Tải bản đầy đủ (.pdf) (296 trang)

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trường: Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo Điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.86 MB, 296 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÈ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÁP TRƯỜNG

MA SO: LH-2017-33/DHL-HN

Chủ nhiệm đề tài: TS. Vũ Thi Phương Lan Thư kí đề tài: ThS. Nguyễn Đức Việt

<small>Hà Nội. thang 05 năm 2018</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐÈ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CÁP TRƯỜNG

QUOC TE VA PHAP LUAT VIET NAM

Chủ nhiệm Dé tài: TS. Vũ Thị Phương Lan

Phó trưởng bộ mơn Tư pháp quốc tế

Khoa pháp luật quốc tế

Thư ký Đề tài: ThS. Nguyễn Đức Việt

Giảng viên Bộ môn Tư pháp quốc tế

Khoa pháp luật quốc tế

<small>Hà Nội, tháng 05 năm 2018</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

MỤC LUC TONG

PHAN THỨ NHẤT — BAO CAO TONG HOP DE TÀI... iiPHAN THỨ HAI— CAC BAO CAO CHUYEN ĐÈ... 144

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

PHAN THỨ NHAT

BAO CAO TONG HOP DE TAI

<small>il</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

MỤC LUC BAO CÁO TONG HOP

PHAN THI) SHAT so caomeen nome eo amen eee ern EEO 2 BAO CAO TONG HOP DE TAL ...- 5° 5Ÿ 5£ 25s s2 s2 Ss£EseEsESsessesesersersess 2 MỞ DAU ...2-- 5-52 ©se4E.4E.4407149 714071400704 07A4 07A4 074407440791 0941 02930 1 1. Tính cấp thiết của dé tài ... 5-5 < 5£ < se se EsEEEserseseeserersersesersesee 1 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài ...--5- 5° 5c s se sessesesseseesesesessee 3 3. Mục đích nghiên cứu của đề tài ...--- 5 5c s 5< sesscsesseseeseseesessesersese 6 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của dé tài...-..---s-2 5< se csessessesses 7

<small>5. Phương pháp nghiÊn CỨU ... << G5 5 S9 99 99 999 99.9. 9990 899598986 7</small>

6. BO cục của báo cáo tổng hợp...--5- 5° s 5< se se ssEsEsEssEsessesersessrsersee 7

<small>CHUONG 1... ...).)... 9</small> MOT SO VAN DE LY LUAN VE BAO HO QUYEN TAC GIA TRONG

MOI TRUONG KY THUAT SỐ...- 2- << s° se se se se se sesseresscse 9

1.1. Khái niệm, nội dung va đặc điểm của quyền tác giả ...----.-- 9 1.1.1. Khái niệm quyền tác giả...--¿ ¿cành T TT 9

1.1.2. Nội dung của quyền tác giả...--¿- 6 SE SE 1218111111111 xe. 10 1.1.3. Đặc điểm của quyên tác giả...--¿- ¿Sàn TT TT HH rệt 12 1.2. Khái niệm và đặc điểm của bảo hộ quyền tác giả...---5--«- 13

1.2.1. Khái niệm và mục đích của bảo hộ quyền tác gid ...---- 5-55: 13 1.2.2. Đặc điểm của bảo hộ quyền tác giả...---- + 25c s+x+EEsESEerrkrkrrereree 17 1.3. Môi trường kỹ thuật số và thách thức của nó tới van đề bảo hộ quyền

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

BAO HỘ QUYEN TÁC GIÁ TRONG MOI TRƯỜNG KỸ THUẬT SO

THEO QUY ĐỊNH CUA CÁC DIEU UOC QUOC TẼ...--5--5- 29

2.1. Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả đối với tac phẩm

<small>van học, nghệ thuật và khoa hoc (The Berne Convention for the Protectionof Lilerary and Tivi: WOTIRS) ssnsemsconnasancocmennnnemcrennns nnn cenenannenonmetesnvns 30</small>

2.2. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mai của quyền sở

<small>hữu trí tuệ năm 1994 (Hiệp định 'TÍPS)...< 5 < 5< 55s s5 58952, 37</small>

2.3. Hiệp ước về quyền tác giả của Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới năm

<small>1996 (WIPO Copyright Treaty 1996) scscisssssccscssssssccscsscsscessssessssesovsveasscessevnssseess 46</small>

Kết luận Chương 2...csccssssssssssssessssessessssessssessessssesssscsessssessssssessssecsessssesesenesees 57

<small>019/19) I6 ... 60</small>

BAO HỘ QUYEN TÁC GIÁ TRONG MOI TRƯỜNG KỸ THUAT SO Ở

MOT SO QUOC GIA...--5-< 5-5£ 5< SsES£ S4 EsEE*ESESESESEESESESEESESEESEsEsersesersre 60

3.1. Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở Hoa Kỳ... 60

3.1.1. Tình hình xâm phạm quyên tác giả trên internet tại Hoa Kỳ và khuôn

khổ pháp luật điều chỉnh ... -- - - + SE SE+E+E+E#E£EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErkrkrkrrrree 60

3.1.2. Bảo hộ quyên tác giả trước các vi phạm trên internet ...--- 61 3.2. Bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở Nhật bản... 66

3.2.1. Tình hình xâm phạm quyên tác giả trên internet tai Nhật Bản và khuôn <small>khô pháp luật điêu chỉnh ...-- -. .. -- 11133333211 11313%85551 111151811111 xe. 66</small>

<small>3.2.2. Bao hộ quyên tác giả trước các vi phạm trên internet ... - - - -- 673.3. Bảo hộ quyên tác gia trong môi trường kỹ thuật sô ở Trung Quoc... 72</small>

3.3.1. Tình hình xâm phạm quyên tác giả trên internet tại Trung Quốc và

khuôn khổ pháp luật điều chỉnh...- ¿2-2 s2 +E+E£EEEE+E+E+E£EEEeEErErkrkexereree 72

3.3.2. Bảo hộ quyền tác giả trước các vi phạm trên internet ...-.--- 74 3.4. Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở Thái Lan... 85

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

3.4.1. Tình hình xâm phạm quyền tác giả trên internet tại Thái Lan và khuôn khổ pháp luật điều chỉnh ... - - - + SE SE*E+E‡EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEEkrkrkrkerrree 85

3.4.2. Bảo hộ quyền tác giả trước các xâm phạm trên internet...-.--- 87

3.5. Một số kinh nghiệm rút ra cho Việt Nam...2 5< s2 se<sese<sese 95 <small>CHU ONG 1155 ... 101</small>

THUC TRẠNG, THUC TIEN VÀ MOT SO GIẢI PHÁP HOÀN THIEN PHAP LUAT VIET NAM VE BAO HO QUYEN TAC GIA TRONG MOI TRUONG KY THAT SO ... 2-2 s s22 ©s££sSs£Ss£SsEssEssEseEsezsessessesee 101 4.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật SỐ...----< 5£ s5< se se 9s E334 EsEESESSESESSESEE5E28 5245250556 101 4.1.1. Đối tượng bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ... 102

4.1.2. Chủ thé được bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số ... 103

4.1.3.Các quyền của tác giả trong môi trường kỹ thuật số ...---- 106

4.1.4. Hành vi xâm phạm quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số ... 113

4.1.5. Biện pháp bảo vệ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật sô... 115 4.2. Thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở Việt 4.3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác

giả trong môi trường kỹ thuật SỐ...--.2- 2° 5° se s©ssessess£sesessessessese 126 4.3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật SỐ ...-- + - - + EESEEESE+EEEEEEEEEEEEEEEEEEEE11E111111EEcEe. 127 4.3.2. Chủ sở hữu quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số cần chủ động dau tư áp dụng các biện pháp công nghệ cao dé tự bảo vệ quyền tác giả của 4.3.3. Tăng cường năng lực cho đội ngũ thực thi quyền tác giả trong môi

trường kỹ thuật SỐ ...-- 52 S233 1 1EEEE1111111111111111111111 111111111111 te. 134

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

4.3.4. Nang cao năng lực của cơ quan chuyên môn dé giúp các cơ quan thực

<small>thi pháp luật đưa ra các hình thức xử phạt hợp lý và hiệu quả. ... 135</small>

4.3.5. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, động viên và phát huy sức mạnh tồn dân tích cực tham gia phòng ngừa và dau tranh chống các

hành vi xâm phạm quyên tác giả, đặc biệt là trong môi trường kỹ thuật số.... 136

TÀI LIEU THAM KHẢO ...-- 2-5 << s2 s2 se s£Ss£ssEssEssEseEsessessessesee 138 PHAN 009:100:71077... 142 CAC BAO CÁO CHUYEN Đ... o- se s se se S9 9S €SESEsEsEsEsSsEsSssssesese 142

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

¬ MỞ ĐẦU

<small>1. Tinh cap thiét của dé tài</small>

Kê từ khi đôi mới, pháp luật về sở hữu trí tuệ của Việt Nam, trong đó có

pháp luật bảo hộ quyền tác giả, đã có những sự phát triển đáng ghi nhận. Năm 1995, Bộ luật dân sự đầu tiên của Nước CHXHCN Việt Nam được ban hành đã dành một phần riêng để quy định về quyền sở hữu trí tuệ. Năm 2005, Luật sở hữu trí tuệ đầu tiên được ban hành trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định tương ứng của Bộ luật dân sự năm 1995. Cho đến nay, pháp luật về quyền tác giả của Việt Nam, trong tổng thé pháp luật về sở hữu trí tuệ, đã từng bước được

hồn thiện để phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam cũng như nhu cầu hội nhập quốc tế.

Với sự phát triển không ngừng của Internet, không gian mang (cyber space)

ngày càng được mở rộng và lan tỏa từ quốc gia này tới quốc gia khác. Nhờ có khơng gian mạng, các quốc gia ngày càng kết nối chặt chẽ hơn, người dân sinh sống giữa các quốc gia trở nên gần gũi với nhau hơn, các giao dịch kinh tế, giao

lưu văn hóa, xã hội trở nên thuận tiện hon bao giờ hết. Tất cả những yếu tố đó

đem lại lợi ích lớn về phát triển kinh tế cũng như xã hội ở nhiều quốc gia.

Internet không những trở thành nguồn sinh lợi trực tiếp mà còn là tác nhân cho sự phát trién kinh tế ấn tượng của nhiều quốc gia trên thế giới.

Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ của không gian mang và môi trường kỹ

thuật số cũng đem lại những mối đe dọa nhất định cho một số lĩnh vực kinh tế

-xã hội, trong đó có lĩnh vực bảo hộ quyên tác giả. Ban chất của quyền tác gia là

những quyền trừu tượng, đối tượng của quyền tác giả là những tài sản trí tuệ, vơ

hình. Trong khi tạo ra một cuộc cách mạng về cách thức liên lạc và trao đổi thông tin giữa các cá nhân, cộng đồng và quốc gia, môi trường kỹ thuật số cũng

tạo cơ sở rất thuận tiện cho các hoạt động sao chép, sử dụng các tác phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả. Môi trường kỹ thuật số thực sự đặt ra những thách thức không nhỏ về mặt pháp lý đối với việc bảo hộ quyền tác giả. Tuy

<small>|</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

nhiên, vẫn đề này vẫn chưa được chú trọng để phản ánh vào cơng tác xây dựng

<small>pháp luật của Việt Nam.</small>

Trong khi đó, dé đáp ứng đối với những thách thức của môi trường kỹ thuật số đặt ra cho bảo hộ quyền tác giả trên phạm vi quốc tế, pháp luật quốc tế cũng đã có những sự phát triển nhất định. Hệ thống pháp luật quốc tế về bảo hộ quyền tác giả được hình thành từ năm 1886 bao gồm các văn bản như Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật năm 1886, Công ước Rome 196] về bảo

hộ người biéu diễn, nhà sản xuất bản ghi 4m, ghi hình và các tổ chức phát sóng,

Cơng ước Geneva 1971 về bảo hộ các nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc

sao chép trái phép bản ghi âm của họ, Công ước Brussel 1974 liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình được truyền qua vệ tinh, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ. Cuối thé kỷ 20,

hệ thống pháp luật quốc tế về quyền tác giả được bổ sung thêm hai nguồn quan

trọng là Hiệp định của WIPO về quyên tác giả (WCT) và Hiệp định của WIPO về bảo hộ sản phẩm ghi âm và trình diễn (WPPT). WCT được ký kết tại Geneva

ngày 20/12/1996 dưới sự bảo trợ của Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO). Hiệp định dé ngỏ dé các quốc gia thành viên của WIPO và Cộng đồng Châu Âu

(EC) gia nhập. Hiệp ước gồm 25 điều, quy định về các loại hình tac pham được

bảo hộ quyên tác giả, bao gồm cả chương trình máy tinh, khơng phân biệt cách

thức và hình thức thé hiện chúng: sưu tập dit liệu dưới bat kì hình thức nào, với

sự lựa chọn và sắp xếp nội dung tạo thành những sáng tạo trí tuệ. Cho đến nay

<small>hiệp định này đã có 96 thành viên. WPPT được ký cùng ngày với WCT và có</small>

các điều khoản tương tự áp dụng đối với quyền của người ghi âm và người trình diễn. Cả hai hiệp định này đều trực tiếp điều chỉnh vấn đề bảo hộ quyền tác giả

và quyên liên quan trong môi trường kỹ thuật số.

So với hệ thống pháp luật quốc tế về bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số, hệ thống pháp luật Việt Nam còn những bắt cập nhất định. Trong số

<small>các điêu ước quôc tê vê bảo hộ quyên tác gia trong môi trường kỹ thuật sô van2</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

cịn có những văn bản quan trọng mà Việt Nam chưa phải là thành viên. Điều này đặt ra nhu cầu về mặt lý luận đối với việc so sánh hệ thống pháp luật Việt Nam và quốc tế về bảo hộ quyền tác giả trong mơi trường kỹ thuật số để trên cơ sở đó đánh giá nhu cầu Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế này.

Mặt khác, Nghị quyết số 48 của Bộ Chính Trị ban hành “Chiến lược xây

dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến

năm 2020” đã đưa ra định hướng lớn là “Tiếp tục ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế trong các lĩnh vực kinh tẾ, thương mại, đầu tư, tín dụng quốc tế, sở hữu trí tuệ, thuế quan, bảo vệ môi trường... Đồng thời, day mạnh việc ra soát, sửa đổi, bố sung hoặc ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật dé phù hợp với thông lệ quốc tế và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Mặc dù đã được đề cập như vậy song vấn đề bảo hộ quyền tác giả vẫn chưa được quan tâm

đúng mức cả trên khía cạnh pháp luật thực định cũng như thực tiễn quản lý.

Như vậy, có thé thay việc nghiên cứu dé tài “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số theo Điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam” có tính cấp thiết cao cả về lý luận và thực tiễn.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

<small>* Các cơng trình nghiên cứu trong nước:</small>

Có thé nói hiện nay có rất nhiều cơng trình nghiên cứu trong nước về quyền tác giả theo pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế. Song, có tương đối ít các

cơng trình nghiên cứu chun sâu về qun tác giả trong môi trường kỹ thuật sé.

Một số công trình tiêu biểu trong lĩnh vực này là:

- Quản Tuấn An, Bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan trong môi trường

kỹ thuật số - Một số vẫn đề lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ luật học, 2009. - Dương Bảo Trung, Một số van đề về quyên tác giả trong thời đại kỹ thuật số theo Hiệp ước WIPO về quyền tác giả, Tạp chi Nhà nước và Pháp luật, số

<small>1/2013.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Nguyễn Thị Tuyết, Chia sẻ dữ liệu trong môi trường Internet và vấn đề liên quan đến quyền tác giả, Tạp chí Luật học, số 1/2010.

- Nguyễn Thị Hồng Nhung, Xử lý vi phạm quyên tác giả trên Internet băng <small>biện pháp hành chính ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, 12/2015.</small>

- Phong Thị Lan, một số van đề về bảo hộ qun tác giả trong mơi trường

internet, Khóa luận tốt nghiệp, 2012.

Nhận định một cách tổng thé, có thé nói các cơng trình trên đây chưa đem

lại một cái nhìn tồn diện và cập nhật về hệ thống pháp luật Việt Nam về bảo hộ

quyên tác giả trong mơi trường kỹ thuật số. Đặc biệt các cơng trình này khơng có những đánh giá thiết thực về nhu cầu và đòi hỏi tham gia các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số.

<small>* Các cơng trình nghiên cứu ngoai nước:</small>

Có thê nói có rất nhiều cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi về vấn đề quyền tác giả trong mơi trường kỹ thuật số. Tuy nhiên, khơng có cơng trình nào nghiên

cứu hệ thống pháp luật của Việt Nam điều chỉnh vẫn đề bảo hộ quyền tác giả

trong môi trường kỹ thuật số. Các cơng trình nghiên cứu về nhu cầu tham gia các điều ước quốc tế về bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số thì lại càng hiếm.

Một số cơng trình nghiên cứu về quyền tác giả trong mơi trường kỹ thuật số có thể tham khảo là:

<small>- Muragendra B. T., Copyright and trademakr in Cyberspace,International Journal of Scientific & Engineering Research, Volum 3,Issue 6, June-2012.</small>

<small>- Kristin Ashurst Hughes, Copyright in Cyberspace: A Survey ofNational Policy Proposals for On-Line Service Provider CopyrightLiability and an Argument for International Harmonization,American University International Law Review, Volume 11, Issue 6,</small>

<small>1996.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>Pedro Remoaldo, Copyright infringment, law and borders to the</small>

<small>Field, Jr., Thomas G. — Copyright for Computer Authors. FranklinPierce Law Center. < (1997)Fujita, Anne K. — The Great Internet Panic: How Digitization is</small>

<small>Deforming Copyright Law.< (1996)</small>

<small>Grossman, Wendy M. - Downloading as a _ Crime.</small>

<small> (1997)</small>

<small>Hugenholtz, P. Bernt — Licensing rights in a digital multimediaenvironment. Institute for Information Law, University ofAmsterdam < Bruce A.; Brown, Ronald H. — A Preliminary Draft of the</small>

<small>Report of the Working Group on Intellectual Property Rights.< draft.html> (1994)</small>

<small>Litman, Jessica — Revising Copyright Law for the Information Age.< class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<small>- Loundy, David J. — Revising the copyright law for electronic</small>

<small>- Rich, Lloyd L. — How Much of Someone Else's Work May I UseWithout Asking Permission?: The Fair Use Doctrine, Part I.< (1996)</small>

<small>- Rose, Lance -— Is Copyright Dead on the Net? Wired.< (1993)</small>

<small>- Saltrick, Susan — The Pearl of Great Price: Copyright and Authorshipfrom the Middle Ages to the Digital Age.< .html>(1995)</small>

3. Mục dich nghiên cứu của đề tài

Mục đích của đề tài là làm rõ lý luận và thực tiễn về bảo hộ quyền tác giả

trong môi trường kỹ thuật số, góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

về bảo hộ quyền tác giả nói chung va bảo hộ qun tác giả trong mơi trường kỹ

thuật số nói riêng theo hướng phù hợp với pháp luật quốc tế trong lĩnh vực này.

Dé đạt được mục đích cuối cùng, đề tài xác định một số mục tiêu như sau: - Phân tích và so sánh để chỉ ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa

hệ thống pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả

trong môi trường kỹ thuật số.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

- Đánh giá nhu cầu và đưa ra đề xuất về lý luận và thực tiễn đối với việc gia nhập các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số

nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là pháp luật quốc gia và các điều ước quốc

tế về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật sé.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn về không gian và thời gian. Về

không gian, đề tài nghiên cứu vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ

thuật số ở Việt Nam và một số điều ước quốc tế có liên quan, đề tài cũng nghiên cứu thực tiễn bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số ở một số quốc gia dé từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Về mặt thời gian, dé tài nghiên cứu pháp luật Việt Nam và quốc tế hiện hành trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả

trong môi trường kỹ thuật số. <small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>

Đề tài áp dụng cách tiếp cận duy vật biện chứng trong trong q trình

nghiên cứu. Bên cạnh đó đề tài tiếp cận từ quan điểm hội nhập quốc tế để phân

tích nhu cầu của Việt Nam tham gia các điều ước quốc tế về bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số.

Đề tài áp dụng hai phương pháp chủ đạo là phương pháp phân tích và

phương pháp so sánh. Phương pháp phân tích được áp dụng để nghiên cứu sâu

về hệ thống pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả

trong môi trường kỹ thuật số. Phương pháp so sánh để đối chiếu, so sánh giữa hai hệ thông này.

6. Bố cục của báo cáo tổng hợp

Căn cứ trên mục tiêu nghiên cứu, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, Báo

cáo tông hợp được bố cục thành 4 chương, 14 mục. Chương | gồm 3 mục nghiên cứu một số van đề lý luận về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật sé.

Chương 2 gồm 3 mục nghiên cứu quy định của pháp luật quốc tế về bảo hộ <small>7</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Chương 3 gồm 5 mục nghiên cứu và rút ra một số kinh nghiệm tốt của một số quốc gia trên thé giới về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số. Chương 4 gồm 3 mục nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực tiễn bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số của Việt Nam và đề ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật só.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>CHƯƠNG 1</small>

MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE BẢO HỘ QUYEN TÁC GIÁ TRONG MOI TRUONG KY THUAT SO

1.1. Khái niệm, nội dung và đặc điểm của quyền tác giả 1.1.1. Khái niệm quyên tác giả

Quyền tác giả là một một loại quyền sở hữu của một chủ thé pháp lý đối với đôi tượng là các tác phẩm văn hoc và nghệ thuật. Quyền tác giả cũng là một loại quyền sở hữu trí tuệ (Intellectual Property Rights) cũng giỗng như các loại quyền sở hữu trí tuệ khác như quyên đối với sáng chế, quyền đối với giải pháp

hữu ích hay nhãn hiệu hàng hóa. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật là đối tượng

của quyền tác giả bao gồm các tác phẩm văn học như bài báo, sách, truyện ..., các tác phẩm nghệ thuật như bài hát, bản nhạc, bức tranh, ảnh, phim ... Chủ thể

của quyền tác giả là người sáng tạo, hoặc người sở hữu tác phẩm văn học, nghệ <small>thuật.</small>

Với tư cách là một loại quyền sở hữu, quyền tác giả đem đến cho người

sáng tạo, chủ sở hữu các tác phẩm văn học nghệ thuật các quyền pháp lý nhằm

ngăn chặn hay cho phép những người khác sử dụng các tác phẩm sáng tạo của họ trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu ai đó vi phạm quyền tác giả thì tác

giả hoặc chủ sở hữu có thể kiện ra cơ quan có thấm quyên dé yêu cầu người vi phạm bồi thường, qua đó bảo vệ các lợi ích hợp pháp của mình. Điều đặc biệt

hơn, tác giả không can đăng ký dé thụ hưởng quyền tác giả mà chi cần thỏa mãn

ba điều kiện. Thứ nhất, tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm. Thứ hai, tác phẩm

được thé hiện dưới một hình thức vật chất nhất định. Thứ ba, tác phẩm phải được

thé hiện trên một lãnh thé ở đó bảo hộ quyền tác giả. Như vậy, nếu một nguoi viết một bài báo hay ghi âm một bài hat và cho công bố ở một quốc gia bảo hộ

quyên tác giả, ví dụ Việt Nam, thì người đó sẽ ngay lập tức có quyền tác giả đối

với tác pham đó mà khơng cần đăng ky với bat kỳ cơ quan hay tô chức nào. Với quyền tác giả, một người có quyền đứng tên bài báo, cho phép người khác sao chép, chỉnh sửa bai báo và nhiều quyền pháp lý cụ thé khác. Người đó cũng có

<small>9</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

thể dùng quyền tác giả để ngăn chặn người khác sao chép, chỉnh sửa ... tác phẩm

<small>của mình.</small>

Như vậy, có thể định nghĩa quyền tác giả là khả năng được pháp luật bảo hộ cho tác giả, chủ sở hữu tác phẩm độc quyền khai thác lợi ích vật chất và tinh thần từ các tác phẩm văn học, nghệ thuật do mình sáng tạo ra hoặc sở hữu.

Vậy, ngun do gì mà tác giả lại có quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật mà họ sáng tạo ra? Câu trả lời được nhiều người đưa ra là do lao dong’. Hoạt động sáng tạo mặc dù có thé xảy ra bat chợt trong một giây khắc lóe sáng của tài năng song trong phan lớn trường hợp là kết quả của một quá trình

lao động của tác giả. Dé viết một tác phẩm văn học, nghiên cứu hoặc vẽ một bức

tranh người sáng tác phải mat hàng tuần, thậm chí hàng thang, hang năm trời

miệt mài lao động. Ngay cả trong những trường hợp thời gian sáng tác là rất

ngắn thì lao động sáng tạo vẫn được công nhận. Bên cạnh “lao động”, quyền tác

giả cịn được hình thành dựa trên lý thuyết “ngun nhân — kết quả”. Khơng có người sáng tác thì sẽ khơng có tác phẩm văn học, nghệ thuật, do đó tác phẩm phải thuộc về người sáng tác.

1.1.2. Nội dung của quyền tác giả

Mặc dù quyền tác giả là “chủ quyền” của người sáng tạo hoặc sở hữu đối với sản phẩm của mình song đây chi là quyền trừu tượng. Dé được bảo vệ thì quyền tác giả được cụ thể hóa thành các quyền pháp ly mà pháp luật quốc tế hoặc quốc gia quy định cho tác giả hoặc chủ sở hữu tác phẩm văn học, nghệ

thuật, ví dụ tác giả có quyền đứng tên tác phẩm hay khơng, có quyền độc quyền chỉnh sửa, cho phép sao chụp tác phâm hay không ... Trong thực tiễn, chính các

quyền pháp lý cụ thể của quyền tác giả là đối tượng mà tòa án bảo vệ cho tác giả. Nói cách khác, thơng qua việc bảo vệ các quyền pháp lý cụ thé mà quyên tác giả

<small>' Xem Justin Hughes, The philosophy of intellectual property (Ly luận về quyên sở hữu tri</small>

<small>tué), 77 Geo. L. J. (1988), trang 287.</small>

<small>10</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

được bảo hộ. Chính vì vậy số lượng và nội dung các quyền pháp lý cụ thé thé hiện phạm vi mà quyên tác giả được bảo hộ ở cấp quốc gia hoặc quốc tế.

Pháp luật quốc gia và quốc tế hiện tại thường công nhận và bảo hộ nội dung quyền tác giả gồm hai nhóm quyền là quyền nhân thân (quyên tinh than) và quyền tài sản (quyền kinh tế)”:

- Các quyên nhân thân của tác giả bao gồm quyên đặt tên cho tác phẩm, đứng tên tác pham, công bố tác phẩm, cho phép người khác công bố tác phẩm, sửa chữa hoặc không sửa chữa tác phẩm, cho người khác sửa chữa tác phẩm,

không cho người khác sửa chữa tác phâm. Phần lớn các quyền nhân thân luôn gan với tác giả mà không thê chuyển giao được cho người khác, đó là các quyền nhân thân phi tài sản như quyền đứng tên tác giả, quyền đặt tên tác phẩm và quyền ngăn cam hay cho phép người khác sửa chữa tác phẩm. Các quyền nhân

thân gắn liền với tài sản ví dụ quyền cơng bồ tác phẩm, có thé được chuyên giao cho người khác và thu lợi ích vật chất.

- Các quyên tài sản đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật là các quyền mà người sáng tạo có để khai thác lợi ích vật chất do tác phẩm văn học, nghệ thuật

mang lại. Quyền sao chép tác phẩm, quyền dịch tác phẩm hoặc làm tác phẩm

phái sinh từ tác phẩm gốc là các quyền tai sản quan trọng nhất, tiếp theo đó là

các quyền như biểu diễn, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao của tác phẩm. Trong kỷ nguyên số hiện nay, pháp luật quốc tế và quốc gia thường công

nhận thêm quyền truyền thông bản thân tác phẩm tới công chúng (communication to the public of their works’) thay vi chỉ có quyền truyền thơng

tới cơng chúng sự trình diễn tác phẩm (communication to the public of the performance of their works’).

<small>? Luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam (2005, sửa đổi, bố sung năm 2009) sử dụng thuật ngữ“quyền nhân thân” và “quyền tài sản”. Công ước Berne (1886) sử dụng các thuật ngữ tươngứng là “quyên tinh than” và “quyền kinh tế”.</small>

<small>> Điều 8, Hiệp định bản quyền của WIPO (WIPO Copyright Treaty).* Điểm ii, Khoản 1, Điều 11, Công ước Berne (1886).</small>

<small>I1</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

1.1.3. Đặc điểm của quyên tác giả

Quyền tác giả là một loại quyền pháp lý, tức là nó được pháp luật quy định và được các cơ quan có thâm quyền bảo vệ. Vi phạm đối với quyền tác giả đều bị coi là vi phạm pháp luật và đều có thé bị áp dụng chế tài dé khắc phục theo quy định của pháp luật. Ở đặc điểm này quyền tác giả cũng giống các quyền

pháp lý khác. Tuy nhiên, so với các quyền pháp lý khác thì quyền tác giả có một

số đặc điểm đặc trưng sau.

Thứ nhất, quyền tác giả bảo vệ sự sáng tạo của tác giả đối với các sản

phẩm trí tuệ vơ hình. Tác giả được hưởng quyền tác giả không chỉ bởi vi họ đã làm ra tác phâm mà bởi vì sự sáng tạo chứa đựng trong tác phẩm mà họ đã tạo ra. Một người chép lại hoặc đánh máy lại một cuốn sách của một tác giả khác cũng có thé gọi là đã tạo ra cuốn sách cụ thé đó song khơng thé có qun tác giả

đối với cuốn sách đó. Thậm chí hành vi này cịn bị coi là đạo văn. Bởi lẽ những lời văn của cuốn sách, tức là nội dung cuốn sách, là do người khác nghĩ ra đầu

tiên, đó là người đã sáng tạo ra cuốn sách và là tác giả đích thực của cuốn sách.

Đối tượng đã được sáng tạo ra ở đây, cuốn sách — đối tượng của quyền tác giả, là

một sản phẩm trí tuệ vơ hình chứ khơng phải hữu hình như cái bàn, cái ghé, cải

xe máy, ô tô cụ thé. Ở đặc điểm này, quyền tác giả cũng giống với các quyền sở hữu trí tuệ khác như quyền đối với sáng chế, nhãn hiệu hàng hóa .v.v.

Thứ hai, đối tượng của quyền tác giả là các tác phẩm được sáng tạo ra <small>trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn học, điện ảnh .v.v.</small> Ở khía cạnh này, quyên tác giả khác với các loại qun sở hữu cơng nghiệp vốn

có đối tượng là các sản phẩm trí tuệ được sáng tạo ra để ứng dụng trong công nghiệp và thương mại. Các tác phẩm văn học, nghệ thuật được con người sáng tạo ra dé phục vụ nhu cau thưởng thức, giải tri. Có ít đối tượng của qun tác giả có tính ứng dụng trong cơng nghiệp (ví dụ phần mềm máy tính). Trong khi đó, các đối tượng của quyền sở hữu công nghiệp như nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng

<small>công nghiệp có tính ứng dụng và giá trị sinh lời cao trong thương mại và công</small>

<small>12</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

nghiệp. Sự khác biệt này có tác động rất lớn tới phương thức bảo vệ lợi ích có được từ quyền sở hữu trí tuệ. Với quyền tác giả người ta quan tâm nhiều hơn tới quyền sao chép tác phẩm; với quyền sở hữu công nghiệp, người ta quan tâm nhiều hơn tới quyền được chuyền giao sản phẩm sở hữu công nghiệp.

Thứ ba, quyền tac giả chỉ bảo hộ về hình thức thé hiện của ý tưởng, khơng bảo hộ bản thân ý tưởng. Đây cũng là đặc thù của quyên tác giả. Khi một cuốn sách được bảo hộ bởi quyền tác giả thì cái được bảo hộ là lời văn, cách hành văn của cuốn sách. Bản thân nội dung câu truyện, cách xây dựng, bố cục của cốt truyệt là ý tưởng của cuốn sách, mặc dù là phần cốt lõi của cuốn sách, song không được bảo hộ. Điều đó có nghĩa là người khác có thể sử dụng cốt truyện như vậy, sử dụng tuyến nhân vật như vậy mà không vi phạm quyền tác giả. Chỉ

khi nào sao chép y nguyên lời văn của tác phẩm thì khi đó mới bị coi là vi phạm

quyền tác giả. Một ví dụ khác, một người nghĩ ra một phương thức kinh doanh

mới rất có hiệu quả, đem lại thành cơng trong kinh doanh. Người đó viết ra một

cuốn sách để truyền bá ý tưởng của mình. Một người chủ doanh nghiệp đọc được cuốn sách, sau đó đem áp dụng ý tưởng kinh doanh vào doanh nghiệp của mình và đạt được thành cơng lớn. Ở đây, người chủ doanh nghiệp này thực chất đã

không vi phạm quyền tác giả mặc dù sử dụng ý tưởng kinh doanh của người khác mà không xin phép. Quyên tác giả chỉ bảo hộ hình thức thể hiện, trong trường hợp này chính là bản thân cuốn sách. Do đó chỉ khi nao cuốn sách bị sao

chép thì khi đó quyền tác giả mới bị xâm phạm.

1.2. Khái niệm va đặc điểm của bảo hộ quyền tác giả

1.2.1. Khai niệm và mục dich của bảo hộ quyên tác giả

Bảo hộ quyên tác giả là việc Nhà nước công nhận quyên của tác giả đối

với tác phâm, quy định và bảo vệ cho tác giả các quyền pháp ly cụ thê đối với tac

phẩm nhằm làm cho tác giả thực sự hưởng được các lợi ích vật chất và tinh thần

<small>có được từ quyên tác giả.</small>

<small>13</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Con người sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật từ rất lâu đời. Có lẽ từ khi lồi người có nền văn minh thì đã có các tác phẩm thi ca, sau đó là hội họa và văn học. Thủa ban đầu, các tác phẩm thi ca thường được truyền khâu từ thế hệ này sang thế hệ khác, các tác phẩm văn học thường tồn tại dưới các cuốn sách bằng da, bằng gỗ khắc hoặc chép tay, các tác phẩm hội họa hầu như chỉ có độc bản vẽ trên vách đá hoặc những nơi công cộng. Việc sao chép các tác phẩm thời kỳ này nếu muốn thực hiện sẽ tốn rất nhiều công sức, chủ yếu bằng việc chép lại bằng tay. Tinh thương mai của tác pham cũng chưa thê hiện rõ rệt. Vì vậy tác giả của các tác phâm nói chung chưa quan tâm tới vẫn đề quyền tác giả.

Vào khoảng giữa Thế kỷ 15, Johannes Gutenberg, một thợ cơ khí và là nhà xuất bản tiên phong người Đức đưa công nghệ in ấn vào Châu Âu. Thực ra,

kỹ thuật in ấn đã được biết đến từ trước đó ở Trung Quốc song đến Thế ky 15

Gutenberg áp dụng kỹ thuật cơ khí để đưa cơng nghệ va dây chuyền in áp dụng

đại trà, trở thành một ngành công nghiệp vô cùng tiềm năng ở Châu Âu. Các tác

phẩm văn học giờ đây có thé được nhân bản một cách dé dang hơn rất nhiều so với trước với hiệu suất và chất lượng hầu như không thua kém tác phẩm gốc. Người dân được tiếp cận dé dàng hon với tác phẩm văn học, đi cùng với đó là tính thương mại của tác phẩm cao hơn và kha năng xâm phạm tới tác pham, bang cách nhân bản trái phép, trở nên tiềm tàng hơn. Nhu cầu bảo hộ quyền tác giả đối

VỚI tắc phẩm văn học bắt đầu xuất hiện. Quốc gia đầu tiên công nhận và bảo hộ

quyền tác giả khi đó là Cộng hịa Venice’. quyền tác giả được cấp dưới dang

giấy phép in sách trong một khoảng thời gian không xác định. Sau khi công nghiệp in được du nhập vào Vương quốc Anh và ngày càng lớn mạnh, Vương

quốc Anh cũng bắt đầu công nhận và bảo hộ quyền tác giả. Năm 1710, Vương

quốc Anh ban hành Đạo luật Anne cấp cho các tác giả độc quyền kiểm sốt việc

tái bản cơng trình của họ trong vịng 14 năm và có thể được gia hạn thêm 14

<small>° Cộng hoa Venice (The Republic of Venice) là một nước cộng hòa nam trong pham vi lanh</small>

<small>thô Italia ngày nay. Cộng hoa Venice tôn tại từ năm 697 đên 1797.</small>

<small>14</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

năm. Trong cùng khoảng thời gian đó, Châu Âu lục địa cũng bắt đầu bảo hộ quyền của tác giả với cách tiếp cận riêng trong đó bảo hộ cả các quyền vật chất

và quyên nhân thân. Đến năm 1790, Hoa Kỳ mới ban hành Đạo luật quyền tác

gia đầu tiên theo mẫu hình của Đạo luật Anne quy định độc quyên của tác giả đối với sách, bản đồ và biểu mẫu trong vịng 14 năm, có thé được gia han 14 năm.

Từ khoảng cuối Thế kỷ 19 đến cuối Thế kỷ 20, công nghệ analog” được áp

dung đã dem lại những thay đôi vô cùng lớn trong các ngành công nghiệp in ấn,

giải tri, nhiều sản phẩm văn học, nghệ thuật mới được ra đời như nhiếp ảnh, điện

ảnh, ghi âm, truyền thơng, truyền hình, ảnh vệ tinh, tac phẩm kiến trúc, tác phẩm

điêu khắc.... Phạm vi quyên tác giả lúc này khơng cịn bị giới hạn đối với các tác

phẩm trên giấy nữa. Công nghệ analog cũng làm cho việc sao chép các tác pham văn học, nghệ thuật trở nên dễ dàng hơn trước rất nhiều. Các tác phẩm văn học,

sách có thé được sao chụp nhanh chóng bởi các máy photocopy, các tác phẩm

âm nhạc, điện ảnh có thể được ghi sang bản ghi khác trên đĩa băng từ một cách hết sức dé dàng, tốn ít thời gian hơn. Dé ứng phó với tình trạng nay, các quy

định bảo vệ quyên tác giả của các quốc gia bắt đầu được mở rộng, chủ yếu là gia

tăng số lượng các quyên vật chất. Thời gian bảo hộ quyên tác giả cũng được kéo

dai tới 50 năm sau khi tác giả qua đời. Các điều ước quốc tế về quyền tác giả, vi dụ Công ước Berne, cũng được ký kết giữa các quốc gia nhằm bảo đảm sự bảo

hộ quyền tác giả trên phạm vi quốc tế”.

Thoạt nhìn sẽ thấy qun tác giả chủ yếu có tác dụng bảo vệ người sáng

tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật. Quyền tác giả cũng đem lại sự bù dap vat chat, thậm chi là bu đắp một cách đáng kể cho người sáng tao hoặc chủ sở hữu tác

phẩm. Với những tác phẩm có giá trị vật chất lớn như những bộ phim bom tan

của Hollywood hay những phần mềm trị giá hàng tỷ USD, quyền tác giả dường <small>5 Công nghệ analog là công nghệ tương tự.</small>

<small>7 Jerry Jie Hua, Toward a more balanced approach: rethinking and readjusting copyright</small>

<small>systems in the digital network era, Springer, 2014, trang 3.</small>

<small>15</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

như đem lại và bao dam giá trị vật chất rat đáng ké cho người nam giữ nó. Tuy nhiên, xét từ góc độ lý luận, việc công nhận va bảo vệ quyên tác giả, cũng giống như việc công nhận và bảo vệ các quyền sở hữu trí tuệ khác, nhằm 2 mục dich’:

- Thứ nhất, bảo hộ quyền tác giả nhằm khuyến khích hoạt động sáng tạo của người sáng tạo, hay nói cách khác là khuyến khích sự sáng tạo trong cộng đồng. Khi pháp luật có thé bảo vệ cho các chủ thể quyén khai thác lợi ích vật chất từ tác phẩm và khơng ai khác có thể khai thác tác phẩm mà khơng có sự đồng ý của tác giả” thì mọi người trong xã hội sẽ cảm thấy yên tâm sáng tác. Từ đó mọi người đều có động lực sáng tạo và qua đó khuyến khích cả cộng đồng

sáng tạo. Nếu pháp luật không bảo hộ được quyền tác giả, tác phâm có thé bị sao

chép, khai thác trái phép mà tác giả không thé làm gi thi lúc đó tác gia chỉ có thể

sáng tạo vì niềm đam mê. Hoạt động sáng tạo nói chung trong cộng đồng sẽ

khơng được khuyến khích, thậm chí bị thui chột. Các doanh nghiệp, ví dụ doanh

nghiệp phần mềm sẽ khơng muốn dau tư lớn dé cho ra đời những tác phâm có <small>giá tri.</small>

- Thi hai, bảo hộ quyền tác giả nhằm tạo điều kiện cho sự tiếp cận một

cách thích hợp của cộng đồng đối với các tác phẩm. Bản thân việc bảo bộ cho tác

giả khả năng khai thác độc quyền lợi ích vật chất từ tác phẩm đã gián tiếp khuyến khích tác giả đưa tác phẩm lưu hành trong cơng chúng, qua đó cơng

chúng tiếp cận với tác phẩm. Việc quy định một thời han bảo hộ nhất định đối

với tác pham cũng có tác dụng hai chiều. Bên cạnh việc bảo đảm cho người sáng tạo được độc quyền kiểm sốt tác phẩm của mình trong khoảng thời gian được bảo hộ, cơng chúng cịn được tiếp cận miễn phí đối với sản phẩm sau khi thời gian bảo hộ kết thúc.

<small>* Xem Lewis a. Kaplan, Copyright and the Internet (Quyển tác giả và Internet), 22 Temp.</small>

<small>Envtl. L. & Tech. J. (2003), trang 1; Trisha Meyer, Graduated response in France: The clash of</small>

<small>copyright and the Internet (Phản ứng từ từ của Pháp: sự va đập giữa quyền tác giả vaSinerney), Journal of Information Policty 2 (2012), trang 107-127, tai trang 109.</small>

<small>” Marlize Jansen, Protecting copyright on the Internet (Bảo vệ quyén tác giả trên Internet), 12</small>

<small>Juta’s Bus. L. trang 100-103, tai trang 100.</small>

<small>16</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

1.2.2. Đặc điểm của bảo hộ quyên tác giả

Vì quyền tác giả là một quyền pháp lý nên việc bảo hộ quyền tác giả cũng mang đặc điểm của việc bảo hộ quyền pháp lý nói chung, nghĩa là sự bảo hộ do Nhà nước bao đảm đối với người chủ sở hữu quyền tác giả. Bên cạnh đó, bảo hộ quyền tác giả cịn có những đặc điểm sau.

Thứ nhất, bảo hộ quyền tác giả là sự bảo hộ dành cho tác giả, người đã sáng tạo ra tác phẩm. Điều này ngày nay được xem là đương nhiên song trong

lịch sử hình thành và phát triển của quyền tác giả thì khơng phải lúc nào cũng

như vậy. Vào nửa đầu Thế kỷ thứ 16, khi công nghệ in mới ra đời và van dé quyền đối với các bản in sách bắt đầu được quan tâm, chủ thé được trao độc quyền đối với sách không phải là tác giả cuốn sách mà là nhà xuất bản của cuốn sách. Quyền này về thực chất là độc quyền sao chép, nhân bản sách. Cái tên “Copyright” (Bản quyền) được ra đời từ đó. Sau đó, khi ngành cơng nghiệp in

ngày càng phát triển, sự cạnh tranh giữa các NXB ngày càng lớn và tác giả, người sáng tạo ra tác phâm, dân trở thành người chủ đích thực đầu tiên của tác

phẩm và cũng là chủ thé của quyền tác giả ”. Kê từ đó thuật ngữ “Author’s right”

(Quyên tác giả) bắt đầu được sử dụng.

Thứ hai, bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ tự động. Đề được bảo hộ quyền tác giả đối với một tác phẩm, tác giả của tác phẩm đó khơng phải đăng ký với bat kỳ cơ quan nhà nước nao. Sự bảo hộ của một quốc gia đối với tác giả của một tác phẩm mang tính đương nhiên, tự động miễn là tác phẩm được công bố trên lãnh thổ của quốc gia đó. Đây là đặc thù của việc bảo hộ quyền tác giả. Đối với các loại quyền sở hữu công nghiệp, như sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hóa, để được bảo hộ, người chủ của các đối tượng sở hữu công nghiệp này

phải đăng ký đối tượng sở hữu cơng nghiệp của mình tại các cơ quan nhà nước

có thầm quyền và sau đó nhận được một khoảng thời gian bảo hộ nhất định. Đối

<small>'° Xem Nguyễn Vân Nam, Quyền tác giả - Đường hội nhập không trai hoa hồng, NXB Trẻ,</small>

<small>2016, trang 38-40.</small>

<small>17</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

với quyền tác giả, không những không cần đăng ký mà thời gian bảo hộ cũng khơng bị giới hạn ít nhất là trong suốt cuộc đời của tác giả (trừ một số trường

<small>hợp ngoại lệ).</small>

Thứ ba, bảo hộ quyền tác giả mang tính lãnh thổ. Việc bảo hộ quyền tác giả là sự cam kết của một Nhà nước bảo vệ các quyền của người đã sáng tạo ra sản phẩm. Sự bảo hộ đó được quy định trong hệ thong pháp luật của quốc gia và được hiện thực hóa thơng qua các thiết chế pháp lý của quốc gia. Vì hệ thống pháp luật của quốc gia chỉ có hiệu lực trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của quốc gia nên sự bảo hộ qun tác giả cũng ln mang tính lãnh thổ. Điều đó có nghĩa là một tac phâm được bảo hộ với nội dung các quyền và cơ chế bảo hộ

như thế nào chỉ có hiệu lực trên phạm vi lãnh thổ của quốc gia mà thôi. Một hành vi có bị coi là vi phạm quyền tác giả đối với một tác phẩm hay không tùy

thuộc vào quy định của hệ thống pháp luật có hiệu lực trên phạm vi lãnh thơ của quốc gia nơi có yêu cầu bảo hộ chứ không phải của quốc gia nơi tác pham được công bé lần đầu hoặc nơi tác gia đang sinh sống.

1.3. Môi trường kỹ thuật số và thách thức của nó tới van đề bảo hộ quyền

<small>tác gia</small>

1.3.1. Sự hình thành và đặc điểm của mơi trường kỹ thuật số

Từ cuối Thế kỷ 20 sang Thế kỷ 21 xuất hiện một làn sóng cơng nghệ - làn sóng cơng nghệ số với sự ra đời và phố cập của máy tính cá nhân và mạng thơng tin tồn cầu Internet. Mơi trường kỹ thuật số đã và đang đem đến sự thay đổi một cách căn bản về cách thức sao chụp, sử dụng, trao đôi, lưu hành, phổ biến các tác

phẩm văn học, nghệ thuật. Điều này hứa hẹn thúc đây sự thay đổi lớn tới pháp

luật và cách thức tiếp cận đối với bảo hộ quyên tác giả.

Không giống môi trường tự nhiên hay mơi trường văn hóa, mơi trường kỹ

thuật số khơng phải là môi trường mà con người đã quen thuộc từ lâu. Mơi trường kỹ thuật số mới chỉ được hình thành từ khoảng vài thập kỷ trở lại đây.

Tuy nhiên, mơi trường kỹ thuật số đã nhanh chóng trở thành môi trường kỹ thuật <small>18</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

sống, sinh hoạt, làm việc thiết yếu của con người hiện đại. Hàng ngày chúng ta sử dụng điện thoại thông minh, kết nối vào Internet tra cứu, tìm kiếm, đọc lượng thông tin trực tuyến không 16. Dù ở bat cứ đâu chúng ta cũng có thé sử dụng máy tinh dé bàn, máy tính xách tay cho cơng việc, liên lac qua thu điện tử, xem phim,

nghe ca nhạc giải trí... Có thé nói cuộc sống hiện đại khơng thé thiếu việc sử

dụng các cơng cụ trao đơi, tìm kiếm thông tin. Môi trường kỹ thuật số được tạo thành bởi hai nhân tố chính, đó là máy tinh cá nhân va Internet!

Ra đời và được phổ biến qua con đường thương mại hóa vào những năm 1980, máy tinh cá nhân thực sự là khởi nguồn cho sự hình thành mơi trường kỹ

thuật số. Với những chiếc máy tính cá nhân, con người có một mơi trường tương <small>tác mới, với giao diện tương tác mới. Con người soạn thảo văn bản, lập bản vẽ</small> thiết kế, sáng tác âm nhạc, làm phim với một cách thức hiệu quả và nhanh chóng

chưa từng có tiền lệ trước đó. Cùng với máy tính cá nhân là một hệ thống vơ tận các phần mềm giúp cho con người thực hiện các công việc, đặc biệt là công việc

sáng tác, ngày càng hiệu quả hơn. Nha văn có thé soạn tác phẩm của mình trong một thời gian ngắn hơn và ít cơng sức vật chất hơn; kiến trúc sư có thé tạo ra thiết kế của minh mà tốn ít cơng tây, xóa hay xé bỏ những bản vẽ lỗi dé rồi bắt

đầu lại từ đầu sau mỗi lần như vậy. Các máy tính cá nhân ngày càng hiện đại

hơn, mạnh mẽ hơn, chuyên nghiệp hơn. Các biến thể của máy tính ngày càng

phong phú hơn, có những loại máy tính chun dé bàn, có những loại máy tính xách tay, máy tính bang mà con người có thé sử dụng hầu như ở bat kỳ nơi nào,

trong bất kỳ tình huống nào và phục vụ các nhu cầu đa dạng của mình. Các phần mềm cũng ngày càng phức tạp hơn, hỗ trợ người dùng thực hiện những thao tác

ngày càng khó hơn với chất lượng cao hơn. Hệ thống gần như vô tận các phần

<small>!! Vanessa Van Coppenhagen, Copyright and the WIPO Copyright Treaty, with specific</small>

<small>reference to the rights applicable in a digital environment and the protection of technological</small>

<small>measures (Quyên tác giả và Hiệp định quyên tác gia cua WIPO, với sự liên hệ cu thể tới các</small>

<small>quyên áp dụng trong môi trường kỹ thuật số và sự bảo vệ các biện pháp công nghệ), 119 S.African L.J. 429, 452 (2002), trang 430-431.</small>

<small>19</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

mềm có thể đáp ứng gần như mọi nhu cầu của con người, từ làm việc tới giải trí, từ giao tiếp, trao đổi thông tin tới phố biến thông tin, ý tưởng, quan điểm cá

nhân. Máy tính và các phần mềm trong đó tạo ra một mơi trường mà hàng ngày <small>con người làm việc, sinh hoạt, học tập, nghiên cứu, giải trí trong đó. Đó chính là</small> một phần của mơi trường kỹ thuật só.

Phần cịn lại, quan trọng hơn, chiếm vai trị nơi bật hơn, của mơi trường kỹ

thuật số là Internet. Internet bao gồm một số mạng khác nhau có liên kết với nhau và cùng nhau kết nối hàng trăm triệu máy tính trên tồn thế giới. Một tên

<small>gọi khác của Internet là Siêu xa lộ thông tin Unformation Supershighway).</small>

Internet bắt đầu được định hình từ năm 1969 bởi một dự án của Chính phủ Hoa Kỳ, ARPNET, được thiết kế dé hỗ trợ thông tin liên lạc khi diễn ra thảm họa

hạt nhân ở Hoa Kỳ. Từ năm 1980, mạng ARPNET kết nối với một số mạng khác và mở rộng phạm vi người sử dụng theo phương thức TCP/IP.'“ Năm 1993,

1994, Mạng toàn cầu (World Wide Web (WWW)) chính thức được thiết lập cùng với các tổ chức vận hành Internet. Vào những năm 1970 mới chỉ có 3 mạng

vận hành trên Internet thì cho tới năm 1996 con số đó đã tăng lên 50.000. Ngày nay, con số đó đã trở thành khơng đếm được. Khơng có một tơ chức đơn lẻ nào

kiểm sốt hồn tồn Internet và Internet cũng khơng có một cơ sở tập trung đữ liệu duy nhất. Vì vậy, khơng ai có thể kiểm sốt được đữ liệu cũng như nội dung thông tin trên Internet. °

Thông thường, Internet được biết đến như một khơng gian mà ở đó con

người có thể trao đổi, tìm kiếm thơng tin, gửi thư tín, xem phim, nghe nhạc, bày <small>tỏ quan điêm cá nhân... Tuy nhiên, cơng năng của Internet cịn lớn hơn rât nhiêu</small>

<small>'2 TCP/IP là viết tắt của cụm từ Transmission Control Protocol/Internet Protocol. TCP/IPđiều khiển truyền thông giữa tat cả các máy tính trên Internet. Cụ thé hon, TCP/IP chi rõ cáchthức đóng gói thơng tin (hay cịn gọi là gói tin), được gửi và nhận bởi các máy tinh có kết nốivới nhau. TCP/IP được phát triển vào năm 1978 bởi Bob Kahn và Vint Cerf</small>

<small>!3 Uy ban Châu Au, Green paper on copyright and related rights in the information society</small>

<small>(Sách xanh về quyên tác giả và quyén liên quan trong xã hội thông tin), Brussels, 19/7/1995,trang 19, 20.</small>

<small>20</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

những gi có thé liệt kê ra. Ngay từ những năm đầu tiên khi Internet trở nên phổ biến, Liên minh Châu Âu đã đánh giá Internet sẽ là nơi cung cấp các dịch vụ mang tính cách mạng, bao gồm tat cả các tính năng của công nghệ thông tin, liên lạc viễn thông và công nghệ truyền hình. Internet có thể phát huy những tính

năng cơ bản sau `:

- Trên Internet có thê lưu trữ lượng dữ liệu không lồ và truy cập, truy cứu

kho dit liệu đó là hết sức dé dàng, nhanh chóng. Dữ liệu được lưu trữ rất phong phú, bao gồm cả các loại tác phâm truyền thống và phi truyền thống (ví dụ phan mềm). Dữ liệu cũng có thé bao gồm cả các sản pham đa phương tiện, tức là kết

<small>hợp các loại hình văn học, nghệ thuật khác nhau, từ hội họa, tranh ảnh, âm nhạc</small>

- Các dịch vụ từ Internet có thể được cung cấp theo phương thức tương tác, nghĩa là mỗi người sử dụng dịch vụ đầu cuối có thể nhận các nội dung dịch vụ khác nhau. Điều này khác với phương thức cung cấp dịch vụ truyền hình

truyền thống tức là nội dung dịch vụ cô định từ trung tâm và tất cả người sử

dụng đầu cuối nhận được cùng một nội dung dịch vụ như nhau.

- Phạm vi dịch vụ có thể cung cấp từ Internet là vô cùng phong phú, từ

làm việc từ xa, ngân hàng trực tuyến, mua bán trực tuyến, báo chí điện tử, giải trí, thư viện, chương trình giáo dục từ xa, cá cược trực tuyến, du lịch từ xa...

- Các lĩnh vực có thể sử dụng Internet rất đa dạng, bao gồm hầu hết lĩnh vực mà con người tham gia trong cuộc sống hàng ngày, ví dụ làm việc, thơng tin

<small>và dao tạo, mua hàng trực tuyên, theo dõi, chăm sóc sức khỏe, vui chơi, giải trí.</small>

<small>'4 Ủy ban Châu Au, Green paper on copyright and related rights in the information society</small>

<small>(Sách xanh về quyên tác giả và quyén liên quan trong xã hội thông tin), Brussels, 19/7/1995,trang 19, 20.</small>

<small>21</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

1.3.2. Thách thức của môi trường kỹ thuật số với van dé bảo hộ quyên tác

Với những đặc điểm như trên, thực sự mơi trường kỹ thuật số đã và đang có tác động sâu sắc tới lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả. Những tác động đó có cả hai chiều. Ở chiều tích cực, có thể nói mơi trường kỹ thuật số có thể góp phần quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật một cách rộng rãi và trực tiếp hơn tới cơng chúng. Với các tính năng phong phú của Internet và phần mềm máy tính, các tác phẩm văn học, nghệ thuật cũng có thê được chuyên thể một cách thuận tiện và đầy sang tạo, qua đó đem lại lợi ích nhiều hơn cho người sáng tạo.

Tuy nhiên, bên cạnh những điểm tích cực, mơi trường kỹ thuật SỐ cũng đặt ra nhiều thách thức từ nhiều chiều, nhiều khía cạnh đối với van dé bảo hộ quyền tác giả, từ việc xác định tính chính thống của quyên tác giả, đến sự điều chỉnh

các khái niệm truyền thống về quyền tác giả, sự xuất hiện của các tác pham mới cần bảo hộ quyên tác giả, cho đến van đề khó khăn đặt ra khi bảo vệ quyên tác

* Thách thức đối với mục đích của việc bảo hộ quyền tác giả

Như trên đã dé cập, việc bảo hộ quyên tác giả nhăm hai mục đích: khuyến

khích sự sáng tạo của tác giả và hỗ trợ sự tiếp cận của công chúng đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật. Sự ra đời của Internet đã khơi gợi những luéng quan

điểm thách thức trực tiếp mục đích của việc bảo hộ quyên tác giả.

Luéng quan điểm thứ nhất của những người theo lý thuyết về tự do. Luồng

quan điểm này cho rằng Internet là mơi trường trao đổi thơng tin, đó là siêu xa lộ thông tin. Trên Internet, thông tin được trao đôi với tốc độ nhanh và với sự thuận

tiện chưa từng có. Nếu quá coi trọng bảo hộ quyền tác giả trên Internet thì sẽ dẫn

tới hậu quả hạn chế sự trao đơi thơng tin, bởi vì sự phát tán thơng tin trên

Internet cũng có thể được coi là sao chép bất hợp pháp thơng tin. Trong khi đó, nhu cầu trao đôi thông tin là nhu cầu cơ bản của con người, quyền được trao đổi

thông tin đã trở thành quyền con người. Vì vậy, sự thuận lợi và tự do trong việc <small>22</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

trao đôi thông tin trên Internet là một yếu tố phải được coi trọng chứ không phải van đề bảo hộ quyền tác giả! Š.

Luông quan điểm thứ hai của những người theo lý thuyết về dân chủ.

Luéng quan điểm này cho răng Internet thúc đây quyền tự do ngôn luận, tuy

nhiên quyền tác giả lại có thé được sử dụng dé ngăn chặn sự trao đôi những tư

tưởng đã được thê hiện ra, như vậy là gián tiếp hạn chế quyên tự do tư tưởng. Chính vì vậy, quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số phải được xem xét lại ngay từ nền tang lý luận về quyền sở hữu trí tuệ dé khơng gây ảnh hưởng tiêu cực tới sự vận hành của các nguyên tắc dân chủ “.

Hai quan điểm này, tất nhiên, không phải là những quan điểm chủ đạo.

Thực tế là quyền tác giả vẫn đang ngày càng được coi trọng hơn trong môi

trường kỹ thuật số. Tuy nhiên, những ý kiến này cũng cho thấy sự ra đời của môi

trường kỹ thuật số thực sự đã tác động tới tận nền tảng lý luận truyền thống của quyền tác giả.

* Thách thức đôi với một số khái niệm thông thường về quyền tác giả

Pháp luật quốc gia và quốc tế về bảo hộ quyền tác giả được xây dựng dựa

trên một hệ khái niệm riêng biệt, ví dụ tác phẩm, tác giả, thời hạn bảo hộ, quyền

nhân thân, quyền tài sản .v.v. Sự hiện diện của mơi trường kỹ thuật số khó có thê thay đổi nhận thức về ban chất của các khái niệm. Tuy nhiên, như Ủy ban châu

Âu đã chỉ ra ngay trong những năm đầu khi mạng toàn cầu mới được hình thành,

<small>' Xem Tom Palmer, Are patents and copyrights morally justified? The philosophy of propertyrights and ideal objects (Sáng chế và qun tác giả có chính đáng khơng? Lý thuyết về quyéntài sản và các đối tượng lý tưởng), 13 Havard Journal of Law and Public Policy, 1990, trang</small>

<small>817-865; John Barlow, The Framework for economy of ideals: Rethinking patents andcopyrights in the digital age (Khuôn khổ cho tinh kinh té của các lý tưởng: Suy ngẫm về sáng</small>

<small>che và quyén tác giả trong thời dai số), WIRED, 1994, trang 83-97.</small>

<small>5 Paul Goldstein, Copyright and the First Amendment (Quyên tác giả và Tu chính án thứnhất), 70 Columbia Law Review, 1970, trang 983-1057; Neil Netanel, Copyright and ademocratic civil society (Quyển tác giả và xã hội dân sự dân chủ), 106 Yale Law Journal,</small>

<small>1996, trang 283-287.</small>

<small>23</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

môi trường kỹ thuật số có thé tác động đáng ké đến phạm vi giải thích các khái niệm đó!”

Thứ nhất, khái niệm “tác giả” có thê được giải thích theo hướng mở rộng hơn. Theo cách tiếp cận truyền thống, người sáng tạo vẫn thường được hiểu là các thể nhân, ví dụ họa sĩ sáng tác một bức họa, nhà văn viết một cuốn tiểu thuyết, nhạc sỹ sáng tác một bài hát. Nếu tác giả là một nhóm người thì đó cũng là một tập hợp của các thể nhân. Trong mơi trường kỹ thuật số, rất có thé có tác phẩm được tạo ra bởi rất nhiều người và theo một dây truyền, một quy trình phức

tạp chủ trì bởi một pháp nhân. Trong quy trình sản xuất một phần mềm sẽ khó có thé phân định được công sức của các cá nhân tới đâu va sản pham cuối cùng khó

có thé tao ra được nếu khơng có nỗ lực mang tính tơ chức của pháp nhân. Một ví

dụ khác là các sản phâm truyền thơng đa phương tiện, những tác phẩm được tạo

thành bởi nỗ lực và cách tổ chức của pháp nhân. Do vậy, các pháp nhân cũng có thé trở thành tác giả của tác phẩm văn học, nghệ thuật.

Tứ hai, khái niệm “tính nguyên gốc” (originality) thường được xác định

khá dé dàng đối với các tác phẩm văn học, nghệ thuật truyền thống. Một cuốn

tiêu thuyết, một bức tranh, một bài hát đều gắn với tên tác giả và người ta dễ

dàng xác định liệu tác giả có thực sự là người đã sáng tạo ra tác phẩm, hay nói

cách khác tồn bộ tác phẩm là do tác giả sáng tạo ra hay khơng. Tuy nhiên, các

tác phẩm kỹ thuật số có thể không vận hành theo cách như vậy. Một tác phẩm

truyền thơng đa phương tiện có thé được tao ra trên cơ sở ghép các tác phẩm

hoặc một phan của các tác phẩm khác. Trong trường hợp đó van đề sé là xác định mức độ lắp ghép như thế nào thì tác phẩm được coi là có tính ngun gốc. <small>Nhu vậy đặc điểm của tác phẩm kỹ thuật số đã “gây khó” cho việc xác định tính</small>

<small>ngun gốc của chính nó.</small>

<small>'7 Ủy ban Chau Au, Green paper on copyright and related rights in the information society</small>

<small>(Sách xanh về quyên tác giả và quyén liên quan trong xã hội thông tin), Brussels, 19/7/1995,trang 25.</small>

<small>24</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Thứ ba, khái niệm “cơng bố lần đầu tiên” cũng khó xác định trong môi trường kỹ thuật số. Thông thường, tác phẩm được đưa ra công chúng ở một quốc gia nào đó, thậm chí một địa điểm thuộc một quốc gia nao đó sẽ được coi là tac phẩm được cơng bố ở quốc gia đó. Tuy nhiên, mơi trường kỹ thuật số lại là môi

trường không biên giới và cũng không phải là môi trường vật chất thông thường. <small>Ranh giới không gian riêng và không gian công cộng trong mơi trường kỹ thuật</small>

số cũng khó xác định. Vi vậy, khó có thé dùng phương pháp truyền thống dé xác định một tác phẩm kỹ thuật số được “công bố lần đầu tiên” trong môi trường kỹ thuật số.

<small>Khái niệm “sử dụng vì mục đích cá nhân” cũng khó xác định được trong</small>

môi trường kỹ thuật số. Một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, việc làm một bản sao sách gốc dé phục vụ nhu cầu nghiên cứu khoa hoc của cá nhân không bị coi là vi phạm quyên tác giả. Đối với một cuốn sách in, kiểm soát việc làm một bản sao là tương đối dễ dàng. Tuy nhiên, trong môi trường kỹ thuật số thì việc

làm một bản sao để phục vụ mục đích sử dụng của cá nhân hay khơng đơi khi

khó xác định, ví dụ scan một cuốn sách dé đưa lên trang web cá nhân, hay copy

một bản sao của một sách điện tử để đưa lên trang web cá nhân. Người scan sách

cá nhân đưa lên trang web của mình có thê chỉ để cho bản thân nghiên cứu chứ

khơng nhằm mục đích để người khác có thể sao chụp lại. Tuy nhiên nếu cách thức lưu trữ trên mạng làm cho người khác có thể đọc được hoặc sao chụp được

thì việc lưu trữ ban đầu trên trang web cá nhân liệu có bị coi là vi phạm quyền

tác giả hay khơng. Trên thực tế thì việc lưu trữ như vậy cũng không khác việc mua một cuốn sách gốc rồi cho người khác mượn đọc. Tuy nhiên, người có quan

điểm bảo hộ quyền tác giả có thé lập luận rằng trong môi trường kỹ thuật số, việc

lưu trữ như trên là quá rủi ro cho tác giả bởi nó cho phép người khác dễ dàng sao

chụp tác phẩm mà không được phép của tác giả.

<small>* Tao ra các sản phâm mới cân bảo hộ quyên tac gia</small>

<small>25</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Cùng với sự phát triển của công nghệ analog, từ cuối Thế kỷ 19 đến cuối Thế ky 20 đã xuất hiện những loại hình tác phẩm văn học, nghệ thuật mới cần được bảo hộ quyên tác giả, ví dụ bai hát thu âm, chương trình phát thanh, truyền hình, tác phẩm nhiếp ảnh, điện ảnh ... Tương tự như vậy, trong thời kỳ kỹ thuật số cũng xuất hiện một số tác phẩm mới chưa từng có trước đó như các sản phâm truyền thơng đa phương tiện và phần mềm máy tính. Các sản phẩm này rõ ràng là các sản phẩm trí tuệ, có sự sáng tạo, có tính ngun gốc và do đó phải được bảo hộ sở hữu trí tuệ. Tuy nhiên, việc xếp các đối tượng này vào loại tác phẩm văn học, nghệ thuật dé được bảo hộ bởi quyền tác giả hay các sản phẩm sảng tạo

mang tính kỹ thuật để được bảo hộ bởi sáng chế hay giải pháp hữu ích cũng <small>khơng đơn giản.</small>

* Gây khó khăn lớn cho van dé bảo vệ quyên tác giả

Có thể nói trong mơi trường kỹ thuật số, tất cả các quyền sở hữu trí tuệ đều dễ bị xâm phạm hơn trong môi trường thông thường. Song quyền tác giả là quyền dé bị ton thương nhất. Thách thức lớn nhất đối với bảo hộ quyền tác giả trong kỷ ngun số cũng là ở khía cạnh này.

Lịch sử hình thành và phát triển của quyền tác giả như được trình bày trên

đây cho thấy cứ mỗi khi khoa học cơng nghệ phát triển thì lại đặt ra thách thức mới đối với van đề bảo vệ quyên tác giả và luật bảo hộ quyền tác giả lại phải

thay đổi dé đáp ứng các thách thức mới. Khi công nghệ in ra đời cũng là lúc phát

sinh nhu cầu bảo hộ quyên tác giả; khi công nghệ analog được áp dụng rộng rãi,

máy photocopy, máy ghi âm ra đời cũng là lúc van dé bảo vệ quyên tác giả được nâng lên một tam mức mới, không chi trong lãnh thổ quốc gia mà trên cả phạm

vi quốc tế. Khi công nghệ số được áp dụng và Internet ra đời, thách thức đối với vấn đề bảo vệ quyền tác giả lại được đặt ra với mức độ quan ngại chưa từng có. Vi phạm quyền tác giả giờ đây có thé được thực hiện một cách vơ cùng dé dàng, với mức độ phát tán lớn và rất khó bị phát hiện. Một cuốn sách giờ đây có thé

<small>được scan và sau đó phát tán một cách khơng giới hạn trên Internet. Một bài hát26</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

thu âm có thé được sao chép trong thời gian chưa tới một giây. Một bộ phim với dung lượng nhiều lần lớn hơn nhưng cũng chỉ cần chưa tới 5 phút để tạo một bản sao, các chương trình phần mềm máy tính cũng vậy. Internet hiện nay có hàng tỷ người dùng, chỉ bằng một cú nhấp chuột, vô vàn người dùng có thê tiếp cận tới các bản sao trên mạng. Hoạt động sao chụp có thê được thực hiện vừa rất nhanh và bi mật mà không ai có thé phát hiện dé ngăn chặn.

Ngồi việc cho phép sao chép đúng với bản gốc, công nghệ kỹ thuật số cịn cho phép người sử dụng có thé chỉnh sửa, chuyển thé tác phẩm mà khó có thé nhận ra được khi các tác phâm gốc và tác phẩm chỉnh sửa lưu hành tự do trên mạng Internet. Do đó, các tác giả rất khó có thê đảm bảo được tính tồn vẹn của

tác phẩm do mình sáng tạo ra. Ngồi ra, sự có mặt rộng khắp của mạng Internet

và công nghệ kỹ thuật số cũng gây không ít khó khăn cho các tác giả và chủ sở

hữu quyền tác giả trong việc kiểm soát việc sử dụng cũng như lưu trữ tác phâm của các chủ thể khác. Ví dụ, tại Hoa Kỳ, một sinh viên của trường Đại học

Boston đã bị phán xét là người có hành vi xâm phạm quyên tác giả khi đưa 30

tác phâm âm nhạc lên Internet băng máy tính tại trường và nhà cha mẹ của mình.

Người này đã phải trả cho chủ sở hữu quyền tác giả 22.500 USD trên mỗi bài hát

bị xâm phạm Ÿ.

Đặc biệt, trong môi trường kỹ thuật số còn xuất hiện những hành vi vi

phạm quyền tác giả chưa từng tôn tại trước đây, qua đó gây khó khăn trong việc

xây dựng pháp luật điều chỉnh, phát hiện và xử lý vi phạm. Nếu một công ty

<small>mạng lập một trang web cho phép người dùng tự chia sẻ các file âm nhạc và</small> phim ảnh thì đó có phải là vi phạm qun tác giả? Một cơng ty dịch vụ Internet

có khách hàng là một tờ báo trực tuyến có máy chủ (sever) riêng. Tờ báo trực tuyến đó dịch khơng phép một bài báo của một tờ báo trực tuyến khác ở nước

<small>8 TS. Nguyén Thi Héng Nhung, Quyén tác gia trong không gian ao, Đại học Quốc gia thành</small>

<small>phơ Hơ Chí Minh, Trường Đại học Kinh tê - Luật, Khoa Luật, Nxb. Đại học Qc giaTPHCM, 2015, tr.41</small>

<small>27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

ngồi và lưu trên server của mình. Tuy nhiên, mỗi khi người dùng đọc bài báo

trên tờ báo trực tuyến thì bài báo đó phải được tải lên bộ nhớ tạm RAM do công

ty dịch vụ Internet cung cấp. Vậy hành vi cho lưu tạm bài báo đó trên RAM của cơng ty dịch vụ Internet có bị coi là vi phạm quyền tác giả? Đây chỉ là hai trong số nhiều ví dụ về các hình thái vi phạm quyền tác giả mới xuất hiện trong môi trường kỹ thuật số `”.

Rõ ràng môi trường kỹ thuật số đặt ra những thách thức to lớn và đa chiều đối với bảo hộ quyên tác giả. Những thách thức này đã, đang diễn ra cùng với sự phố biến và sự phát triển với tốc độ chóng mặt của cuộc sống số. Pháp luật quốc tế cũng như pháp luật của các quốc gia cũng đã có những nỗ lực hồn thiện nhất định để đáp ứng những thách thức này trong thời gian vừa qua. Việc ra đời các điều ước quốc tế mới về bảo hộ quyên tác giả như Hiệp định quyên tác giả của WIPO (Wipo Copyright Treaty — WCT) hay Hiệp định WIPO về biểu diễn va

<small>bản ghi âm (WIPO Performance and Phonogram Treaty — WPPT) cùng với</small>

những đạo luật mới ở các quốc gia là dấu hiệu cho thấy điều đó. Việc ban hành những văn bản mới có thê bước đầu đáp ứng được các cách thức về mặt lý luận

và pháp lý. Song, có những thách thức sẽ ngày càng trở nên khó giải quyết hơn

trong tương lai, ví dụ các thách thức về bảo vệ quyền tác giả. Điều đó địi hỏi các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam, tiếp tục có những biện pháp thích

hợp dé bảo vệ quyên tác giả một cách hiệu quả trong môi trường kỹ thuật số.

<small>'? Xem thêm Lewis a. Kaplan, Copyright and the Internet (Quyển fác giả va Internet), 22</small>

<small>Temp. Envtl. L. & Tech. J. (2003).</small>

<small>28</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

<small>l CHƯƠNG 2</small>

BAO HỘ QUYEN TÁC GIA TRONG MOI TRUONG KỸ THUẬT SO THEO QUY DINH CUA CAC DIEU UOC QUOC TE

Với những thách thức không nhỏ đối với việc bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số, thực tiễn bảo hộ quyên tác giả tại các quốc gia đã cho thấy, nỗ lực của từng quốc gia riêng lẻ khơng thể ngăn cản một cách hiệu quả tình trạng vi phạm quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số do Internet đã xố

nhồ biên giới giữa các quốc gia. Chính vì vậy, nhiều điều ước quốc tế đã được

các nước thông qua nhằm nâng cao hiệu quả của việc bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan trong mơi trường kỹ thuật số. Trong số đó, phải kế đến một số điều ước quốc tế quan trong đó là: Cơng ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền

tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật, Công ước Rome năm 1961

về bảo hộ người biểu diễn và nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng, Cơng ước Geneva năm 1971 bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống việc sao

<small>chép không được phép bản ghi âm của họ, Công ước Brussels năm 1974 liên</small>

quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, Hiệp

định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ năm 1994 (TRIPs), Hiệp ước của WIPO về quyên tác giả năm 1996 (WCT), Hiệp ước

của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (WPPT) năm 1996, Hiệp ước Bắc Kinh

năm 2012 về cuộc biểu diễn nghe nhìn (BTAP). Trong phạm vi dé tài này, các

tác giả sẽ chỉ phân tích những điều ước quốc tế liên quan đến bảo hộ quyền tác

giả trong môi trường kỹ thuật số, đó là: Cơng ước Berne năm 1886 về bảo hộ tác

phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học, Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) và Hiệp ước của WIPO năm 1996 về quyên tác giả (WCT).

<small>29</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

2.1. Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả đối với tác phẩm văn

<small>học, nghệ thuật và khoa học (The Berne Convention for the Protection ofLiterary and Artistic Works)</small>

Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyên tác giả đối với tác phẩm van học, nghệ thuật và khoa học là điều ước quốc tế đa phương đầu tiên về quyên tác

giả được ký ngày 9 tháng 9 năm 1886 tại Berne, Thuy Sỹ””. Với 38 điều và một

Phục lục gồm 6 điều dành cho các nước đang phát triển, Công ước đã quy định ba nguyên tắc cơ bản trong bảo hộ quyên tác giả cũng như các quyền tối thiêu

<small>mà các tác giả được hưởng. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc bảo hộ</small> quyền tác giả nói chung và bảo hộ quyên tác giả trong môi trường kỹ thuật số nói <small>riêng.</small>

Cơng ước Berne quy định ba ngun tắc bảo hộ cơ bản đó là nguyên tắc đối xử quốc gia, nguyên tắc bảo hộ tự động và nguyên tắc bảo hộ độc lập.

Nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại Điều 5 khoản 1 của Cơng ước, theo đó, đối với một tác phâm được công ước Berne bảo hộ, các tác giả sẽ “duoc hưởng quyên tác giả ở các nước Liên hiệp, ngoại trừ quốc gia gốc của tác

phẩm, những quyên lợi do luật quốc gia liên quan dành cho công dân nước đó <small>trong hiện tai và trong tương lai (...) ”</small>

Theo nguyên tắc bảo hộ tự động, quyền tác giả phát sinh ngay khi tác

phẩm được định hình dưới một hình thức vật chất nhất định mà không phụ thuộc

vào bat kỳ thủ tục hay hình thức nào như đăng ký hoặc các thủ tục tươngtự `. Nguyên tắc bảo hộ độc lập được quy định tại Điều 5 khoản 2 của Công ước Berne. Cụ thể, việc hưởng và thực thi các quyền theo Công ước là độc lập

<small>re ~ X1 TA 3 : z A ro r A 22</small>

<small>với những gi hiện được hưởng tại nước xuât xứ cua tac phâm“.</small>

<small>ˆ” Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.Tư pháp, 2017, tr. 310*! Xem Điều 5 khoản 2 Công ước Berne năm 1886.</small>

<small>? Xem Điều 5 khoản 2 Công ước Berne năm 1886.</small>

<small>30</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

Theo quy định tại Điều 1 và Điều 2 khoản 1 của Công ước Berne, việc bảo hộ “ác phẩm văn học và nghệ thuật ” trong Công ước Berne bao gồm “tat cả các sản phẩm trong lĩnh vực văn học, khoa học và nghệ thuật, bất kỳ được biểu hiện theo phương thức hay dưới hình thức nào ””.

Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được Công ước Berne bảo hộ bao gồm các tác phẩm do tác giả là công dân của một trong những nước thành

<small>viên của Cơng ước Berne hoặc có nơi cư trú thường xuyên tại một trong các</small>

nước trên du tác phâm đó đã cơng bồ hay chưa cơng bố. Đối với các tác phẩm do

<small>tác giả là công dân của một nước không phải thành viên của Công ước Berne, tác</small>

phẩm chi được bảo hộ nếu tác phẩm đó đã cơng bố lần đầu tiên hay cơng bố đồng thời tại một nước thành viên. “Tác phẩm đã công bố” là những tác pham

đã được phát hành với sự đồng ý của tác giả, không phân biệt phương pháp cau

tạo các bản sao, miễn là các bản đó đủ để đáp ứng nhu cầu hợp lý của quần chúng, tuỳ theo bản chất của tác phẩm ”.

Đối với các tác phâm được bảo hộ, tác giả sẽ được hưởng quyền kinh tế và quyên tinh thần. Quyền tinh thần của tác giả được quy định tại Điều 6° Cơng ước Berne, theo đó, tác giả được “quyền được đòi thừa nhận minh là tác giả của tác phẩm và phản doi bat kỳ sự xuyên tac, cắt xén hay sửa đổi hoặc những vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm

của tác gid,” kê cả sau khi đã chuyển nhượng các quyền kinh tế khác.

Các quyền kinh tế của tác giả được quy định tại Điều 8, 9, 11, 11°) II, 12, 14 của Công ước, bao gồm quyên dịch thuật”, quyền sao chép ”, quyên thực

<small>Cong ước Berne 1886 về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật. Nguồn:</small>

<small> Trường Dai học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.CAND, 2017, tr. 312</small>

<small>*> Tác giả của các tác phẩm văn học nghệ thuật được Công ước này bảo hộ được toàn quyền</small>

<small>dich hay cho phép dịch tác phẩm của mình trong suốt thời hạn hưởng quyền bảo hộ đôi vớiuae tac pham nguyén tac cua minh. — Điều 8 Công ước Berne năm 1886.</small>

<small>° Tác giả được toàn quyền cho phép sao in các tác phẩm được bảo hộ dưới bat kỳ phươngthức, hình thức nào. — Điều 9.1 Công ước Berne năm 1886</small>

<small>31</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

hiện phóng tác, cải biên, chuyền thé tác pham’’, quyền trình diễn cơng cộng tác

phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc”, quyền thuật lại và truyền phát tới cơng

chúng tác phẩm văn học”, quyền phóng tác điện ảnh và sao chép, phân phối, trình dién cơng cộng và truyền thơng cơng cộng tác phâm đã phóng tác hoặc sao chép, quyền phát sóng ””, quyền “droit đe suit”””.

<small>Thời hạn bảo hộ các quyền trên là suốt cuộc đời tac giả và khơng ít hơn 50</small>

năm sau khi tác giả qua đời”

Công ước Berne, ké từ khi được thông qua vào năm 1886, đã được sửa đổi, bô sung thường xuyên (trung bình khoảng 20 năm một lần) nham đáp ứng

với sự phát trién của nền kinh tế cũng như khoa học công nghệ (như công nghệ điện ảnh, nhiếp ảnh, truyền hình...). Đạo luật hiện hành là Đạo luật Paris ngày

24/7/1971, được bổ sung ngày 2/10/1979. Kê từ sau lần sửa đổi cuối cùng năm 1979, do không thé đạt được sự đồng thuận của các nước thành viên, mà cụ thé là giữa các nước đang phát triển và các nước phát triển, WIPO đã không tô chức

bất kì Hội nghị nào để sửa đổi Cơng ước Berne. Trong khi đó, vào giai đoạn

những năm 1970 và 1980, khoa học cơng nghệ đã có nhiều bước tiến đáng kể

như sự phát triển của truyền hình cáp, truyền hình vệ tinh, chương trình máy <small>? Tác giả được tồn quyền ủy thác quyền phóng tác, chuyền thé hay cải biên từ tác phẩm củamình — Điều 12 Cơng ước Berne năm 1886</small>

<small>*3 Tác gia các tác phâm kịch, nhạc kịch và ca nhạc được hưởng toàn quyền uy thác quyền trình</small>

<small>diễn cơng cộng tác phẩm của mình và truyền thơng tới cơng chúng những cuộc trình diễn đó</small>

<small>bằng bat kỳ một phương pháp nao. — Điều 11 Công ước Berne nam 1886</small>

<small>? Tác giả được quyên độc quyền cho phép đọc trước quần chúng tác phẩm của mình và truyền</small>

<small>phát bản đọc tác phẩm của mình toi cơng chúng. — — Điều II” Công ước Berne năm 1886</small> °° Các tác giả được hưởng quyền độc quyên cho phép phát sóng hoặc truyền phát tới cơng <small>chúng các tác phẩm của mình bang bat cứ phương tiện vơ tuyến nào nhăm phô biến các kýhiệu, âm thanh hay hình ảnh. — Điều 11”Ê Cơng ước Berne năm 1886</small>

<small>3! Đối với bản gốc các tác phâm nghệ thuật và bản thảo gốc của nhà văn và nhà soạn nhạc màtác giả đã chuyên nhượng, thì tác giả hoặc sau khi tác giả chết, những cá nhân hoặc đoàn thêđược sở hữu quyên tác giả theo Luật pháp Quốc gia được hưởng quyền không được chuyên</small>

<small>nhượng đối với lợi nhuận khi bán các tác pham đó sau khi tác giả đã chuyên nhượng lần đầu. —</small>

<small>Điều 14'” Công ước Bern năm 18863 Điều 6°" Công ước Berne năm 1886</small>

<small>33 Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp quốc tế, Nxb.Tư pháp, 2017, tr. 311</small>

<small>32</small>

</div>

×