Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

Tiểu luận cuối kỳ một số vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.23 MB, 41 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TPHCM</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>DANH SÁCH THÀNH VIÊN VIẾT TIỂU LUẬN CUỐI KỲ MÔN LUẬT KINH TẾ </b>

HỌC KỲ II, NĂM HỌC: 2021 – 2022 Nhóm 6. Thứ 2 tiết 3,4,5 1. <b>Mã lớp học phần: BLAW230308_21_2_05CLC </b>

2. Giảng viên hướng dẫn: <b>Phan Thị Hồng Oanh</b>

3. <b>Tên đề tài: Một số vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp</b>

4. Danh sách thành viên viết tiểu luận cuối kỳ:

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>1.2 Dấu hiệu đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng phásản</b>

<b>1.3 Phân biệt phá sản với giải thể2. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp</b>

<b>UUUUUU 2.1 Khái niệm pháp luật về phá sản doanh nghiệp2.2 Mục đích của pháp luật về phá sản</b>

<b>2.3 Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản</b>

Chương 2: Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

<b>1.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật phá sản doanhnghiệp</b>

<b>UUUUUU 1.1 Đối tượng điều chỉnh của luật phá sản doanh nghiệp1.2 Phạm vi điều chỉnh của luật phá sản doanh nghiệp</b>

<b>2. Những vấn đề liên quan yêu cầu tuyên bố phá sản2.1 Thủ tục nộp đơn và thụ lý đơn</b>

<b>2.2 Những đối tượng có quyền và nghĩa vụ nộp đơn yêu cầutuyên bố phá sản doanh nghiệp</b>

<b>2.3 Cơ quan có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố phásản:</b>

Chương 3: Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và

<b>những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệpViệt Nam</b>

<b>•••••• 3.1 Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>3.2 Đánh giá thực trạng</b>

<b>3.3 Nguyên nhân và giải pháp</b>

<b>UUUUUUUUUUUUUUUUU3.3.1 Nguyên nhân</b>

Trong nền kinh tế thị trường, do sự tác động của quy luật kinh tế trong đó có quy luật cạnh tranh nên đã làm nảy sinh các mối quan hệ mới mà bản thân kinh tế kế hoạch hoá khơng hàm chứa được. Đó là hiện tượng phá sản.

Tuy nhiên phá sản là một vấn đề từ lý luận đến thực tiễn là một quá trình tìm hiểu và nghiên cứu bởi khi một doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản nó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế và đặc biệt là quyền lợi của người lao động ít nhiều sẽ bị xáoU trộn như tiền lương, các chế độ, việc làm và các vấn đề tiêu cực phát sinh và các khoản nợ của doanh nghiệp và hợp tác xã.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>2.Lý do chọn đề tài:</b>

Khi một doanh nghiệp, hợp tác xã bị lâm vào tình trạng phá sản đã làm nảy sinh nhiều mối quan hệ phức tạp cần được giải quyết. Chẳng những quan hệ nợ nần giữa các chủ nợ với doanh nghiệp mắc nợ, quan hệ giữa doanh nghiệp mắc nợ với người lao động do tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ gây ra. Vì vậy việc giải quyết kịp thời các vấn đề đó và bảo vệ quyền về tài sản của các chủ nợ có ý nghĩa rất quan trọng nhằm thiết lập một trật tự cần thiết để thúc đẩy sự phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo quyền chủ thể của các mối quan hệ hay các bên liên quan.

<b>3. Mục tiêu của đề tài:</b>

Đối với nước ta việc phá sản vẫn là một vấn đề mới mẻ. Cho nên thực tiễn giải quyết phá sản của nước ta trong thời gian qua cịn gặp khơng ít khó khăn vướng mắc. Chính vì vậy mà việc nắm bắt, hiểu biết đầy đủ về thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp là sự cần thiết và cấp bách. Vì những lý do trên nhóm

<b>chúng tơi quyết định chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về phásản doanh nghiệp” nhằm để tìm hiểu thêm một phần nào đó về</b>

luật phá sản của nước ta hiện nay. Vì vậy mà việc tìm hiểu về những việc làm của doanh nghiệp, hợp tác xã trước khi lâm vào tình trạng phá sản là một vấn đề quá sâu rộng mà trong thời gian ngắn ngủi nhóm của chúng em khơng thể nào tìm hiểu được hết, mà chúng em chỉ cố gắng nắm bắt được một phần nào đó về luật phá sản của doanh nghiệp, hợp tác xã. Trong thời kỳ kinh tế hiện nay của nước ta thì càng phải biết rõ thêm về luật kinh doanh mà luật phá sản là một phần rất nhỏ trong hệ thống luật pháp nhà nước ta khi mới vừa gia nhập WTO.

<b>4. Phạm vi nghiên cứu:</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>5. Phương pháp nghiên cứu:</b>

Phương pháp phân tích – tổng hợp lý thuyết Phương pháp phân loại và hệ thống hóa lý thuyết

UPhương pháp nghiên cứu hệ thống và phân tích biện chứng lịch

<b>1.1 Khái niệm phá sản doanh nghiệp</b>

<b>Theo điều 2 luật phá sản quy định: " Doanh nghiệp lâm vào tình</b>

trạng phá sản là doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc bị thua lỗ trong hoạt động kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh toán nợ đến hạn".

Phân loại phá sảnU

Căn cứ vào tính chất của sự phá sản

<small>o</small> Phá sản trung thực: Là sự phá sản do những nguyên nhân có thực gây ra

<small>o</small> Phá sản gian trá : Là sự phá sản do người kinh doanh sắp đặt trước bằng những thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của chủ nợ

Căn cứ vào đối tượng đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<small>o</small> Phá sản tự nguyện: Là do phía doanh nghiệp tự đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản khi thấy mình mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn và khơng cịn cách nào để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn đó. <small>o</small> Phá sản bắt buộc : Là do chủ nợ đệ đơn yêu cầu toà án

tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp mắc nợ, bản thân doanh nghiệp không muốn bị tuyên bố phá sản.

<b>1.2 Dấu hiệu đánh giá doanh nghiệp lâm vào tình trạng phásản</b>

Điều 3 nghị định số 189-CP ngày 23/12/1994 cụ thể hoá khái niệm doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản như sau: Doanh nghiệp được coi là có dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nói tại điều 2 luật phá sản doanh nghiệp, nếu kinh doanh bị thua lỗ trong 2 năm liên tiếp đến mức không trả được các khoản nợ đến hạn, không đủ trả lương cho người lao động theo thỏa ước lao động và hợp động lao động trong 3 tháng liên tiếp.

Khi xuất hiện dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản nêu trên, doanh nghiệp phải áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết như sau để khắc phục tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn như :

Các phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh, quản lý chặt chẽ các khoản chi phí, tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm.

Có biện pháp xử lý hàng hoá tồn kho, vật tư tồn đọng. Thu hồi các khoản nợ và tài sản bị chiếm dụng.

Thương lượng với các chủ nợ để hoãn nợ, mua nợ, bảo lãnh nợ, giảm nợ, xóa nợ.

Tìm kiếm các khoản tài trợ và các khoản vay mới để trang trải nợ cũ và đầu tư đổi mới công nghệ.

Sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết nêu trên mà vẫn gặp khó khăn, khơng khắc phục được tình trạng mất khả năng

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

thanh tốn nợ đến hạn thì doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản và phải được xử lý phá sản theo quy định của pháp luật.

Như vậy, dấu hiệu pháp lý căn bản của tình trạng phá sản là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn, phá sản là bước cuối cùng sau khi doanh nghiệp đã tìm các biện pháp để cứu vãn tình hình nhưng không thành công.

<b>1.3 Phân biệt phá sản với giải thể:</b>

Giải thể và phá sản là một sự kiện đánh dấu sự kết thúc một quá trình hoạt động kinh doanh, là hệ quả của rất nhiều nguyên nhân khác nhau: rủi ro môi trường kinh doanh, rủi ro thị trường của sản phẩm, thay đổi nhanh chóng của cơng nghệ, năng lực vốn giới hạn, hoặc đơn thuần là do chiến lược đầu tư của nhà đầu tư dẫn đến việc lựa chọn chiến lược giải thể hoạt động hiện tại để đầu tư vào một hoạt động mới.

Do vậy mặc dù giải thể, phá sản cũng có thể đến từ những nguyên nhân chủ quan khác như năng lực của nhà quản lý, gian lận trong kinh doanh, nhưng việc áp đặt rằng

giải thể và phá sản đồng nghĩa với một hiện tượng đáng xấu hổ thì hồn tồn khơng đúng đắn.

Tương tự, việc cho rằng nó là một hoạt động kết thúc một quá trình kinh doanh nên khơng cần gấp rút thực hiện thì lại càng sai. Việc cho phép một DN sớm được giải thể, phá sản, sẽ cho phép tài sản của DN nhanh chóng được bán lại trên thị trường để tiếp tục đưa vào một q trình kinh doanh khác; nhân cơng sớm có lời giải về việc chi trả lương, đền bù nghỉ việc, và có điều kiện tìm một cơng việc mới, tái sử dụng sức lao động; các khoản nợ sớm được thanh toán cho các chủ nợ, đưa vốn trở vào lại chu kỳ xoay vòng vốn của hệ thống tài chính.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Ta có thể thấy rõ những điểm khác nhau giữa phá sản và giải thể ở

nhân <sup>Theo Điều 207 Luật</sup><sub>Doanh nghiệp 2020,</sub> doanh nghiệp bị giải thể khi thuộc một trong số lượng thành viên tối thiểu theo quy định trong thời hạn 06 tháng liên tục mà không làm thủ tục chuyển đổi loại hình doanh nghiệp. - Bị thu hồi Giấy chứng

Theo Luật Phá sản 2014, doanh nghiệp được công nhận là phá sản khi đồng thời thỏa mãn hai điều kiện:

- Doanh nghiệp mất khả năng thanh toán các khoản nợ, tức là doanh nghiệp không thực hiện nghĩa vụ thanh toán khoản nợ trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày đến hạn thanh toán. - Doanh nghiệp bị Tòa án nhân dân tuyên bố phá sản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

nộp đơn yêu cầu giải thể doanh nghiệp bao gồm:

- Chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư nhân.

- Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần.

Những người có quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bao gồm:

- Chủ doanh nghiệp tư nhân - Chủ tịch Hội đồng quản trị của công ty cổ phần

- Chủ tịch Hội đồng thành viên của công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên

- Chủ sở hữu công ty trách nhiệm

- Người lao động, cơng đồn cơ sở, cơng đồn cấp trên trực tiếp cơ sở ở những nơi chưa thành lập cơng đồn cơ sở

- Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp

- Cổ đơng hoặc nhóm cổ đơng sở hữu từ 20% số cổ phần phổ thông trở lên trong thời gian liên tục ít nhất 06 tháng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

quyết định sau khi nhận được đơn yêu cầu hợp lệ.

Hậu quả pháp lý

Doanh nghiệp bị xóa tên trong sổ đăng ký kinh doanh và chấm dứt sự tồn tại.

Doanh nghiệp bị phá sản vẫn có thể tiếp tục hoạt động nếu như có người mua lại tồn bộ doanh nghiệp (Khơng phải lúc nào doanh nghiệp cũng bị xóa tên và

Quyền tự do kinh doanh của chủ sở hữu, người bị quản lý điều hành khơng bị hạn chế.

Nhà nước có thể hạn chế quyền tự do kinh doanh đối với chủ sở hữu hay người quản lý điều hành.

Thứ tự thanh toán tài sản

Thứ tự thanh toán khi giải thể như sau: - Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thỏa ước lao động tập

Thứ tự thanh toán khi phá sản như sau:

- Chi phí phá sản.

- Khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người lao động, quyền lợi khác theo hợp đồng lao động và thỏa ước lao động tập thể đã ký kết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp</b>

<b>UUUUUU 2.1 Khái niệm pháp luật về phá sản doanh nghiệp</b>

Pháp luật phá sản có thể hiểu là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã. Pháp luật phá sản là một chế định đặc thù trong luật thương mại. Tính đặc thù thể hiện ở chỗ trong chế định này vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật nội dung, vừa chứa đựng các quy phạm của pháp luật hình thức. Là pháp luật nội dung, pháp luật phá sản điều chỉnh các quan hệ tài sản giữa chủ nợ và con nợ. Là pháp luật hình thức, pháp luật phá sản điều chỉnh quan hệ tố tụng giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với chủ nợ, con nợ và những người có liên quan, quy định quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể, trình tự, thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.

<b>UUUUUU 2.2 Vai trò của pháp luật về phá sản</b>

– Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ: Theo các quy định của Luật phá sản thì khi doanh nghiệp mắc nợ không trả được nợ cho các chủ nợ, thì chủ nợ có quyền u cầu Tồ án tuyên bố phá sản doanh nghiệp để bán toàn bộ tài sản còn lại của doanh nghiệp để trả nợ cho các chủ nợ. Hơn nữa Luật phá sản còn đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ nợ trong việc địi nợ, theo đó tất cả các chủ nợ khơng bảo đảm đều phải đợi đến khi Tồ án tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì mới cùng nhau được chia số tài sản còn lại của doanh nghiệp phá sản theo tỷ lệ.

– Bảo vệ lợi ích của chính doanh nghiệp mắc nợ: Luật phá sản khơng những bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ mà còn bảo vệ quyền lợi cho cả doanh nghiệp mắc nợ. Nhờ có pháp luật về phá sản với quan điểm kinh doanh là mang lại lợi ích cho xã hội; đồng thời kinh doanh là

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

công việc rất khó khăn đầy rủi ro; do đó pháp luật phải đối xử nhân đạo với người kinh doanh bị phá sản, không được truy cứu pháp luật nếu họ khơng phạm tội; ngăn cấm các chủ nợ có hành vi xúc phạm đến thể xác hay tinh thần của họ, tạo điều kiện cho con nợ khắc phục khó khăn để khôi phục sản xuất kinh doanh, chỉ khi nào không thể cứu vãn nổi mới tuyên bố phá sản.

– Bảo vệ lợi ích của người lao động: Sự bảo vệ của Luật phá sản đối với người lao động thể hiện ở chỗ pháp luật cho phép người lao động được quyền làm đơn yêu cầu hoặc phản đối Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà mình đang làm; được cử đại diện của mình tham gia tổ quản lý tài sản và tổ thanh toán tài sản, được tham gia Hội nghị chủ nợ, được ưu tiên thanh tốn trước từ tài sản cịn lại của doanh nghiệp bị phá sản.

– Bảo đảm trật tự xã hội: Khi doanh nghiệp bị phá sản thì chủ nợ nào cũng muốn thu được càng nhiều càng tốt tài sản còn lại của doanh nghiệp mắc nợ. Khi đó nếu khơng có luật thì sẽ xảy ra tình trạng lộn xộn mất trật tự, gây ra mâu thuẫn giữa các chủ nợ với nhau, giữa chủ nợ và con nợ. Bằng việc giải quyết công bằng, thỏa đáng các mối quan hệ này, pháp luật về phá sản doanh nghiệp góp phần giải quyết mâu thuẫn, hạn chế những căng thẳng có thể xảy ra, nhờ đó đảm bảo trật tự kỷ cương của xã hội.

– Góp phần cơ cấu lại nền kinh tế: Phá sản bao giờ cũng gây ra những hậu quả kinh tế xã hội nhất định, trong đó có cả những hậu quả tích cực như 1 giải pháp hữu hiệu để cơ cấu lại nền kinh tế vì nó là sự đào thải tự nhiên đối với các doanh nghiệp làm ăn yếu kém, góp phần duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Luật phá sản là cơ sở pháp lý để xoá bỏ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ tạo môi trường kinh doanh lành mạnh cho các nhà đầu tư mạnh dạn bỏ vốn đầu tư.

<b>UUUUUU 2.3 Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản:</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản thực chất là q trình Tồ án xem xét và ra quyết định chấm dứt tư cách pháp lý của doanh nghiệp mắc nợ trên thương trường và đứng ra phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ cho các chủ nợ và những người có quyền lợi liên quan khác.

Giải quyết phá sản là một thủ tục thanh toán đặc biệt bởi lẽ từ trước đến nay theo thông lệ quốc tế tất cả các vụ kiện đòi phân chia tài sản một cách bất đắc dĩ đều do Tòa án đứng ra giải quyết. Tòa án là cơ quan t pháp nhân danh Nhà nước, so với các tổ chức tài phán khác quyết định của Tồ án có hiệu lực thi hành và phải được đảm bảo bằng cưỡng chế Nhà nước.

Mặt khác không như những vụ kiện đòi trong dân sự, kinh tế, phá sản là một vấn đề kinh tế xã hội rất phức tạp. Nó bao gồm những hậu quả bất lợi như: nạn thất nghiệp của công nhân, mâu thuẫn giữa chủ nợ với con nợ, cha kể đến những biến động khơng có lợi theo kiểu lan truyền trong nền kinh tế có thể dẫn đến phá sản hàng loạt và thậm chí có thể gây ra khủng hoảng Tất cả những vấn đề này nếu không được giải quyết một cách triệt để và hợp lý sẽ đem lại hậu quả khơn lường cho xã hội. Do đó tuyên bố phá sản phải là trách nhiệm của Nhà nước và do Tòa án đứng ra thực hiện. Trước đây ở nước ta tuyên bố phá sản và giải quyết tranh chấp kinh tế do trọng tài kinh tế Nhà nước đứng ra thực hiện. Đến nay trước yêu cầu của tình hình mới trọng tài kinh tế đã giải thể. Chấm dứt sự tồn tại có tính lịch sử của mình. Cơng việc này kể từ ngày 01/07/1994 được Tịa án kinh tế của các Tồ án nhân dân cấp tỉnh (thành lập) đảm nhận.

Giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản là thủ tục đặc biệt còn thể hiện ở chỗ nếu như tố tụng kinh tế và tố tụng dân sự chỉ nhằm mục đích xét xử thì quá trình giải quyết yêu cầu phá sản cịn phải thực hiện cả hai chức năng đó là giám sát và xét xử đối với doanh nghiệp mắc nợ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Và đặc biệt trong quá trình giải quyết phá sản, Tịa án cịn có những tác động mang màu sắc quản lý đến doanh nghiệp mắc nợ. Các lý do trên cho thấy thủ tục đòi nợ (thanh tốn) trong q trình giải quyết phá sản cũng hồn tồn khác so với các thủ tục địi nợ trong tranh chấp dân sự, kinh tế ở chỗ:

+ Việc thanh toán các khoản nợ được tiến hành trên cơ sở số tài sản còn lại của doanh nghiệp theo tỷ lệ phần trăm nhất định tương ứng với mỗi khoản nợ.

+ Việc địi nợ khơng diễn ra trực tiếp giữa các bên chủ nợ và con nợ mà bao giờ cũng phải thông qua một cơ quan đại diện là Toà án kinh tế hoặc cơ quan thi hành án.

+ Việc thanh toán chỉ được tiến hành sau khi đã có quyết định của Tồ án, khác với việc đòi nợ trong dân sự. Trong dân sự việc thanh toán giữa chủ nợ và con nợ được tiến hành bất cứ lúc nào theo thỏa thuận của hai bên, thậm chí cả khi vụ việc đã có quyết định đưa ra xét xử.

Đặc biệt hơn cả quyết định tuyên bố phá sản không phải là bản án được xác định trên cơ sở lỗi, song trong Luật phá sản chủ doanh nghiệp được coi là khơng có lỗi, vả lại bản thân các chủ nợ khi bỏ vốn vào kinh doanh cũng đã chấp nhận rủi ro, tức là chấp nhận có thể thiệt hại về tài sản xảy ra. ở đây hoạt động của Tồ án khơng nhằm vào mục đích xác định trách nhiệm pháp lý hay chế tài của các bên mà chỉ là thủ tục thực hiện những nghĩa vụ đã được các bên thừa nhận. Khác với tố tụng dân sự và tố tụng kinh tế, sau khi ra quyết định tuyên bố phá sản, Tịa án vẫn có mối liên hệ chặt chẽ với bộ phận thi hành ra quyết định tuyên bố phá sản là tổ thanh toán tài sản để hỗ trợ cho chủ thể này hoàn thành nhiệm vụ. Vì vậy, theo tinh thần đó, giai đoạn phân chia tài sản, được thực hiện bởi tổ thanh

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

tốn tài sản, có bản chất pháp lý khơng giống hoạt động thi hành án đối với các bản án kinh tế, dân sự, hình sự.

Chương 2: Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp

<b>1.Đối tượng và phạm vi điều chỉnh của luật phá sản doanhnghiệp</b>

<b>UUUUUU 1.1 Đối tượng điều chỉnh của luật phá sản doanh nghiệp</b>

Đối tượng của Luật phá sản doanh nghiệp là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sảnU

Doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản là doanh nghiệp lâm vào tình trạng khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết mà vẫn mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn.

Việc áp dụng Luật phá sản cho đối tượng nào là phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng nước. Ở Úc Luật phá sản chỉ áp dụng cho các đối tượng là thể nhân, ở Nga Luật phá sản áp dụng cho các nhà kinh doanh ( doanh nghiệp và các nhà kinh doanh). Ở Việt Nam chỉ có doanh nghiệp mới chịu sự chi phối của Luật phá sản, là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản.

Theo khái niệm của nhiều nước trên thế giới thì đối tượng của Luật phá sản là những doanh nghiệp lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Với khái niệm này thì mọi doanh nghiệp bất kể về nguyên nhân nào đã dẫn đến mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn đều thuộc diện điều chỉnh Luật phá sản. Luật phá sản nước ta quy định rõ lý do doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc thua lỗ trong hoạt động sản xuất kinh doanh để nói lên thực trạng của doanh nghiệp. Nhưng theo chúng em, quy định này chỉ

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

làm hẹp đi khái niệm về đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp mà thôi.U

Luật phá sản doanh nghiệp nước ta quy định mất khả năng thanh toán nợ đến hạn nhưng không định lượng là bao nhiêu, tuy nhiên đó chỉ mới là dấu hiệu để chủ nợ đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nó khơng phải là căn cứ duy nhất để tịa án kết luận tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà còn phải dựa vào một loạt các thủ tục theo trình tự đệ đơn, thụ lý đơn đến hội nghị chủ nợ mới đi đến quyết định tuyên bố hay không tuyên bố phá sản doanh nghiệp.

<b>UUUUUU 1.2 Phạm vi điều chỉnh của luật phá sản doanh nghiệp</b>

Theo quy định của điều 1 Luật phá sản doanh nghiệp được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức sở hữu được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam khi lâm vào tình trạng phá sản. Như vậy theo pháp luật hiện hành các doanh nghiệp tồn tại ở Việt Nam gồm:

Doanh nghiệp tư nhânU Công ty trách nhiệm hữu hạn Công ty cổ phầnU

Doanh nghiệp nhà nước Doanh nghiệp liên doanh

Doanh nghiệp 100% vốn nước ngồi Hợp tác xã

Doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hộiU

Theo các nhà làm luật sở dĩ pháp luật phá sản Việt Nam quy định những cơ sở sản xuất kinh doanh nào được gọi là doanh nghiệp mới có thể bị tuyên bố phá sản là do họ cho rằng vì đây là chủ thể kinh doanh chủ yếu trên thương trường. Vì vậy cần tập trung quan tâm đến đối tượng này.

</div>

×