Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Những vấn đề pháp lý về giám hộ - Thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (51.62 MB, 89 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

HỨA VAN NGHIỆP

NHUNG VAN DE PHAP LY VE GIÁM HỘ - THỰC TIEN

ÁP DUNG TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT VỤ ÁN DAN SỰ

TẠI TOA ÁN NHÂN DAN TINH LANG SƠN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

<small>HÀ NỘI, NĂM 2018</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

HỨA VĂN NGHIỆP

NHUNG VAN DE PHAP LY VE GIÁM HỘ - THUC TIEN

AP DUNG TRONG VIEC GIAI QUYET VU AN DAN SU

TAI TOA AN NHAN DAN TINH LANG SON

LUAN VAN THAC Si LUAT HOC

Chuyên ngành: LUAT DAN SỰ VA TO TUNG DAN SỰ

Mã số: 8380103

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS BÙI ĐĂNG HIẾU

<small>HÀ NỘI, NĂM 2018</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.

<small>Tác gia</small>

<small>Hứa Văn Nghiệp</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2. Tình hình nghiên cứu đề tài ...-- ¿2-52 SE E‡SE‡EE+EEEE£EEEEEEEEEEErkerkrrred 2

3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu đỀ tài.,... ác cccrerekererrrees 2 <small>4. Cac phương pháp nghiên cứu của Luận văn...-- -¿-- s5 + + + **++ss++ssss+ 3</small> 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài...-- ¿5c 5c cscccEzErkerkerxeee 3 6. Kết cầu của Luận văn...----¿--::+2++t22xxt22 22122121... re 3 PHAN NỘI DUNG...--- - G521 E221 E1 E3 15E121211112111215111111111 111cc. 4

Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VE GIÁM HỘ ...--- 4 1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của giám hộ...-- ¿2 2 s+e+xerxzEred 4

<small>1.1.1. Khải nIỆHM ĐIÁM HỘ ... 03311 8811195111118 11v vn rrt 4</small>

1.1.2. Đặc điểm của giám hỘ...-- - 2-5 SE EEEEEEEEEEE1E1111111111111 1xx, 7 1.1.3. Ý nghĩa của giám hộ... -- - + ++SE+E+E‡+EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEE11E11EtEctret 9

<small>Lcd, PRED TG, SUG suanaenistoHia tưng HÀ A1 2HHHA Sheth AG RAMA A AD 3 3258814182 101.2.1. Giảm hộ đựng HhÄÊN... cv 91111 11 11111111 111g vn vn 10AC. j5 an. ... 22</small>

1.3. Quyên và nghĩa vụ của người giám hộ...- ¿2-5 s+x+EeE+EeErxexered 24

<small>1.3.1. Quyên của người giảm hộ đôi với người được giảm hộ là người chưathành niên, người mat năng lực hành Vi MAN SU ...- --c «55s << << £++s++ 24</small>

<small>1.3.2. Quyên của người giảm hộ đổi với người được giảm hộ là người có khókhăn trong nhận thức, làm Chu Wann Vi ...- ccscss++xE‡+veeEeeeeeeeeeesesvs 25</small>

<small>1.3.3. Nghĩa vụ của người ZIG HỘ... cv tvkEkteeereerreeeerrvee 25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

1.4.2. Phan biệt giám hộ với đại diện theo pháp luật của người bị han chế

<small>/12//15171580/12//1/0A282/21/817287 705857... 28</small>

Chương 2. GIÁM HO DUONG NHIÊN - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIEN THỰC HIỆN TAI TOA ÁN NHÂN DAN TINH LANG

SON VA KIÊN NGHỊ HOÀN THIEN PHÁP LUẬT...-- --- 32

2.1. Thực trạng pháp luật về giám hộ đương nhiên ...- - 2s s+sexd 32

2.1.1. Thực trạng pháp luật về giám hộ đương nhiên của người chưa thành

2.1.2. Thực trạng pháp luật về giám hộ đương nhiên của người mat năng lực <small>hành Vi AGN ,S|ƒ... G0101... 1 1 1111336 x55 43</small>

2.2. Thực tiễn thực hiện giám hộ đương nhiên tại tinh Lang Sơn... 48 2.2.1. Về việc xác lập, đăng ký việc giám hộ đương nhiên...-- - s5¿ 48

2.2.2. Vẻ việc thực hiện nghĩa vụ của người giảm hỘ...-- --«««<<<ssss++ 50

2.2.3. Về việc đăng ký, thay đổi người giảm hỘ...-- - 5S ceresesrereeered 51 2.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám hộ đương nhiên

2.3.1. Kiến nghị bỏ quy định việc giảm hộ đương nhiên phải đăng ký... 55 2.3.2. Kiến nghị thay thé quy định người được giám hộ là “người mat năng lực hành vi dân sự” bằng trường hợp “người mắc bệnh tâm thân hoặc các bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi””...---s-ss: 56 2.3.3. Kiến nghị quy định phải có người giám hộ đối người được giám hộ là

<small>người chưa thành niên dưới IééMMỜI [GM tuOl ... 5-5555 S++sseexeeeexss 56</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

phụng dưỡng bị mat năng lực hành vi AGN SU ...---- --s e+s+ce+eersxreee 57 Chương 3. GIÁM HỘ CỬ - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT, THỰC TIẾN THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LẠNG SƠN VÀ KIÊN NGHỊ HOÀN THIEN PHÁP LUẬTT...-- 2-52 5s x+£s+£+£zEerxerxee 58

3.1. Thực trạng pháp luật về giám hộ cử...--- ¿+ 2+s+k+£e+k+E+xerxzrered 58 3.1.1. Đặc điểm của ZIG NO 0x; 100 01ẺẼẺ85eAA... 59

3.1.2. Diéu kiện để pháp nhân làm người giám hộ cử...-- - 2-5 ©s+ss+sa 61

3.1.3. Quy định về cử người giảm NG coecececceccccescesescsseesesseseesessssessesessssssseeseseees 63

3.1.4. Quy định về thay đổi người giảm hỘ...- - + s5e+esc‡tereEerkererered 65

3.2. Thực tiễn thực hiện giám hộ cử tại tỉnh Lạng Sơn ...---5- 67 3.2.1. Thực tiên thực hiện cử người giảm hộ cho người chưa thành niên... 67 3.2.2. Thực tiên thực hiện cử người giảm hộ cho người mat năng lực hành vi

<small>;/7.0y7EEREERRERREREREERR....=.. 68</small>

3.3. Kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về giám hộ cử... 7]

KET LUẬN ...-- - - S6 St 1E E11 1111111811111 1111111111111 11111111 1x 1xerrk. 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Pháp luật dân sự quy định mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau. Song để thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự của mình thì tùy vào độ ti, khả năng nhận thức, làm chủ hành vi của bản thân mà cá nhân có

<small>năng lực hành vi dân sự khác nhau. Người thành niên có năng lực hành vi dân</small>

sự đầy đủ, trừ trường hợp ho là là người mat năng lực hành vi dân sự, người

có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và người hạn chế năng lực

<small>hành vi dân sự. Bên cạnh đó, người chưa thành niên có hồn cảnh đặc biệtnhư khơng xác định được cha, mẹ, khơng cịn cha, mẹ, hoặc có cha, mẹ nhưng</small>

cha, mẹ đều bị mat năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân

sự ...thì cần có cá nhân hoặc pháp nhân tham gia dé bảo vệ quyền và lợi ích

<small>hợp pháp của họ.</small>

Đề thực hiện việc chăm sóc va bảo vệ quyên và lợi ich hợp pháp của

những người được coi là “yếu thế” trong xã hộ. Chế định giám hộ được quy

định trong Bộ luật Dân sự là nền tảng pháp lý quan trọng để những người

“yếu thế” có thé tham gia các giao dich dân sự một cách bình đăng, cơng bang và xa hơn nữa sẽ giúp họ có niềm tin vào cuộc sống, vào chủ trương, đường

lối của đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Song bên cạnh đó, chế định giám hộ cịn bộc lộ những hạn chế nhất định trong việc áp dụng trong thực

tiễn, cũng như đáp ứng những nhu cầu thiết yêu của cuộc sống thực tiễn, đặc

biệt là trong việc giải quyết các hậu quả pháp lý của những giao dịch dân sự

có liên quan đến giám hộ.

Để góp phần làm sáng tỏ, cũng như góp phần hồn thiện những quy

định của chế định giám hộ, tác giả đã lựa chọn đề tài “Những vấn dé pháp lý

về giám hộ - Thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết vụ án dân sự tại Tòa adn nhân dân tỉnh Lạng Sơn” dé thực hiện luận văn thạc sỹ của mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

giám hộ. Tiếp đó các Bộ luật Dân sự năm 1995, năm 2005 và năm 2015 được

ban hành đã tạo cơ sở pháp lý để các nhà nghiên cứu khoa học có những cơng trình khoa học pháp lý về chế định giám hộ như: Chế độ giám hộ đối với

người chưa thành niên của tác giả Nguyễn Đức Mai, đăng trên Tạp chí Tịa án

nhân dân số 10 năm 1999: Giám hộ, đại diện trong Bộ luật Dân sự và Bộ luật

Tố tụng Dân sự của tác giả Nguyễn Việt Cường, đăng trên Tap chí Nghé Luật

số 5 tháng 5 năm 2005; Một vài vần đề về giám hộ của tác giả Tưởng Duy

Lượng, đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân số 20 năm 2006; Chế độ giám hộ

trong Bộ luật Dân sự - Một số tồn tại từ thực tiễn áp dụng của tác giả Nguyễn Văn Dũng, đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 12 tháng 6 năm 2009; Giám hộ - Một số van dé lý luận và thực tiễn của tác giả Trịnh Minh Hiền; Giám hộ

<small>theo Bộ luật Dân sự năm 2015 của tác giả Phạm Thị Trinh ...</small>

Những bắt cập, vướng mắc trong việc áp dụng những quy định của chế

định giám hộ vào thực tiễn đã được các tác giả trình bày khái quát và đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện chế định giám hộ. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, nhất là Bộ luật Dân sự năm 2015 được Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành kế từ ngày 01 tháng 01 năm 2017, đã đặt ra những van dé pháp lý mới cần nghiên cứu đề có thể áp dụng vào thực tiễn của đời sống.

3. Đối tượng, mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài

Nhằm góp phan làm sáng tỏ những van dé pháp lý về giám hộ, Luận văn sẽ tập trung nghiên cứu, so sánh, phân tích những quy định về chế định

<small>giám hộ của các Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ</small>

luật Dân sự năm 2015. Đặc biệt, qua thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết

<small>vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn, Luận văn sẽ đưa ra những</small>

kiến nghị nhăm hoàn thiện chế định giám hộ và nâng cao hiệu quả áp dụng

<small>vào thực tiên của đời sông.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<small>các phương pháp nghiên cứu của Luận văn.</small>

Phương pháp nghiên cứu chủ yếu của Luận văn là phương pháp hệ thống hóa, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu và liên hệ qua

thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài.

Luận văn hệ thống, phân tích tồn diện những quy định của chế định

giám hộ. So sánh, đối chiếu các quy định của chế định giám hộ với việc áp

dụng trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân tỉnh

<small>Lạng Sơn. Tác giả hy vọng Luận văn sẽ là cơng trình nghiên cứu khoa học</small>

vừa mang tính lý luận vừa mang tính thực tiễn. Từ đó, có thé là nguồn tài liệu

tham khảo cho học tập, nghiên cứu, cũng như hoàn thiện chế định giám hộ và

nâng cao hiệu quả áp dụng trong thực tiễn.

6. Kết cầu của Luận văn

Luận văn có kết kết ngăn ngọn, mạch lạc, bên cạnh phân mở đầu, kết luận, danh mục các tài liệu tham khảo; phần nội dung của Luận văn được chia

<small>thành 3 chương chính như sau:</small>

Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về giám hộ

Chương 2: Giám hộ đương nhiên — Thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Chương 3: Giám hộ cử - Thực trạng pháp luật, thực tiễn thực hiện tại tỉnh Lạng Sơn và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>1.1.1. Khải niệm giảm hộ</small>

Chế định giám hộ đã đã được quy định tại phần năng lực hành vi trong luật tư pháp Lama. Luật Lama quy định những người trong độ tuôi 07 đến 14

tuổi đối với nam giới, đến 12 tudi đối với nữ giới là những người chưa trưởng

<small>thành (Impuberes), chỉ được tham gia những giao dịch làm tăng giá tri tài sản</small>

của bản thân, cịn những giao dịch khơng làm tăng giá trị tài sản của họ đều

vô hiệu. Những giao dịch liên quan đến định đoạt tài sản của Impuberes hay

thực hiện nghĩa vụ băng tài sản của Impuberes phải được người giám hộ (Tutor) cho phép. Nam trên 14 tuổi và nữ trên 12 tuổi khơng có dau hiệu của

các bệnh tâm thần thì được coi là người có năng lực hành vi tồn phần được tham gia các giao dịch. Người từ đủ 14 tuổi đối với nam, từ đủ 12 tuổi đối với

nữ đến 25 tuổi là người có đầy đủ năng lực hành vi. Ngoại trừ những người

mắc bệnh tâm than (furiosi) là người không có năng lực hành vi, vì họ khơng

thể nhận thức và làm chủ hành vi trong các quan hệ xã hội và pháp luật. Những người được xác định furiosi đều phải đặt dưới sự giám hộ bắt buộc của

<small>người đã trưởng thành khác (curatela).</small>

Ngồi những người nói trên, người mắc bệnh tâm thần, người mất năng lực hành vi, người bị hạn chế về thê chất, người khơng có ý thức về tài sản đã

có hành vi phá tán tài sản của gia đình đều phải đặt dưới sự giám hộ.

Người giám hộ phải là người đã trưởng hành và có đầy đủ năng lực hành vi, đương nhiên người giám hộ phải có quốc tịch Lamã. Người giám hộ

<small>thường là người thân thích của người được giám hộ. Người giám hộ chỉ phải</small>

thực hiện nghĩa vụ trong phạm vi quyền mà pháp luật đã quy định.

Theo nguyên tắc chung, pháp luật Lamã quy định những người phải đặt

dưới sự giám hộ của người khác thì năng lực chủ thê của người được giám hộ

bị hạn chế, không được tồn quyền tham gia các giao dịch theo ý chí của

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>của người Lama.</small>

Ở nước ta, tinh thần tương thân, tương ái là một truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc. Tinh thần đó khơng những được thể hiện qua các tác pham văn học mà cịn được thé chế hóa thành những quy phạm có tính bắt buộc thực hiện trong xã hội. Vấn đề chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khơng có khả năng tự chăm sóc và bảo vệ bản thân lần đầu tiên đã được Nhà nước quy định trong “chế độ đỡ đầu” tại chương VIII của Luật hơn nhân và gia đình năm 1986 (từ Điều 46 đến Điều 51). Để bảo đảm việc chăm sóc, giáo dục, cũng như bảo vệ quyền lợi của người chưa thành niên có hồn cảnh đặc biệt. Việc đỡ đầu được thực hiện trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của người chưa thành

niên mà cha mẹ đã chết, hoặc cha mẹ cịn sống nhưng khơng có điều kiện dé làm nhiệm vụ đó (Điều 46 Luật hơn nhân va gia đình năm 1986). Tuy nhiên,

“chế độ đỡ đầu” mới chỉ dừng lại ở các đối tượng là người chưa thành niên;

việc chăm sóc và bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp cho người đã thành niên

nhưng bị mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và

<small>có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi chưa được pháp luật quy định.</small>

Tiếp đó, chế định giám hộ được quy định tại các Bộ luật Dân sự, cụ thể là các

<small>Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sư năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm</small>

2015. Các Bộ luật Dân sự đã quy định về giám hộ như sau:

Khoản 1 Điều 67 Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định: Giám hộ là việc cá nhân, tổ chức hoặc cơ quan nhà nước (gọi là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử dé thực hiện việc chăm sóc và bảo vệ quyền và lợi

ích hợp pháp của người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc mắc

các bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi của mình (gọi <small>là người được giám hộ).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Cùng với đó là những chủ thể là người được giám hộ gồm người chưa thành niên, người bị bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thể nhận thức hoặc làm chủ hành vi. Quy định này tương thích với ba cơ chế giám hộ là

<small>giám hộ đương nhiên, giảm hộ cử và giám hộ của cơ quan nhà nước.</small>

Sau mười năm thực hiện, Bộ luật Dân sự năm 1995 được thay thế bởi

<small>Bộ luật Dân sự năm 2005.</small>

Khoản 1 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:

Giám hộ là việc cá nhân, tô chức (sau đây gọi chung là người giám hộ) được pháp luật quy định hoặc được cử dé thực hiện việc chăm sóc va bảo vệ

quyên, lợi ich hợp pháp của người chưa thành niên, người mat năng lực hành <small>vi dân sự (sau đây gọi chung là người được giám hộ). Như vậy, khái niệm</small>

“Giám hộ” được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2005 có thay đơi so với

<small>khái niệm “Giám hộ” được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 1995. Đó là, Bộ</small>

luật Dân sự năm 2005 đã bỏ cơ chế giám hộ của cơ quan nhà nước.

Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định về giám hộ đã chi tiết, bao

quát hơn và chỉ ra thêm những người được giám hộ gồm người có khó khăn

<small>trong nhận thức, làm chủ hành vi và đặc biệt là người có năng lực hành vi dân</small>

Sự đây đủ cũng là người được giám hộ nếu ho lựa chon người giám hộ dé

giám hộ khi họ ở tình trang cần được giám hộ. Cụ thể là:

Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: Giám hộ là việc

cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử,

được Tòa án chỉ định hoặc được quy định tại khoản 2 Điều 48 của Bộ luật này

(sau đây gọi chung là người giám hộ) để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành

<small>vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi (sau đây gọichung là người được giảm hộ).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

thành viên trong gia đình. Điều 79 Luật hơn nhân và gia đình năm 2000 quy

định “Khi trong gia đình có người can được giảm hộ thì việc giảm hộ được

giám hộ nhằm đảm bảo cho những người thuộc đối tượng được giám hộ được

chăm sóc, giáo dục và được bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp.

Từ những phân tích và quy định của Bộ luật Dân sự có thể hiểu: Giám

<small>hộ là quan hệ pháp luật được xác lập giữa người được giám hộ và người giảm</small>

hộ theo quy định của pháp luật, do Ủy ban nhân dân cấp xã cử, do Tòa án chỉ định hoặc theo lựa chọn của người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ để thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

1.1.2. Đặc điểm của giảm hộ

Thứ nhất, trong quan hệ giám hộ thì người được giám hộ ln ln là

cá nhân và ở trong tình trạng yếu thế.

Người được giám hộ bao gồm:

<small>Người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc khơng xác định được</small>

cha, mẹ. Người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mat năng lực

hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bi hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên

bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ. Người mat năng lực hành vi dân sự.

<small>Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Người có năng lực hành</small>

vi dân sự đầy đủ đã lựa chọn người giám hộ cho mình và người giám hộ đồng

ý khi họ ở tình trạng cần được giám hộ.

Người được giám hộ là những người khơng thé tự mình hoặc ở tình

trạng khơng thể tự mình xác lập, thực hiện các qun, nghĩa vụ của mình nên

cần phải có cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hoặc pháp phân thực

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

hoặc pháp nhân. Người giám hộ có thê được xác định theo quan hệ hơn nhân, quan hệ huyết thống, theo chỉ định của Tòa án, do Ủy ban nhân dân cấp xã cử hoặc do người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ lựa chọn, trường hợp này phải có sự đồng ý của người được lựa chọn làm người giám hộ.

Thứ hai, trong quan hệ giám hộ thì người được giảm hộ chỉ có thể được

<small>một người giám hộ, trừ trường hợp cha, mẹ cùng giảm hộ cho con hoặc ông,ba cùng giám hộ cho chau.</small>

<small>Trong quan hệ giám hộ, người giám hộ là người thay người được giámhộ hay nói cách khác người giám hộ là người đại diện cho người được giám</small>

hộ dé xác lập, thực hiện, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp cho người được giám

hộ. Do đó, dé thuận lợi cho việc thực hiện quyên, nghĩa vụ của người giám hộ thì chỉ cần một người giám hộ. Điều này, loại bỏ trường hợp nếu có nhiều người giám hộ có thê dẫn đến khơng thê thống nhất về việc thực hiện quyền,

nghĩa vụ của người giám hộ. Hoặc có thé dẫn đến quyên, nghĩa vụ của những người giám hộ đối nghịch nhau. Ngoại trừ, trường hợp cha, mẹ cùng giám hộ

<small>cho con hoặc ông, bà cùng giám hộ cho cháu. Vì trong trường hợp này, người</small>

giám hộ được xác định theo huyết thống nên cha, mẹ, ơng, ba sẽ thường có

tình thương u đối với con và cháu. Hơn nữa, mỗi quan hệ thân thích được coi là mối quan hệ vững chắc, đáng tin cậy. Mặc dù trên thực tiễn những tranh chấp về dân sự có liên quan đến mâu thuẫn nội bộ gia đình cũng khơng phải

là ít. Nhưng dẫu sao “một giọt máu đào vẫn hơn ao nước lã”.

<small>Thứ ba, quan hệ giảm hộ làm phát sinh quan hệ đại diện của ngườigiám hộ với người thứ ba.</small>

Dé xác lập, thực hiện các quyên, nghĩa vụ cho người được giám hộ thì

<small>người giám hộ đại diện cho người được giám hộ tham gia xác lập các giaodịch dân sự và thực hiện các quyên, nghĩa vụ phát sinh từ các giao dịch dân sự</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<small>Thứ tư, trong quan hệ giám hộ thì người giám hộ khơng có nghĩa vụ</small>

dùng tài sản của mình dé thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ qun, lợi ích hợp

<small>pháp của người được giảm hộ.</small>

<small>Nghĩa vụ chính của người giám hộ là chăm sóc, quản lý tài sản, đại</small>

diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự và bảo vệ quyên, lợi

<small>ích hợp pháp của người được giám hộ. Tuy nhiên, pháp luật khơng quy định</small>

người giám hộ có nghĩa vụ dùng tai sản của mình dé thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ qun, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ. Quy định này là phù

<small>hợp trong trường hợp người giám hộ không phải là người thân thích với người</small>

<small>được giám hộ. Nhưng khơng phù hợp trong trường hợp người giám hộ là</small>

<small>người thân thích với người được giám hộ như trường hợp cha, mẹ là người</small>

giám hộ cho con đã thành niên bi mat năng lực hành vi dân sự mà khơng có

vợ, con hoặc có vợ, con nhưng vợ, con đều khơng có đủ điều kiện làm người

<small>giám hộ. Bởi lẽ, theo quy định của Luật hơn nhân và gia đình thì cha, mẹ có</small>

nghĩa vụ ni dưỡng con, nếu con đã thành niên bị mat năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản dé tự ni song ban than.

1.1.3. Ý nghĩa của giám hộ

Giám hộ là chế định nhằm giúp cho người được giám hộ thực hiện tốt

các quyền dân sự, cũng như bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người được

giám hộ một cách tốt nhất có thé. Chế định giám hộ đã góp phan bao đảm tính bình đẳng giữa các cơng dân trong xã hội về việc được hưởng các quyền năng

do luật định và thực thi hóa các quyền đó trên thực tế. Cao hơn nữa, chế định

giám hộ đã góp phan phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc, tinh thần tương thân, tương ái, xây dựng và củng có tinh cảm giữa các thành viên

trong gia đình, tình người trong xã hội. Và cũng thể hiện sự quan tâm, trách

<small>nhiệm của Nhà nước đôi với những người yêu thê trong xã hội.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<small>1.2. Phân loại giảm hộ</small>

Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định ba cơ chế giám hộ cho những người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ và những người mắc bệnh tâm thần là:

Giám hộ đương nhiên của những người gần gũi thân thích của người được

giám hộ dựa trên nguyên tắc xác lập tự động và không phụ thuộc vào ý muốn của người giám hộ; giám hộ của những cá nhân và tổ chức từ thiện trong xã <small>hội; giám hộ của Nhà nước thông qua cơ quan Lao động — Thương binh — Xã</small>

<small>Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm 2015 chỉ còn quy</small>

định hai cơ chế giám hộ là giám hộ đương nhiên và giám hộ cử.

<small>1.2.1. Giảm hộ đương nhiên</small>

Giám hộ đương nhiên là cơ chế giám hộ được xác lập trên cơ sở hôn

nhân và huyết thống. Việc giám hộ do những người gần gũi, thân thích của người được giám hộ thực hiện mà không phụ thuộc vào bất cứ thủ tục hành

<small>chính nào. Tức là mặc dù pháp luật quy định phải đăng ký giám hộ mà người</small>

giám hộ không đăng ký việc giám hộ nhưng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của người giám hộ. Trong chế định giám hộ đương nhiên, người giám hộ chỉ có thé là cá nhân, người được giám hộ là người có quan hệ thân thích với người

<small>giám hộ. Nói cách khác, giữa người giám hộ và người được giám hộ có quan</small>

hệ hơn nhân, ni dưỡng, có cùng dịng máu về trực hệ và có cùng họ trong

<small>phạm vi ba đời.</small>

<small>* Giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên:</small>

Người chưa thành niên là người chưa đủ mười tám tuổi (Điều 20 Bộ luật Dân sự năm 1995; Điều 18 Bộ luật Dân sự năm 2005; khoản 1 Điều 21 Bộ luật Dân sự năm 2015). Theo quy định của Bộ luật Dân sự (điểm a khoản 2 Điều 67 Bộ luật Dân sự năm 1995; điểm a khoản 2 Điều 46 Bộ luật Dân sự năm 2005; điểm a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015) thì người

<small>chưa thành niên là người được giám hộ khi thuộc một trong các trường hợp</small>

<small>sau đây:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Thứ nhất, người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc khơng xác

<small>định được cha mẹ. Người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ là trường hợp</small>

cha, mẹ đều đã chết (chết về mặt sinh học hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết, tuyên bố bị mat tích theo thủ tục giải quyết việc dân sự). Người chưa thành

<small>niên không xác định được cha mẹ là trường hợp người chưa thành niên khisinh ra bị cha, mẹ bỏ rơi hoặc vì một lý nào đó mà người chưa thành niên</small>

khơng thể xác định được cha, mẹ của mình.

Thứ hai, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mat

năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

<small>So với trường hợp người chưa thành niên khơng có cha, mẹ hoặc khôngxác định được cha, mẹ; trường hợp này, người chưa thành niên có cha, mẹ</small>

nhưng cha, mẹ đều là người mất năng lực hành vi dân sự, đều có khó khăn

trong nhận thức, làm chủ hành vi hoặc đều bị hạn chế năng lực hành vi dân

sự. Việc xác định cha, mẹ là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó

khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi, bi hạn chế năng lực hành vi dân sự

được xác định trên cơ sở quyết định của Tòa án về việc tuyên bố một người là người mất năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm

chủ hành vi, người bị han chế năng lực hành vi dân sự khi có các căn cứ theo

quy định của các Điều 22, Điều 23 và Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thứ ba, người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều bị Tòa án

tuyên bố hạn chế quyền đối với con. Tòa án tuyên bố hạn chế quyền của cha,

mẹ đối với con khi cha mẹ có một trong những hành vi đối với con được quy định tại Điều 85 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014, cụ thể là:

Cha, mẹ bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con với lỗi cố ÿ.

Cha, mẹ là người đầu tiên có trách nhiệm bảo vệ tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con. Tuy nhiên, nếu cha, mẹ nhận thức rõ hành vi

<small>của mình là nguy hiém cho con, thay trước hau quả của hành vi đó và mong</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

muốn hậu quả xảy ra hoặc tuy khơng mong muốn nhưng vẫn có ý thức để

mặc cho hậu quả xảy ra. Nếu hành vi của cha, mẹ có đủ các yếu tố cầu thành

các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người

theo quy định của chương XIV Bộ luật hình sự năm 2015 như tội cơ ý gây thương tích hoặc gây tổn hai cho sức khỏe của người khác (Điều 134), tội hành hạ người khác (Điều 140), tội làm nhục người khác (Điều 155)..., thì cùng với việc bị Tòa kết án, cha, mẹ còn bị tuyên bố hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con.

<small>Cha, mẹ có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trơng nom, cham</small>

<small>sóc, ni dưỡng, giáo dục con.</small>

Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo

dục con. Đây không những là truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc mà

cịn là tình mẫu tử thiêng liêng, cao q khơng có gì có thể sánh được. Tùy

theo điều kiện, hồn cảnh cha, mẹ có thể sẽ tạo cho con những điều kiện vật chat, tinh thần tốt nhất dé con phát triển cả thé chất, tinh than và trí tuệ. Hiện nay, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào quy định như thế nào là hành vi

<small>vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục</small>

con. Tuy nhiên qua hoạt động xét xử của Tòa án cũng như những chuẩn mực

<small>đạo đức của xã hội thì coi những hành vi sau là hành vi vi phạm nghiêm trọng</small>

nghĩa vụ của cha, mẹ đối với con. Đó là:

<small>Cha, mẹ không quan tâm, quản lý, bảo vệ con như cha, mẹ bỏ rơi conchưa thành niên, buộc con chưa thành niên làm việc nặng không phù hợp với</small>

lứa tuổi như bốc vác thuê, di phu vàng, phụ hồ; bắt con làm việc liên tục

không ngừng nghỉ như bắt đi bán vé số, đi đánh giày; bỏ đói con, vứt thức ăn

xuống đất bắt con ăn, bạo hành con, đưa con nhỏ đi nhiều nơi trong điều kiện

thời tiết khắc nghiệt, đặt con ở các vị trí nguy hiểm, hút thuốc và nhả khói liên

tục vao người con, bắt con uống rượu mạnh ...

<small>Cha, mẹ vi phạm nghĩa vụ giáo dục con là trường hợp cha, mẹ bỏ mặc</small>

con muốn học hay không là tùy con hoặc bắt buộc học tập quá sức như bắt

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>con phải học thêm, phải đạt thành tích cao ngồi khả năng học tập của con,</small>

không cho con đến trường học, không cho tham gia các hoạt động tập thé ...

<small>Cha, me có hành vi pha tan tài sản của con.</small>

Bộ luật Dân sự quy định người sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì có quyền thừa kế tài sản. Như vậy, ngay cả những người vừa sinh ra đã có quyền sở

hữu tài sản nhưng Bộ luật Dân sự cũng quy định tài sản của con dưới 15 tuổi

do cha, mẹ quản lý. Do đó, cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ quản lý tài sản của con dưới 15 tuổi. Cha, mẹ có những hành vi chuyển dich tai sản khơng vi lợi

<small>ích của con hoặc dùng tai sản vào mục đích vi phạm pháp luật như cờ bạc, cá</small>

độ dẫn đến không thé thu hồi được tài sản của con được xem là các hành vi

phá tán tài sản của con; đưa ra những thông tin thất thiệt dé con không thé

dùng tài sản riêng của mình dé tham gia xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự như loan tin tài sản đó là tài sản chung của gia đình đang có tranh chấp ...

Thực tiễn qua cơng tác giải quyết các vụ án dân sự tại Tòa án cho thấy,

người mẹ thường có hành vi chuyển dịch tài sản của người con chưa thành niên do được thừa kế của người cha đã mất hoặc ông bà, nội tặng cho hoặc

cho thừa kế.

Cha, mẹ có lối sống đơi truy.

“Đồi trụy” được hiểu là suy đôi, trụy lac, là những gi ngồi khn khổ được xã hội chấp nhận. Theo quy định của khoản 4 Điều 2 Nghị định sé

178/2004/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh Phịng

chống, mại dâm thì “đồi trụy” được hiểu là sự thé hiện bằng hành động, băng hình ảnh, bằng âm thanh lối sống ăn chơi, tiêu khiển thấp hèn, xấu xa, hư

hỏng đến mức tôi tệ về đạo đức, trái với thuần phong mỹ tục của dân tộc.

Cha, mẹ phải là những tâm gương sáng về lối sống, phong cách sống lành mạnh, văn minh phù hợp với thuần phong, mỹ tục của dân tộc dé tao cho con

cái có mơi trường phát triển lành mạnh về đạo đức cũng như thể chất và trí <small>tuệ. Nêu cha, mẹ có lơi sơng đơi trụy sẽ tạo những ảnh hưởng xâu, tác động</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

tiêu cực đến sự phát triển tồn diện của con cái. Do vậy, Tịa án cần hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con.

<small>Cha, mẹ xui giục, ép buộc con làm những việc trai pháp luật, trai dao</small>

<small>đực xã hội.</small>

Nếu cha, mẹ có những hành vi, lời nói, thái độ, hứa thưởng những điều kiện về vật chat, tinh thần nhằm kích động, dụ dỗ con chưa thành niên làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội. Những điều này thường được biểu hiện bằng việc cha, mẹ ép buộc con thực hiện hành vi trộm cắp tài sản,

vận chuyên hàng lậu, ép buộc con thực hiện những hành vi ngược đãi đối với

<small>ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại ...</small>

Thứ tư, cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có

yêu câu người giám hộ. Đây là trường hợp người chưa thành niên được giám

hộ khi có đủ hai điều kiện. Đó là, cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc,

giáo đục con và có yêu cầu người giám hộ. Song pháp luật dân sự chưa quy định như thế nào là trường hợp “cha, mẹ khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con”. Tuy nhiên về mặt thực tiễn có thể coi các trường hợp sau là trường

hợp cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục con như cha, mẹ đều phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam giữ; cha, mẹ đều bị khánh kiệt về tài

sản; cha, mẹ đều bị tai nạn lao động phải nằm liệt giường; cha, mẹ đều đi

nước ngồi mà khơng có điều kiện đưa con theo cùng. Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì chỉ trong trường hợp cả cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm

sóc, giáo duc con và có u cầu người giám hộ thì việc giám hộ đối với con

<small>chưa thành niên mới được đặt ra. Trường hợp, chỉ có cha hoặc chỉ có mẹ</small>

khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con người cịn lại vẫn có điều kiện

<small>chăm sóc, giáo dục con thì việc giám hộ khơng được đặt ra.</small>

Theo quy định của khoản 3 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì việc

giám hộ chỉ bắt buộc đặt ra nếu người chưa thành niên chưa đủ 15 tuổi. Do

đó, có thể hiểu việc giám hộ không bắt buộc phải đặt ra đối với người chưa

thành niên ở độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Mặc dù người chưa

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

thành niên ở độ tuổi từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi thuộc trường hop khơng cịn cha, mẹ; cha, mẹ đều mắt năng lực hành vi dân sự; cha, me đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu giám hộ. Quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2005 đã phần nào hạn chế quyền được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục của người chưa thành niên. Đề người chưa thành niên có thể được chăm sóc, bảo vệ, giáo dục tốt hơn, Bộ luật Dân sự

năm 2015 đã bỏ quy định giới hạn độ tuổi của người chưa thành niên thuộc

trường hợp phải có người giám hộ. Theo quy định của khoản 1 Điều 47 Bộ

luật Dân sự năm 2015 thì tất cả những người chưa thành niên khi thuộc

trường hợp phải có người giám hộ thì đều được giám hộ kể cả người chưa thành niên có độ ti từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Quy định này của Bộ

luật Dân sự năm 2015 là hợp lý, đáp ứng được nhu câu thực tiễn của cuộc

sơng. Vì cho dù người chưa thành niên có độ ti từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi đã có sự phát triển nhất định về thé chất, tinh thần và có thé tự mình

tham gia một SỐ giao dịch dịch dân sự. Tuy nhiên họ vẫn cần phải có người đại diện để tham gia các giao dịch dân sự có giá tri lớn, đặc biệt là các giao

dịch dân sự có phát sinh tranh chấp.

<small>* 17m tự xác định người giảm hộ của người chưa thành niên</small>

Theo quy định của Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì người giám hộ

<small>đương nhiên của người chưa thành niên khơng cịn cha, mẹ hoặc không xác</small>

định được cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mat năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa

án tuyên bố hạn chế quyền quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ, được xác định theo thứ

<small>tự sau đây:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

1. Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị ca là người giảm hộ, nếu anh cả hoặc chị cả khơng có đủ diéu kiện làm người giảm hộ thì anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc <small>chị ruột khác làm người giám hộ;</small>

2. Trường hợp khơng có người giám hộ quy định tại khoản 1 Điễu này

<small>thì ơng nội, bà nội, ơng ngoại, bà ngoại là người giảm hộ hoặc những người</small>

này thỏa thuận cu một hoặc một số nguoi trong số ho làm người giảm hộ;

<small>3. Trường hợp khơng có người giảm hộ quy định tại khoản I và khoản</small>

2 Điều nay thì bác ruội, chu ruột, cậu ruội, cơ ruột hoặc di ruột là người

<small>giảm hộ.</small>

<small>So với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định của Bộ luật</small> Dân sự năm 2015 về thứ tự xác định người làm giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên về cơ bản là tương đồng nhau. Thứ tự ưu tiên vẫn theo thứ tự anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả; anh ruột hoặc chị ruột tiếp

<small>theo; ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cơ</small>

<small>ruột, dì ruột. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự nam 2015 đã mở rộng phạm vi những</small>

trường hợp được thỏa thuận cử người giám hộ, cụ thể:

Thứ nhất, khoản 1 Điều 62 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định

<small>“Truong hợp anh ruột, chị ruột khơng có thỏa thuận khác thì anh cả hoặc chị</small>

cả là người giám hộ của em chưa thành niên; nếu anh cả hoặc chị cả khơng

có du diéu kiện làm người giảm hộ thì anh, chị tiếp theo là người giám hộ ”.

<small>Theo quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì các anh, chị ruột có</small>

quyên thỏa thuận một trong số những anh, chị ruột là người giám hộ đương nhiên của người chưa thành niên, trong đó, anh cả hoặc chị cả cũng có quyền

thỏa thuận. Ngược lại, khoản 1 Điều 52 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định “Anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả là người giám hộ; nếu anh cả hoặc chị cả khơng có đủ diéu kiện làm người giám hộ thi anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ, trừ trường hợp có thỏa thuận anh ruột hoặc <small>chị ruột khác làm người giảm hộ”. Theo quy định này của Bộ luật Dân sự</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<small>năm 2015 thì anh cả hoặc chị cả là người giám hộ đương nhiên của người</small>

chưa thành niên, nếu anh cả hoặc chị cả có đủ điều kiện làm người giám hộ. Nghĩa là anh cả hoặc chị cả khơng có qun thỏa thuận với những anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo của người em chưa thành niên về người giám hộ đương nhiên cho người em chưa thành niên. Hay nói cách khác, nếu anh cả hoặc chị cả có đủ điều kiện làm người giám hộ thì họ đương nhiên là người

giám hộ đối với người em chưa thành niên. Những anh ruột, chị ruột tiếp theo

của người chưa thành niên chỉ có quyền thỏa thuận ai là người giám hộ cho

<small>người chưa thành niên khi anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả khơng có</small>

đủ điều kiện làm người giám hộ. Quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015

đã khắc phục được những bất cập trong thực tiễn áp dụng của Bộ luật Dân sự năm 2005. Trong thực tiễn cho thấy, không phải lúc nào anh ruột là anh cả hoặc chị ruột là chị cả cũng sẵn lòng làm người giám hộ cho người em chưa

thành niên. Mặc dù họ có đủ điều kiện làm người giám hộ nhưng vì những lý

do khác nhau họ thường thỏa thuận cho anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo là người giám hộ. Chang hạn như họ lay cớ họ đã có gia đình riêng, khơng còn ở

<small>chung với người em chưa thành niên việc giám hộ sẽ gây khó khăn cho họ</small>

nên họ thường thỏa thuận với anh ruột hoặc chị ruột tiếp theo sẽ làm người

<small>giám hộ.</small>

Thứ hai, theo quy định của khoản 2 Điều 61 Bộ luật Dân sự năm 2005

thì ơng nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại là người giám hộ đương nhiên nếu

<small>người chưa thành niên khơng có anh ruột, chị ruột hoặc anh ruột, chị ruột</small>

không đủ điều kiện làm người giám hộ. Nghĩa là, nếu người chưa thành niên

<small>khơng có anh ruột, chi ruột hoặc có anh ruột, chi ruột nhưng anh ruột, chị ruột</small>

khơng có đủ điều kiện dé làm người giám hộ thì ơng nội, bà nội, ông ngoại,

<small>bà ngoại là người giám hộ đương nhiên với cháu là người chưa thành niên.</small>

Tức là, họ không có quyền thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ

làm người giảm hộ. Còn theo quy định của khoản 2 Điều 52 Bộ luật Dân sự

năm 2015 thì họ có quyền thỏa thuận cử một hoặc một số người trong số họ

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

làm người giám hộ. Quy định của Bộ luật Dan sự năm 2015 phù hợp với điều

kiện thực tiễn cũng như hoàn cảnh thực tế của người giám hộ. Những người giám hộ trong trường hợp này thường là những người tuôi đã cao. Do đó, dé có thể đảm bảo quyên lợi tốt nhất cho người chưa thành niên thì những người thuộc diện người có thé làm người giảm hộ được quyền thỏa thuận cử một hoặc một số (từ hai người trở lên) trong số họ để làm người giám hộ cho <small>người chưa thành niên.</small>

* Giám hộ đương nhiên của người mắt năng lực hành vi dân sự: Theo quy định của Điều 22 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì:

1. Khi một người do bị bệnh tam thân hoặc mắc bệnh khác mà không

thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì theo yêu câu của người có qun, lợi

ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố người này là người mat năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thân.

Khi khơng cịn căn cứ tun bơ một người mat năng lực hành vi dân sự

thì theo yêu cẩu của chính người đó hoặc của người có qun, lợi ích liên

quan hoặc của cơ quan, tô chức hữu quan, Tòa án ra quyết định húy bỏ quyết định tuyên bé mat nang lực hành vi dan sự.

2. Giao dich dan sự cua người mat năng lực hành vi dan sự phải do

<small>người đại diện theo pháp luật xác láp, thực hiện.</small>

Dé xác định một người có bị mat năng lực hành vi dân sự hay không thi cần phải xem xét các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, khi một người do bị bệnh tâm thần hoặc mac bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi.

Thứ hai, phải có yêu cầu tuyên bố người do bị bệnh tâm thần hoặc mắc

bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi là người mat nang luc

hành vi dân sự của người có qun, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tô chức

<small>hữu quan.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Thứ ba, phải trên cơ sở kết luận giám định pháp y tâm thần thì Tịa án ra quyết định tuyên bố một người là người mất năng lực hành vi dân sự.

Một người được coi là người mất năng lực hành vi dan sự khi Toa án

tuyên bố người đó là người mat năng lực hành vi dân sự.

Thủ tục tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự, được Tòa án

xem xét, giải quyết theo trình tự “việc dân sự” (cu thé là theo quy định của

chương XXIV Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015).

<small>Bộ luật Dân sự năm 1995 quy định người được giám hộ là người bị</small>

bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ

<small>được hành vi của mình. Ngược lại Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật Dan</small>

sự năm 2015 quy định người được giám hộ là người mat năng lực hành vi dân

<small>sự. Quy định như vậy sẽ mang tính bao quát rộng hơn, toàn diện hơn, bảo vệ</small>

tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của những người cần được giám hộ. Bỡi lẽ, người mat năng lực hành vi dân sự sẽ có thé khơng chỉ bao gồm người mắc

bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ

<small>được hành vi.</small>

<small>Tuy nhiên, quy định này của Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng gây ra</small>

không ít những khó khăn cho việc áp dụng và đảm bảo quyền được chăm sóc,

bảo vệ qun, lợi ích hợp pháp của những người được coi là yếu thé trong xã

hội. Bởi lẽ, trên thực tiễn còn nhiều quan điểm khác nhau về vẫn đề này.

Thứ nhất, căn cứ dé xác định một người bị bệnh tâm than hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi. Về vấn đề này có hai quan điểm khác nhau.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, chỉ cần một nguoi có biểu hiện của bệnh

tâm thần hoặc bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi như khóc cười vơ dun, nói cười một mình, tram cảm ... thì người có qun, lợi

ích liên quan hoặc cơ quan, t6 chức hữu quan (sau đây gọi chung là người yêu

cầu) ngay lập tức có quyền yêu cầu Tịa án tun bố người đó là người mat

<small>năng lực hành vi dân sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Quan điểm thứ hai cho rằng, khi một người có biểu hiện của bệnh tâm

thần hoặc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi như khóc cười vơ dun, nói cười một mình, tram cam ... thi phải có kết luận của cơ sở y tế có thầm quyền kết luận người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì người u cầu mới có quyền u cầu Tịa án tun bố người đó là người mat năng lực hành vi dân

Thứ hai, Tòa án hay người yêu cầu có nghĩa vụ yêu cầu cơ sở y tế có

thâm quyền ra kết luận giám định pháp y tâm thân đối với người bị yêu cầu

tuyên bố mat năng lực hành vi dân sự? ai là người phải chịu chi phí giám định

pháp y tâm thân.

Thứ ba, có phải bat kỳ ai cũng có thé bị Tịa án tuyên bố mat năng lực hành vi dân sự hay chỉ có thê là người thành niên?

Thư tư, khi người đã thành niên có biểu hiện bị bệnh tâm thần hoặc

mac bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi thì người đại

theo pháp luật (có thể là cha, mẹ, vợ hoặc chồng) có quyền đại diện để khởi

kiện vụ án dân sự dé bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người mắc bệnh ma khơng thé nhận thức, làm chủ được hành vi hay phải u cầu Tịa án tun bố

người đó mất năng lực hành vi dân sự để xác định người giám hộ cho người đó, sau đó người giám hộ mới có quyền khởi kiện vụ án dân sự?

Thứ năm, nếu kết luận giám định pháp y tâm thần kết luận người đó khơng đủ khả năng nhận thức làm chủ hành vi nhưng chưa đến mức mắt năng lực hành vi dân sự thì Tịa án có qun tun bố người đó là người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi hay khơng? hay Tịa án tun bố

khơng chấp nhận yêu cầu tuyên bố người đó là người mất năng lực hành vi dân sự. Vì theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự thì Tịa án chỉ thụ lý,

xem xét khi có đơn yêu cau và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cau.

<small>Ngoài ra, theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015 thì Tịa án là cơ</small>

quan duy nhất có thẩm quyền tuyên bố một người là người mat năng lực hành

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

vi dân sự. Day là thủ tục hành chính bắt buộc dé một người bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác ma không thé nhận thức, làm chủ hành vi được người khác giám hộ dé chăm sóc, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ. Đây có thé là những trở ngại để những người thân thích, có qun, lợi ích quan yêu cầu Tòa án tuyên bố một người mắt năng lực hành vi dân sự.

Hiện nay, trong đời sông xã hội có khơng ít những người mắc bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mà không thê nhận thức, làm chủ hành vi nhưng vẫn khơng có người giám hộ. Do những người này khơng có quyết định của Tòa án tuyên bố họ là người mat năng lực hành vi dân sự. Do đó, có nên quy định

như Bộ luật Dân sự năm 1995 là khi một người bị mac bệnh tâm thần hoặc

các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi thì họ cần có

người giám hộ. Quy định như vậy sẽ bảo đảm cho người cần được giám hộ

được chăm sóc, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp tốt hơn và cũng thể hiện được

truyền thong đạo đức tốt đẹp của dân tộc ta.

Theo quy định của Điều 53 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì thứ tự xác

định người giám hộ đương nhiên đối với người mat năng lực hành vi dân sự

<small>được xác định như sau:</small>

1. Trường hợp vợ là người mat năng lực hành vi dân sự thì chong là

người giám hộ; nếu chong là người mat năng lực hành vi dân sự thì vợ là

<small>người giảm hộ;</small>

Quan hệ vợ chồng được xác lập khi nam và nữ tiễn hành kết hôn theo

quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình. Trong quan hệ vợ chồng, vợ và

chồng có quyên và nghĩa vụ ngang nhau, theo nguyên tắc “có đi, có lại”. Nếu một trong hai bên lâm vào tình trạng mắt năng lực hành vi dân sự, thì bên cịn

lại là người đầu tiên có qun và nghĩa vụ chăm sóc, bảo vệ qun, lợi ích

hợp pháp cho bên kia. Do đó, nếu vợ là người mat năng lực hành vi dân sự thì chồng là người giám hộ, ngược lại nêu chồng là người mat năng lực hành vi

<small>dân sự thì vợ là người giám hộ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

2. Trường hợp cha và mẹ déu mắt năng lực hành vi dân sự hoặc một người mat năng lực hành vi dân sự, còn người kia khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con cả là người giám hộ; nếu người con cả khơng có du diéu kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ diéu kiện làm

<small>người giảm hộ là người giảm hộ;</small>

Cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ đối với con cái, ngược lại con cái cũng có quyên, nghĩa vụ đối với cha me. Đây là mối quan hệ thiêng liêng, cao cả. Do

đó, nếu cha, mẹ đều mat năng lực hành vi dân sự hoặc một người mất năng

lực hành vi dân sự, còn người kia khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ

thì con đã thành niên có đủ điều kiện làm người giám hộ là người giám hộ

<small>đương nhiên cho cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ. Việc giám hộ được xác định</small>

theo thứ tự con cả là người giám hộ. Nếu người con cả khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ thì người con tiếp theo có đủ điều kiện làm người giám hộ

<small>là người giám hộ.</small>

3. Trường hợp người thành niên mat năng lực hành vi dân sự chưa có

VỢ, chong, con hoặc có ma vo, chong, con déu khơng có du diéu kiện làm

<small>người giám hộ thì cha, mẹ là người giảm hộ.</small>

Cha, mẹ có qun, nghĩa vụ trơng nom, ni dưỡng, chăm sóc, bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của con đã thành niên mat năng lực hành vi dân sự. Ngay cả trong trường hợp con đã thành niên đã có vợ hoặc chồng, đã có con

nhưng vợ hoặc chồng hoặc con đều khơng có đủ điều kiện làm người giám hộ

thì cha, mẹ là người giám hộ đương nhiên cho con đã thành niên mất năng lực

<small>hành vi dân sự.</small>

<small>1.2.2. Giảm hộ cử</small>

<small>Giám hộ cử là hình thức giám hộ theo trình tự do pháp luật quy định.</small>

Giám hộ cử được đặt ra trong trường hợp người chưa thành niên, người mất

năng lực hành vi dân sự khơng có người giám hộ đương nhiên thì Ủy ban

nhân dân cấp xã nơi cư trú của người được giám hộ có trách nhiệm cử người

giám hộ. Bộ luật Dân sự năm 1995 chưa quy định về giám hộ cử. Giám hộ cử

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

được quy định lần đầu tại các Điều 63, 64 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Đến Bộ luật Dân sự năm 2015, giảm hộ cử được quy định tại Điều 54.

Giám hộ cw có những đặc điểm sau:

<small>Một là, giám hộ cử được đặt ra trong trường hợp người chưa thành</small> niên, người mất năng lực hành vi dân sự khơng có người giám hộ đương nhiên theo quy định của các Điều 52, 53 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

Hai là, thẩm quyền cử người giám hộ thuộc Ủy ban nhân dân cấp xã

(Ủy ban nhân dân xã; Ủy ban nhân dân phường: Ủy ban nhân dan thị tran) nơi cư trú của người được giám hộ. Đây là quy định hợp lý, vì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người được giám hộ cư trú là cơ quan có các điều kiện thuận lợi dé

năm bắt tình hình của người được giám hộ, cũng như những người có thể

<small>được cử làm người giám hộ.</small>

Ba là, việc cử người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của người này. Quy định này nhằm bảo

đảm người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi trở lên có quyền thé hiện nguyện

vọng muốn ở với ai. Tuy nhiên, quy định này cũng gây ra không ít những phiền phức về việc cử người giám hộ cho người chưa thành niên từ đủ sáu

tuôi trở lên. Bởi vì người chưa thành niên trong trường hợp này chưa có chính

kiến vững chắc, ho hay thay đổi ý kiến. Và pháp luật cũng chỉ quy định “phải

<small>xem xét nguyện vọng”, do đó nguyện vọng của người chưa thành niên từ đủ</small>

sáu tuổi trở lên không phải là căn cứ bắt buộc để cử người giám hộ theo

nguyện vọng của họ. Do đó, thường phát sinh tranh chấp giữa những người có

đủ điều kiện làm người giám hộ, nhất là khi người được giám hộ được thừa kế

<small>những tài sản có gia tri lớn.</small>

Bốn là, việc cử người giám hộ phải được sự đồng ý của người được cử

<small>làm người giám hộ. Giám hộ cử được đặt ra khi người chưa thành niên và</small>

người mat năng lực hành vi dân sự khơng có người giám hộ đương nhiên. Do

<small>đó, người được cử làm người giám hộ không phải là người thân thích với</small>

người chưa thành niên hay người mất năng lực hành vi dân sự. Do vậy, phải

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

có sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ, vì họ khơng đương nhiên có nghĩa vụ chăm sóc, ni dưỡng, bảo vệ qun, lợi ích hợp pháp cho người được giám hộ. Tuy nhiên, pháp luật chưa quy định sự đồng ý của người được cử làm người giám hộ được thê hiện bằng văn bản, hay chỉ cần băng lời nói.

<small>Năm là, việc cử người giám hộ phải được lập thành văn bản, trong đó</small>

ghi rõ lý do cử người giám hộ, quyền, nghĩa vụ cụ thé của người giám hộ, tinh trạng tài sản của người được giám hộ. Điều này có ý nghĩa bảo đảm thực hiện tốt trách nhiệm của người giám hộ trên tinh thần tự nguyện, tự giác.

1.3. Quyên và nghĩa vụ của người giám hộ

1.3.1. Quyén của người giám hộ đối với người được giám hộ là người

chưa thành niên, người mat năng lực hành vi dân sự

Người giám hộ có các quyền theo quy định của khoản 1 Điều 58 Bộ

luật Dân sự năm 2015, cụ thể:

* Quyền sử dung tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giám hộ.

Người giám hộ có quyền sử dụng tài sản của người được giám hộ để chăm sóc, chi dùng cho những nhu cầu thiết yếu của người được giam hộ như

nhu cầu ăn uống, chi phí chữa bệnh, chi phí mua đồ dùng học tập ... Quy định

<small>như vậy của pháp luật dân sự là hợp lý vì người giám hộ khơng có nghĩa vụ</small>

dùng tài sản của minh dé chi phí cho việc chăm sóc người được giám hộ.

* Quyền được thanh tốn các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản

<small>của người được giám hộ.</small>

Người giám hộ của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi

<small>dân sự có trách nhiệm quản lý tài sản của người được giám hộ như tài sản của</small>

chính mình. Trong q trình quản lý tài sản của người được giám hộ, nếu

<small>người giám hộ phải chi phí cho việc quản lý tài sản của người được giám hộnhư chi phí th người trơng coi tai sản, bảo tri tài sản ... thì người giám hộđược thanh tốn các chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người đượcgiám hộ.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Bà Quyền đại diện cho người được giám hộ trong việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và thực hiện các quyền khác theo quy định của pháp luật nhằm hảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

Người giám hộ có quyền và nghĩa vụ đại điện cho người được giám hộ

<small>tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, trừ trường hợp người được giảm</small>

hộ là người chưa thành niên có thể tự mình thực hiện giao dịch dân sự đó. <small>Người giám hộ là người đại diện theo pháp luật của người được giám hộ. Do</small> đó, người giám hộ có quyền đại diện cho người được giám hộ để tham gia

thực hiện các thủ tục hành chính, các thủ tục tô tụng theo quy định của pháp

luật dé bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người được giám hộ.

1.3.2. Quyên của người giám hộ đối với người được giảm hộ là người

<small>có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi</small>

Tịa án là co quan có thấm quyền tuyên bố một người thành niên là

<small>người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi và chỉ định người giám</small>

hộ, xác định quyền, nghĩa vụ của người giám hộ. Tịa án sẽ xác định người

giám hộ có các quyền theo quy định của khoản 1 Điều 58 Bộ luật Dân sự năm

2015. Thơng thường Tịa án xác định người giám hộ có quyền đại diện cho người được giám hộ. Người giám hộ có thể có quyền đối với tài sản của

người được giám hộ nếu người được giám hộ có tài sản hoặc khơng có quyền đối với tài sản nếu người được giám hộ không có tài sản. Và xác định người

giám hộ có các quyền khác theo quy định của pháp luật.

<small>1.3.3. Nghĩa vụ của người giảm hộ</small>

Nghĩa vụ của người giám hộ được quy định tại Điều 55, Điều 56 và Điều 57 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Các nghĩa vụ cơ bản gồm:

* Nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của <small>người được giám hộ.</small>

Người giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục nếu người được giám

<small>hộ là người chưa thành niên; có nghĩa vụ đảm bảo các điêu kiện chữa bệnh</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

cho người được giám hộ là người mat năng lực hành vi dân sự; có nghĩa vụ bảo vệ quyền lợi, ich hợp pháp của người được giám hộ.

<small>* Nghia vu đại diện cho người được giám hộ.</small>

<small>Người giám hộ có nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các</small>

<small>giao dịch dân sự, trừ trường hợp pháp luật quy định người được giám hộ có</small>

thé tự mình xác lập, thực hiện giao dịch dân sự. Và đại diện cho người được

giám hộ tham gia thực hiện các thủ tục hành chính, thủ tục tố tụng dân sự với

<small>tư cách là người đại diện theo pháp luật của người được giám hộ.</small>

* Nghĩa vụ đối với tài sản của người được giám hộ.

<small>Người giám hộ có nghĩa vụ quản lý tài sản của người được giám hộ.Người giám hộ không được đem tài sản của người được giám hộ tặng chongười khác. Người giám hộ có trách nhiệm quản lý tài sản của người đượcgiám hộ như tài sản của chính mình. Nhưng khơng được định đoạt tài sản của</small>

người được giám hộ như tài sản của chính mình mà cần phải có sự đồng ý của

<small>người giám sat việc giám hộ.</small>

<small>1.4. Phân biệt giám hộ với các loại dại diện theo phúp luật khác củaca nhân</small>

<small>1.4.1. Phán biệt giảm hộ với đại điện là cha, mẹ của người chưa thànhniên</small>

Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc người có năng lực hành vi dân

sự đầy đủ lựa chon dé thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyên, lợi ích hợp

pháp của người chưa thành niên, người mat năng lực hành vi dân sự, người có

<small>khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, người có năng lực hành vi dân sự</small>

đầy đủ nhưng ở tình trạng cần được giám hộ.

<small>Đại diện là việc cá nhân, pháp nhân (sau đây gọi chung là người đạidiện) nhân danh và vì lợi ích của cá nhân hoặc pháp nhân khác (sau đây gọichung là người được đại diện) xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Từ những phân tích trên, có thể thấy giữa giám hộ với đại diện là cha,

mẹ của người chưa thành niên có những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản

<small>sau đây:</small>

* Vé sự tương dong:

<small>Người giám hộ và người đại diện là cha, mẹ của người chưa thành niên</small>

đều nhằm mục đích bảo vệ quyên, lợi ích cho người được giám hộ và người

<small>được đại diện. Người giám hộ và người đại diện là cha, mẹ của người chưa</small> thành niên đều là người đại diện theo pháp luật của người được giám hộ và <small>con chưa thành niên.</small>

Căn cứ xác lập giám hộ và đại diện của cha, mẹ đối với con chưa thành

<small>niên theo quy định của pháp luật, các bên (Người giảm hộ, người được giám</small>

hộ; cha, mẹ và con chưa thành niên) khơng có qun thỏa thuận xác lập, cham

<small>dứt giám hộ, đại diện.</small>

* Vé sự khác nhau:

Thứ nhất, giám hộ phát sinh khi người chưa thành niên khơng cịn cha

mẹ hoặc khơng xác định được cha, mẹ; có cha, mẹ nhưng cha, mẹ đều mất

năng lực hành vi dân sự; cha, me, đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, me đều bị Tòa

án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ; người mat năng lực hành vi

<small>dân sự; người có khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi. Trong khi đó,cha, mẹ ln ln đương nhiên là người đại diện theo pháp luật cho con chưathành niên, nhưng chỉ tham gia với tư cách là người đại diện theo pháp luậtkhi tham gia, xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự vi lợi ich của con.</small>

Thứ hai, người giảm hộ có thể là cá nhân hoặc pháp nhân. Ngược lại,

<small>đại diện là cha, mẹ của người chưa thành niên luôn luôn là cá nhân.</small>

Thứ ba, để trở thành người giám hộ, cá nhân phải đáp ứng các điều

kiện gồm: Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; có tư cách đạo đức tốt và các

<small>điêu kiện cân thiệt đê thực hiện quyên, nghĩa vụ của người giám hộ; không</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

phải là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc người bị kết án

nhưng chưa được xóa an tích về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức

khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác; không phải là người bị

Tòa án tuyên bố hạn chế quyên đối với con chưa thành niên. Trong khi đó, đại diện là cha, mẹ của người chưa thành niên không yêu cầu về tư cách đạo đức, các điều kiện cần thiết dé thực hiện việc đại diện, chỉ yêu cầu về năng lực chủ

thé không phải là người mat năng lực hành vi dân sự, người có khó khăn

trong nhận thức, làm chủ hành vi và khơng bị Tịa án tun bố hạn chế quyền đối với con chưa thành niên.

Thứ tư, người giám hộ có quyền sử dụng tài sản của người được giám

hộ dé chăm sóc, chi dùng cho những nhu cau cần thiết của người được giám

<small>hộ; được thanh tốn những chi phí hợp lý cho việc quản lý tài sản của người</small>

được giám hộ; xác lập thực hiện các giao dịch dân sự nhằm bảo vệ quyên, lợi

<small>ích hợp pháp của người được giám hộ. Người giám hộ có nghĩa vụ chăm sóc,</small>

giáo dục người được giám hộ; bảo vệ quyên, lợi ích hợp pháp của người được

<small>giám hộ; quản lý tài sản của người được giám hộ; đại diện cho người đượcgiám hộ trong các giao dịch dân sự. Trong khi đó, người đại diện là cha, mẹ</small>

của người chưa thành niên có quyền và nghĩa vụ đại điện cho con chưa thành

<small>niên xác lập, thực hiện giao dịch dân sự và phải thực hiện nghĩa vụ phát sinh</small>

từ giao dịch nếu tài sản của con không đủ dé thực hiện nghĩa vụ nhưng khơng

<small>được thanh tốn chi phí từ việc thực hiện nghĩa vụ cho con.</small>

<small>1.4.2. Phân biệt giảm hộ với đại diện theo pháp luật của người bị hạn</small>

chế nang lực hành vi dan sự

Giám hộ là việc cá nhân, pháp nhân được luật quy định, được Ủy ban

nhân dân cấp xã cử, được Tòa án chỉ định hoặc người có năng lực hành vi dân

Sự đầy đủ lựa chọn dé thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ qun, lợi ích hợp

pháp của người chưa thành niên, người mat năng lực hành vi dân sự, người có

<small>khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi, người có năng lực hành vi dân sự</small>

đầy đủ nhưng ở tình trạng cần được giám hộ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán

tài sản của gia đình thì theo u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc của cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án có thé ra quyết định tuyên bố

người này là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Tòa án quyết định người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế

<small>năng lực hành vi dân sự và phạm vi đại diện.</small>

Trước hết cần làm rõ người như thế nào thì được coi là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng

của cá nhân bằng hành vi cua mình xác lập, thực hiện quyên, nghĩa vụ dân sự.

Năng lực hành vi dân sự day đủ là trường hợp cá nhân có khả năng bằng hành

vi của mình xác lập, thực hiện tồn bộ quyền, nghĩa vụ dân sự. Người thành

niên (người từ đủ 18 tuổi trở lên) có năng lực hành vi dân sự day đủ, trừ

trường hợp bị mất năng lực hành vi dân sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự,

có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Như vậy, hạn chế năng lực

hành vi dân sự là trường hợp người đã có năng lực hành vi dân sự day đủ, nhưng vì nghiện ma túy, các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, khi có u cầu của người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, tổ chức hữu quan thì Tịa án có thé ra quyết định tun bố người bị yêu cầu là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Theo quy định của Điều 24 Bộ luật Dân sự năm 2015 thì điều kiện xác định một người bị coi là người hạn chế năng lực hành vi dân sự khi đáp ứng

đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, cá nhân phải là nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình.

Chất ma túy được xác định theo quy định của Nghị định SỐ <small>82/2013/NĐ-CP ngày 19 thang 7 năm 2013 của Chính phủ ban hành danh</small>

mục chất ma túy và tiền chất. Hiện chưa có văn bản hướng dẫn “chất kích

thích khác”. Tuy nhiên, qua thực tiễn có thể hiểu “chất kích thích khác” là

những chất tác động lên hệ thần kinh của con người. Vì hệ thần kinh là bộ

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

phận điều khiển nhận thức, hành vi của con người. Dé xác định một người là

nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác là căn cứ vào kết quả giám định. Thứ hai, việc nghiện ma túy và các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, tức là giữa việc nghiện va phá tán tài sản phải có mối

<small>quan hệ nhân quả với nhau, “nghiện” là nguyên nhân, “phá tán” là hậu quả.</small>

Nếu việc phá tán tài sản không phải do nghiện chất ma túy hoặc chất kích

thích khác thì khơng phải là căn cứ để Tòa án xem xét đưa ra tuyên bố một

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.

Thứ ba, phải có u cầu của người có qun, lợi ích liên quan hoặc cơ

quan, tô chức hữu quan. Đây là điều kiện dé Tòa án xem xét ra quyết định

tuyên bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự. Vì Tịa án chỉ xem xét,

giải quyết khi có đơn yêu cầu của đương sự. Nếu cá nhân là người nghiện ma túy hoặc các chất kích thích khác đã có hành vi phá tán tài sản, nhưng những người có quyền, lợi ích liên quan hoặc cơ quan, t6 chức hữu quan khơng u cầu thì Tịa án cũng không xem xét giải quyết. Khi quyết định tuyên bố một

người hạn chế năng lực hành vi dân sự của Tịa án có hiệu lực pháp luật thì

người đó được xác định là người hạn chế năng lực hành vi dân sự. Kê từ thời điểm quyết định tuyên bố một người hạn chế năng lực hành vi dân sự của Tịa

<small>án có hiệu lực pháp luật thì việc xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan</small>

đến tài sản của người hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật. Trừ giao dịch nhăm phục vụ nhu cầu sinh hoạt

<small>hàng ngày hoặc luật liên quan có quy định khác.</small>

Từ những phân tích trên, có thể thấy giữa giám hộ với đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có những điểm tương

đồng và khác biệt như sau:

* Những điểm tương dong:

Việc xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự có liên quan đến tài sản

của người được giám hộ và người hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự <small>đơng ý của người giám hộ và người đại diện theo pháp luật của người bị hạn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

ché năng lực hành vi dân sự, trừ những giao dịch phục vụ nhu cầu sinh hoạt

<small>hàng ngày hoặc pháp luật có quy định khác.</small>

* Những điểm khác biệt:

Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự được xác lập trên cơ sở quyết định của Tòa án khi Tòa án tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Ngược lại, giám hộ được xác lập trên sở cở quy định của pháp luật khi có những đối tượng cần được giám hộ được quy định tại khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự năm 2015, hay nói cách

<small>khác giảm hộ khơng phụ thuộc vao thủ tục hành chính.</small>

Người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự vẫn có năng lực hành vi dân

sự một phân, còn người được giảm hộ có thê khơng có năng lực hành vi dân

sự khi bi Toa án tuyên bố mất năng lực hành vi dan sự hoặc có năng lực hành vi dân sự một phần trong trường hợp người được giám hộ là người có độ ti <small>từ đủ sáu ti trở lên.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Chương 2. GLAM HO DUONG NHIÊN - THỰC TRẠNG PHAP LUAT, THUC TIEN THỰC HIEN TAI TOA ÁN NHÂN DAN TINH

LANG SON VA KIEN NGHI HOAN THIEN PHAP LUAT

2.1. Thực trạng pháp luật về giám hộ đương nhiên

2.1.1. Thực trạng pháp luật về giám hộ đương nhiên của người chưa

<small>thành niên</small>

* Quy định về người chưa thành niên thuộc đối tượng được giám hộ

<small>đương nhiên</small>

Những người chưa thành niên thuộc trường hợp quy định tại các điểm

a, b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân sự 2015 thì thuộc đối tượng được giám hộ đương nhiên, bao gồm người chưa thanh niên khơng cịn cha, mẹ hoặc khơng

xác định được, cha, mẹ; người chưa thành niên có cha, mẹ đều mất năng lực

hành vi dân sự; cha, mẹ đều có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; cha, mẹ đều bi hạn chế năng lực hành vi dân sự; cha, mẹ đều bị Tòa án tuyên bố hạn chế quyền đối với con; cha, mẹ đều khơng có điều kiện chăm sóc, giáo dục con và có yêu cầu người giám hộ. Theo quy định này thì những người

chưa thành niên được quy định tại các điểm b, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Dân

<small>sự năm 2015 thì thuộc trường hợp được giám hộ đương nhiên. Nhưng Bộ luật</small>

Dân sự năm 2015 khơng có quy định trường hợp bắt buộc phải có người giám

hộ. Trong khi đó, khoản 3 Điều 67 Bộ luật dân sự năm 1995 quy định “Người dưới mười lam tuổi được quy định tại điểm a khoản 2 Điêu này, người bị tâm

thân hoặc các bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ được hành vi của

<small>mình thì phải có người giảm hộ ”. Như vậy, theo quy định của Bộ luật Dân sự</small>

năm 1995 thì người chưa thành niên dưới lăm tuổi thuộc đối tượng cần được giám hộ thì bắt buộc phải có người giám hộ. Nhưng quy định bắt buộc phải có người giám hộ đối với người chưa thành niên dưới mười lim tuổi, người bị bệnh tâm than hoặc các bệnh khác mà không thé nhận thức, làm chủ hành vi

đã không được kế thừa và quy định trong Bộ luật Dân sự năm 2005 và Bộ luật

Dân sự năm 2015. Quy định bắt buộc phải có người giám hộ và quy định

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

khơng bắt buộc phải có người giám hộ có sự khác biệt về hậu quả pháp lý rất lớn. Dé làm rõ khác biệt này, tác giả xin trích dẫn ví dụ của tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết “Người giám hộ và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người chưa thành niên gây ra”, đăng trên tạp chí Tịa án nhân dân số 1 năm

<small>1998 (Trang 22-23).</small>

<small>Khoảng 17 giờ ngày 26/4/1997 Bùi Văn T (sinh ngày 01/2/1982) là học</small>

sinh lớp 8 Trường phổ thông dân tộc nội trú Y, mở hòm cá nhân lấy bát đi ăn

cơm chiều. Thấy con dao nhọn (thường dùng dé doc giấy, gọt hoa qua) dé cạnh bát, T cầm theo với ý định để mài lại cho sắc. Ăn cơm xong T gửi bạn mang bát về cất hộ rồi đi mài đao ở dưới bếp. Sau đó T cất dao vào túi quần

rồi đi ra phía sân trường thì gặp một số bạn rồi cùng nhau ra cổng trường chơi

bi-a. Khoảng 18 giờ T cùng các bạn quay về trường. Khi đến sân trường thì thấy một số bạn đang đá bóng. Cùng lúc đó thấy quả bóng bàn lăn về phía

mình, T co chân đá mạnh quả bóng làm bóng bay xuống rãnh nước sâu cạnh

<small>sân trường. Mai Xuân H (sinh ngày 18/2/1980 là học sinh lớp 10 của trường)</small>

đang chơi bóng thấy vậy nói với T “Đá thì đá, khơng đá thì cút đi”. T cự lại

“bóng của mày à”. Rồi hai bên lời qua tiếng lại cãi nhau và lao vào đánh nhau. H đấm T một cái vào tai trái. Thấy hai bạn đánh nhau các bạn xông vào

can ngăn, song H vẫn vùng ra xông đến tát T, nhưng không trúng. T cũng vùng ra khỏi các bạn rút dao cầm ở tay xơng về phía H. Thấy vậy H thách

<small>thức “Mày có giỏi thì đâm đi” và dùng chân đạp T nhưng T tránh được. Lúcnày hai người chi cách nhau khoảng 30cm, T giơ dao dam một nhát vào người</small>

H. Mọi người đưa H đi cấp cứu nhưng vết thương thấu ngực làm rách màng

tim, đông mạch và thủng phổi nên H đã chết.

Tại bản số 07/HSST ngày 23/8/1997 Tòa án cấp sơ thâm đã kết án Bùi Văn T về tội giết người và buộc Trường phố thông dân tộc nội trú Y là người

giám hộ của bị cáo phải bồi thường thiệt hại gia đình H số tiền là 10.119.000

đồng. Bản án sơ thâm bị cáo, kháng nghị với nội dung đề nghị Tòa án cấp

phuc thấm xác định lại tư cách tố tụng của Trường phổ thông dân tộc nội trú

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Y. Tại bản án số 20/PT ngày 27/9/1997 Tòa án cấp phúc thâm đã quyết định

hủy toàn bộ ban án sơ thẩm số 07/HSST dé tiến hành xét xử sơ thâm lại với ly do Tòa án cấp sơ thấm đã xác định sai tư cách tô tụng của trường và của bố mẹ bị cáo; do đó, đã tước quyền tham gia tổ tụng của bố, mẹ bị cáo với tư cách là người đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền lợi cho bị cáo và xác định không đúng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Nhà trường và của bố mẹ bị

Tác giả Nguyễn Đức Mai cho rằng theo quy định tại khoản 3 Điều 67

Bộ luật Dân sự năm 1995 thì chỉ có người dưới mười lăm ti, người bi mac

bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác mới bắt buộc phải có người giám hộ. Va

theo quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Dân sự năm 1995 cũng chỉ áp

dụng đối với người chưa thành niên đưới mười lăm tuổi và người bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Từ đó, có thê rút ra kết luận đối với người chưa thành niên từ mười

lam tuổi đến dưới mười tám tuổi không cần phải có người giám hộ. Trong vụ án trên, khi phạm tội Bùi Văn T đã 15 tuổi, 02 tháng, 25 ngày nên khơng bắt

<small>buộc phải có người giám hộ. Do đó, việc xác định trường dân tộc nội trú là</small>

<small>người giám hộ của bị cáo là không đúng.</small>

Qua ví dụ trên cho thấy đã có sự nhằm lẫn giữa người giám hộ và

người đại diện theo pháp luật và người có trách nhiện liên đới bồi thường. Bởi vì, trong trường hợp này Bùi Văn T vẫn có cha, mẹ là người có năng lực hành

vi dân sự đầy đủ, do đó Bùi Văn T khơng phải người được giám hộ nên khơng

có người giám hộ trong trường hợp này. Trên thực tiễn, việc nhầm lẫn giữa

<small>người giám hộ và người đại diện theo pháp luật của người chưa thành niên</small>

tương đối phổ biến. Ngay cả trong trường hợp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đối với trường hợp người

chưa thành niên có quyền sử dụng đất do được thừa kế hoặc được tặng cho vẫn thường hay ghi “Người giám hộ cho cháu ... là ông, bà ... là cha, mẹ của

<small>cháu”.</small>

</div>

×