều tra tội phạm quy định tại Chương XIII và các điều 188, 189, 227, 235,
<small>236, 237, 242, 249, 250, 251, 252, 253, 254, 272, 273, 282, 284,303, 304, 305, 309, 311, 346, 347 và 348 của BLHS xảy ra trên</small>
các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do lực lượng cảnh sát biển quản lí.
+ Các cơ quan của kiểm ngư có thâm quyền điều tra tội phạm quy định tại các điều 111, 242, 244, 245, 246, 305 và 311 của BLHS xảy ra trên các vùng biển và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do kiểm ngư quản lí.
<small>- Các cơ quan khác trong cơng an nhân dân, quân đội nhân</small> dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra khi thực hiện nhiệm vụ của mình mà phát hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thì có quyền khởi tố vụ án, tiễn hành một số hoạt động điều tra ban đầu và chuyền hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thâm quyền trong hạn 7 ngày ké từ ngày khởi tổ vụ án.
+ Tham quyền điều tra của các cơ quan thuộc lực lượng an ninh trong công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra là các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan an ninh điều tra của công an nhân dân mà các cơ quan
<small>này phát hiện khi thực hiện nhiệm vụ của mình.</small>
+ Tham quyền điều tra của các cơ quan thuộc lực lượng cảnh sát trong công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra là các tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan cảnh sát điều tra mà các cơ quan này phát hiện khi thực
<small>hiện nhiệm vụ của mình.</small>
+ Quyền hạn điều tra của các cơ quan khác trong quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30"><small>Giám thị trại giam trong khi làm nhiệm vụ của mình ma phát</small>
hiện sự việc có dấu hiệu tội phạm thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra hình sự đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự thì quyết định khởi tơ vụ án hình sự, khám nghiệm hiện trường, <small>lay lời khai, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tai</small> liệu liên quan trực tiếp đến vụ án, chuyên hồ sơ vụ án cho cơ quan
<small>điều tra có thâm quyền trong thời hạn 07 ngày ké từ ngày ra quyết</small>
định khởi tố vụ án.
Thủ trưởng đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương khi phát hiện những hành vi phạm tội thuộc thâm quyền điều tra của cơ quan điều tra trong quân đội nhân dân, xảy ra trong khu vực đóng qn của đơn vị thì có quyền lập biên bản phạm tội quả tang, lẫy lời khai, khám xét, thu giữ, tạm giữ và bảo quản vật chứng, tài liệu liên quan đến hành vi phạm tội, áp dụng biện pháp ngăn chặn theo quy định của BLTTHS, chuyên hồ sơ vụ án cho cơ quan điều tra có thâm quyền trong thời hạn 07 ngày kế từ ngày ra quyết định khởi tố vụ án.
Các cơ quan được g1ao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra chỉ được thực hiện quyền hạn của mình theo quy định của BLTTHS và Luật tô chức cơ quan điều tra hình sự. Sau khi ra quyết định khởi tố vụ án, áp dụng biện pháp ngăn chặn theo thâm
<small>cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra</small>
chuyền ngay hồ sơ vụ án để trực tiếp điều tra. Các yêu cầu của cơ quan điều tra có giá trị bắt buộc thi hành đối với cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra. Các đơn vị cảnh sát nhân dân, an ninh nhân dân, kiểm sốt qn sự có trách nhiệm hỗ trợ và thực hiện các yêu cầu của thủ trưởng, phó thủ trưởng cơ quan điều tra, điều tra viên và của thủ trưởng, phó thủ
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">trưởng cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động <small>điêu tra trong hoạt động điêu tra.</small>
2. Chuyển vụ án, nhập hoặc tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra, uỷ thác điều tra (các điều 169, 170, 171 BLTTHS) Thực hiện thâm quyên điều tra theo quy định của BLTTHS và Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự, khi tiến hành điều tra, cơ quan điều tra phải kiểm tra xem đã điều tra đúng thâm quyền hay chưa. Khi thấy vụ án không thuộc thẩm qun điều tra của mình (khơng đúng tội phạm, đối tượng hoặc lãnh thổ) thì cơ quan điều tra phải đề nghị viện kiểm sát cùng cấp ra quyết định chuyên vụ án cho cơ quan điều tra có thâm quyền để tiếp tục điều tra. Trong thời hạn ba ngày kế từ ngày nhận được đề nghị của cơ quan điều tra, viện trưởng viện kiểm sát cùng cấp có trách nhiệm ra quyết
định chuyền vụ án cho cơ quan điều tra có thâm quyền, quyết định này cũng được chuyên cho viện kiểm sát có thâm quyền dé thực
hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra. Viện kiểm sát có thể ra quyết định chuyên vụ án trong trường hợp cơ quan điều tra cấp trên quyết định rút vụ án lên để điều tra hay điều tra viên bị thay đổi là thủ trưởng cơ quan điều tra đang điều tra vụ án hoặc khi viện kiểm sát đã yêu cầu chuyển vụ án nhưng cơ quan điều tra không thực hiện. Trong trường hợp chuyên vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực <small>thuộc trung ương hoặc ngoai phạm vi quân khu thì do viện trưởng</small> viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện trưởng viện kiểm sát quân sự cấp quân khu quyết định.
Nhập vụ án hình sự là việc tiễn hành điều tra trong cùng một vụ án những trường hợp bị can phạm nhiều tội, bị can phạm tội nhiều lần, nhiều bị can cùng thực hiện một tội phạm hoặc cùng
với bị can cịn có những người khác che giấu tội phạm hoặc
không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do phạm tội mà có... Các vụ án được nhập dé tiến hành điều tra trong cùng một vụ phải có liên quan đến nhau. Khơng được nhập các vụ án để điều tra nêu <small>đó là những vụ án riêng biệt không liên quan với nhau.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">Tách vụ án hình sự để tiến hành điều tra là việc tách các tội <small>phạm hoặc các bị can trong cùng một vụ án thành những vụ án</small> riêng lẻ, nêu khơng thê hồn thành sớm việc điều tra đối với tất cả các tội phạm. Vi du: vụ án bị can thực hiện nhiều tội phạm ở các thời điểm khác nhau, xét thay khơng thê hồn thành sớm việc điều tra với mọi tội phạm thì tách tội phạm khơng thể hồn thành việc điều tra cùng thời điểm với tội phạm khác của bị can để điều tra sau trong vụ án khác. Tuy nhiên, chỉ được tách vụ án nếu việc tách đó khơng ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Vi du: Dang điều tra vụ án về tội trộm cắp tài sản lại phát hiện bị can phạm tội giết người. Hai tội thực hiện ở các thời điểm khác nhau với các bị hại khác nhau, hành vi trộm cắp tài sản
chứng cứ rõ ràng, việc điều tra có thé kết thúc nhanh chóng cịn
<small>tội giết người có tính chất phức tap khơng thé sớm kết thúc điều</small>
<small>tra cùng thời điểm với tội trộm cắp tài sản.</small>
<small>Dé kiểm sát các hoạt động điều tra được kip thời, trong thời</small> hạn 24 giờ kê từ khi ra quyết định, cơ quan điều tra phải gửi quyết
Uỷ thác điều tra là việc cơ quan điều tra này yêu cầu cơ quan điều tra khác tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết. Chỉ cơ quan điều tra mới được uy thác điều tra, các co quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không được thực hiện việc uỷ thác điều tra vì chỉ tiến hành hoạt động điều tra ban đầu. Khi uỷ thác điều tra, cơ quan điều tra uỷ thác phải ghi rõ yêu cầu cụ thé trong quyết định uy thác điều tra và gửi cho cơ quan điều tra được uỷ thác và viện kiểm sát cùng cấp
với cơ quan này dé kiêm sát hoạt động điều tra uỷ thác. Cơ quan
điều tra được uy thác có trách nhiệm thực hiện nhanh chong va
đầy đủ những việc được uỷ thác trong thời hạn mà cơ quan điều
tra uỷ thác yêu cau; trong trường hop cơ quan điều tra được uỷ thác không thể thực hiện được từng phần hoặc toàn bộ việc uỷ thác thì phải báo ngay bằng văn bản, nêu rõ lí do cho cơ quan điều
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">3. Các loại thời hạn trong điều tra a. Thời hạn điêu tra (Điều 172 BLTTHS)
Thời hạn điều tra là thời gian do pháp luật quy định để cơ quan điều tra hoàn thành điều tra vụ án. Thời hạn điều tra được tính từ khi khởi tố vụ án cho đến ngày kết thúc điều tra. Trong trường hợp cơ quan điều tra tiếp nhận vụ án từ cơ quan điều tra
<small>khác hoặc từ đơn vi bộ đội biên phòng, cơ quan hải quan, cơ quan</small>
kiểm lâm, lực lượng cảnh sát biển, cơ quan kiểm ngư... thì thời hạn điều tra cũng được tính từ ngày cơ quan đó ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Thời hạn điều tra vụ án hình sự khơng được q hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, khơng q ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Nếu do tính chất phức tạp của vụ án cần phải có thêm thời gian để điều tra thì trong thời hạn mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải làm văn bản đề nghị viện trưởng viện kiểm sát gia hạn điều tra.
Việc gia hạn điều tra được quy định như sau:
Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thé được gia hạn điều tra một lần khơng quá hai tháng.
Đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra hai lần, lần thứ nhất không quá ba tháng và lần thứ hai không quá
<small>hai tháng.</small>
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thé được gia hạn điều tra hai lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn điều tra ba lần, mỗi lần không quá bốn tháng.
<small>Thâm quyên gia hạn điêu tra của viện kiêm sát cụ thê như sau:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">Đối với tội phạm ít nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra. Trong trường hợp vụ án được thụ lí ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra.
Đối với tội phạm nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai. Trong trường hợp vụ án được thụ lí điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu được gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần <small>thứ hai.</small>
Đối với tội phạm rất nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực gia hạn điều tra lần thứ
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu gia hạn điều tra lần thứ nhất và lần thứ hai; Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương gia hạn điều tra lần thứ ba.
Trong trường hợp vụ án được thụ lí để điều tra ở cấp trung <small>ương thì việc gia hạn điều tra thuộc thâm quyên của Viện kiêm sát</small>
<small>nhân dân tôi cao, Viện kiêm sát quân sự trung ương.</small>
Như vậy, thời hạn điều tra tối đa (kế cả gia hạn) đối với tội phạm ít nghiêm trọng là không quá bốn tháng, tội phạm nghiêm trọng là không quá tám tháng, tội phạm rất nghiêm trọng là không
<small>quá mười hai tháng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là không</small>
quá mười sáu tháng. Quy định này đòi hỏi cơ quan điều tra phải nâng cao chất lượng cơng tác điều tra, nâng cao trình độ nghiệp
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">vụ, pháp luật cho cán bộ điều tra, sử dụng đồng bộ các biện pháp điều tra do BLTTHS quy định dé bảo đảm việc kết thúc điều tra <small>đúng thời hạn.</small>
Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng mà thời hạn gia hạn điều tra đã hết nhưng do tính chat phức tạp của vụ án khơng thé kết thúc việc điều tra thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có thê gia hạn thêm một lần không quá bốn tháng.
Đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn điều tra thêm một lần nữa không quá bốn tháng.
Khi đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm thì cơ quan điều tra phải ra quyết định đình chỉ điều tra.
b. Thời hạn tạm giam dé diéu tra (Điều 173 BLTTHS)
Là thời hạn do pháp luật quy định được tạm giam bị can dé phuc vu cho viéc diéu tra vu an.
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn rất nghiêm khắc, cách li người bị tạm giam với xã hội bên ngoài, hạn chế quyền tự do thân thé và các quyền cơ bản của họ nên thời hạn tạm giam được pháp luật quy định rất chặt chẽ. BLTTHS quy định thời hạn tạm giam bị can dé điều tra khơng q hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc <small>biệt nghiêm trọng;</small>
Trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và khơng có căn cứ thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn tạm giam, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn tạm giam.
Thời hạn gia hạn tạm giam đối với từng loại tội phạm cụ thê
<small>như sau:</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá một tháng:
- Đối với tội phạm nghiêm trọng có thé được gia hạn tạm giam một lần không quá hai tháng;
- Đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam một lần không quá ba tháng:
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần mỗi lần không quá bốn tháng.
<small>Việc gia hạn tạm giam thuộc thâm quyên của viện kiêm sát</small>
<small>các câp được quy định như sau:</small>
Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, viện kiểm sát quân sự khu vực có quyền gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án được thụ lí để điều tra ở cấp tỉnh, cấp quân khu thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có quyên gia hạn tạm giam đối với tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng và gia hạn tạm giam lần thứ nhất đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp gia hạn tạm giam lần thứ nhất đã hết mà vẫn chưa thé kết thúc việc điều tra và khơng có căn cứ dé thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam, xét thay can tiếp tục tạm giam bị can dé hồn thành việc điều tra thì viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có thé gia hạn tạm giam lần thứ hai đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trường hợp vu án được thụ lí dé điều tra ở cấp trung ương thì việc gia hạn tạm giam thuộc thâm quyền của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự trung ương.
Trường hợp cần thiết đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần không quá 04 tháng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Trường hợp thời hạn gia han tạm giam đã hết mà chưa thé kết thúc việc điều tra và khơng có căn cứ dé thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 01 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, không quá 04 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trường hợp đặc biệt, đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia mà khơng có căn cứ để huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Trường hợp cần thiết đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng không phải là tội xâm phạm an ninh quốc gia và khơng có căn cứ dé thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có quyền gia hạn thêm một lần nhưng không quá 04 tháng: trường hợp đặc biệt khơng có căn cứ dé huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao quyết định việc tạm giam cho đến khi kết thúc việc điều tra.
Trong thời hạn tạm giam, nếu xét thấy không cần thiết phải tiếp tục tạm giam thì cơ quan điều tra phải kịp thời đề nghị viện kiểm sát huỷ bỏ việc tạm giam dé trả tự do cho người bị tạm giam hoặc xét thay can thiết thì áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
Khi đã hết thời hạn tạm giam thì người ra lệnh tạm giam phải trả tự do cho người bi tạm giam hoặc xét thay can thi ap dung bién
<small>pháp ngăn chặn khác.</small>
c. Thời hạn phục hồi điều tra (khoản 1 Điều 174 BLTTHS) Là thời hạn đo pháp luật quy định để tiếp tục điều tra vụ án đã được phục hồi điều tra.
Đối với những vụ án đã có quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra nhưng có lí do dé huỷ bỏ quyết định này thi cơ quan
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">điều tra ra quyết định phục hồi điều tra nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Thời hạn phục hồi điều tra (điều tra tiếp) không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kế từ khi có quyết định phục hồi điều tra cho đến khi kết thúc điều tra.
Trong trường hợp cần gia hạn điều tra do tính chất phức tạp của vụ án thì chậm nhất là mười ngày trước khi hết hạn điều tra, cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị viện kiểm sát gia hạn điều tra. Tham quyền gia hạn điều tra theo quy định tại Điều 172 BLTTHS và việc gia hạn điều tra được quy định cụ thể như sau:
- Đối với tội phạm ít nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá một tháng;
- Đối với tội phạm nghiêm trọng và tội phạm rất nghiêm trọng được gia hạn điều tra một lần không quá hai tháng:
- Đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng được gia hạn điều tra <small>một lân không quá ba tháng.</small>
d. Thời hạn điều tra bồ sung (khoản 2 Điều 174 BLTTHS) Thời hạn điều tra bổ sung là thời hạn do pháp luật quy định dé điều tra bổ sung đối với vụ án khi có u cầu của viện kiểm sát hoặc tồ án cấp sơ thâm.
Trong trường hợp vụ án do viện kiểm sát trả lại dé điều tra bố sung thì thời hạn điều tra b6 sung không quá hai tháng. Nếu viện kiểm sát quyết định truy tố nhưng toà án trả lại để điều tra bổ sung thì thời hạn điều tra bổ sung không quá một tháng. Thời hạn điều
tra bố sung được tính từ ngày cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và yêu cầu điều tra. Để bảo đảm cho vụ án được giải quyết nhanh
chóng, tránh tình trạng điều tra bổ sung quá nhiều lần kéo dài thời gian, BLTTHS quy định viện kiểm sát chỉ được trả hồ sơ điều tra bô sung tối đa hai lần; thâm phán chủ tọa phiên toà chỉ được trả lại
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">hồ sơ một lần; hội đồng xét xử chỉ được trả hồ sơ một lần. d. Thời hạn điêu tra lại (khoản 3 Điều 174 BLTTHS)
Thời hạn điều tra lại là thời hạn do pháp luật quy định để tiến hành điều tra lại vụ án theo quyết định của hội đồng xét xử phúc thâm, hội đồng giám đốc thâm, tái thấm. Điều tra lại được tiến
<small>hành trong những trường hợp vụ án được đưa ra xét xử nhưng toà</small>
án cấp phúc thâm huỷ án sơ thâm, hội đồng giám đốc thâm, hội đồng tái thâm huỷ bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị dé điều tra lại. Khi điều tra lại, thời hạn điều tra và gia hạn điều tra được áp dụng theo thủ tục chung quy định tại Điềul72 BLTTHS. Thời hạn điều tra lại được tính từ khi cơ quan điều tra nhận hồ sơ và yêu cầu điều tra lại.
5. Những quy định chung khác về điều tra
Trong q trình điều tra, người tham gia tố tụng có quyền đưa ra yêu cầu, đề nghị về những vấn đề liên quan đến vụ án. Cơ quan có thầm quyền điều tra, viện kiểm sát trong phạm vi trách nhiệm của mình phải giải quyết yêu cầu của họ và báo cho họ biết kết quả. Trong trường hop khơng chấp nhận u cau thì co quan điều tra hoặc viện kiểm sát phải trả lời và nêu rõ lí do. Nếu khơng đồng ý với kết quả giải quyết của cơ quan điều tra hoặc viện kiểm sát thì người tham gia tơ tụng có quyền khiếu nại (Điều 175 BLTTHS). Đối với một số biện pháp điều tra, luật quy định phải có sự tham dự của người chứng kiến. Trong những trường hợp đó, cơ quan điều tra phải mời người chứng kiến. Khi tham dự, người chứng kiến có trách nhiệm xác nhận nội dung và kết quả công việc mà điều tra viên đã tiến hành trong khi mình có mặt và có thể nêu ý kiến cá nhân, ý kiến này được ghi vào biên bản có chữ kí của họ (Điều 176 BLTTHS).
Giữ bí mật về điều tra là một trong những yếu tố quan trọng
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">góp phần khám phá tội phạm, nếu bí mật về điều tra bị tiết lộ thì ảnh hưởng lớn đến kết quả giải quyết vụ án. Vì vậy, bí mật về điều tra phải được đảm bảo. Theo quy định của pháp luật thì bí mật điều tra gồm những thơng tin về điều tra vụ án hình sự từ khi có quyết định khởi tố vụ án đến khi có kết luận điều tra của cơ quan điều tra; những thông tin về kết quả kiểm sát điều tra...
Giữ bí mật về điều tra là trách nhiệm của điều tra viên, kiếm sát viên, người tham gia tố tụng. Trong quá trình tiến hành tố tụng, nếu thấy có những thơng tin, tài liệu thuộc về bí mật nhà
nước hoặc bí mật điều tra thì điều tra viên, kiểm sát viên phải báo
trước cho người tham gia tố tụng, người chứng kiến khơng được tiết lộ bí mật về điều tra trong và sau khi điều tra vụ án. Việc thông báo này phải được ghi vào biên bản. Điều tra viên, kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng làm lộ bí mật điều tra thì <small>tuỳ từng trường hợp bị xử lí kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc truy</small> cứu trách nhiệm hình sự (Điều 177 BLTTHS).
Biên bản điều tra là văn bản hoạt động tố tụng ghi lại đầy đủ nội dung, diễn biến của các hoạt động điều tra. Khi tiễn hành điều tra phải lập biên bản ghi rõ nội dung hoạt động điều tra, thời gian, địa điểm tiến hành điều tra, những người tiến hành, tham gia tố tụng hoặc có liên quan đến hoạt động điều tra, những khiếu nại, yêu cầu hoặc đề nghị của họ.
<small>Người lập biên bản phải đọc lại biên bản cho người tham gia</small>
tố tụng nghe, giải thích cho họ biết quyền được bổ sung và nhận
xét về biên bản. Nhận xét, bố sung đó được ghi vào biên bản.
Người lập biên bản, người tham gia tố tung cùng kí tên vào biên bản. Trong trường hợp người tham gia tố tụng từ chối kí tên vào <small>biên bản thì việc đó phải được ghi vào biên bản, nêu rõ lí do và</small> mời người chứng kiến kí vào biên bản. Trường hợp người tham gia tố tụng khơng biết chữ thì đọc lại biên bản cho cho họ và người chứng kiến nghe, yêu cầu họ điểm chỉ và người chứng kiến
</div>