Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Tài liệu học tập học phần cơ sở văn hoá việt nam (2 tc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.2 MB, 98 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

MỤC LỤC

<i><b>CHƯƠNG 1. VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM ... 4 </b></i>

<b><small>1.1. Dẫn luận Văn hoá học ... 4</small></b>

<small>1.1.1. Các khái niệm cơ bản ... 4</small>

<small>1.1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa ... 8</small>

<small>1.1.3. Cấu trúc của hệ thớng văn hóa ... 9</small>

<small>1.1.4. Đới tượng của Văn hố học... 10</small>

<small>1.1.5. Các phương pháp nghiên cứu... 10</small>

<b><small>1.2. Văn hoá Việt Nam ... 11</small></b>

<small>1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam ... 11</small>

<small>1.2.2. Định vị văn hố Việt Nam ... 11</small>

<small>1.2.3. Diễn trình lịch sử của văn hố Việt Nam ... 15</small>

<small>1.2.4. Văn hóa và phát triển (Quan niệm về phát triển; nét khác biệt giữa phát triển và tăng trưởng; Vai trò của văn hoá trong phát triển - đọc tài liệu) ... 30</small>

<small>1.2.5. Văn hố Việt Nam trong bới cảnh tồn cầu hố (Tác động của tồn cầu hố đới với bản sắc dân tộc; Giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hố Việt Nam trong điều kiện tồn cầu hố - đọc tài liệu) ... 30</small>

<i><b>CHƯƠNG 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HĨA VIỆT NAM ... 31 </b></i>

<b><small>2.1. Văn hố vật chất ... 31</small></b>

<small>2.1.1. Văn hóa ẩm thực ... 31</small>

<small>2.1.2. Văn hóa trang phục ... 32</small>

<small>2.1.3. Văn hóa cư trú ... 34</small>

<small>2.1.4. Văn hóa giao thơng ... 35</small>

<b><small>2.2. Văn hố xã hội ... 36</small></b>

<small>2.2.1. Văn hóa gia đình ... 36</small>

<small>2.2.2. Văn hóa làng xã ... 37</small>

<small>2.2.3. Văn hóa q́c gia ... 39</small>

<b><small>2.3. Văn hố tinh thần ... 40</small></b>

<small>2.3.1. Tơn giáo, tín ngưỡng ... 40</small>

<small>3.3.2. Phong tục tập quán ... 46</small>

<small>2.3.3. Văn hóa nghệ thuật... 50</small>

<i><b>CHƯƠNG 3. CÁC VÙNG VĂN HĨA VIỆT NAM ... 63 </b></i>

<b><small>3.1. Khái niệm vùng văn hóa và phân vùng văn hóa ... 63</small></b>

<small>3.1.1. Khái niệm vùng văn hóa ... 63</small>

<small>3.1.2. Tiêu chí phân vùng văn hóa ... 63</small>

<b><small>3.2. Các vùng văn hóa Việt Nam ... 63</small></b>

<small>3.2.1. Vùng văn hóa Tây Bắc ... 63</small>

<small>3.2.2. Vùng văn hóa Việt Bắc ... 66</small>

<small>3.2.3. Vùng văn hóa châu thổ Bắc Bộ ... 68</small>

<small>3.2.4. Vùng văn hóa Trung Bộ ... 71</small>

<small>3.2.5. Vùng văn hóa Tây Nguyên ... 73</small>

<small>3.2.6. Vùng văn hóa Nam Bộ ... 74</small>

<i><b>TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 78 </b></i>

<i><b>PHỤ LỤC ... 80 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>CHƯƠNG 1. VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM </b>

<i><b>1.1. Dẫn luận Văn hoá học </b></i>

<b>1.1.1. Các khái niệm cơ bản </b>

<b>1.1.1.1. Văn hóa </b>

Sự phát triển của lồi người gắn liền với văn hóa ngay từ những bước đi sơ khởi, tuy khơng phải ngay lúc ấy đã có một khái niệm văn hóa độc lập song có thể nói rằng văn hóa xuất hiện khá sớm từ thời cổ đại, trong ngôn ngữ của các dân tộc văn minh như Trung Hoa, Ấn Độ, Ai Cập, Hi Lạp.

Ở phương Đơng, từ văn hóa mà chúng ta dùng có cội nguồn từ tiếng Hán. Trong ngơn

<i>ngữ Hán, hai chữ văn và hóa xuất hiện khá sớm, như hai từ đơn có nghĩa riêng biệt. Theo ngơn ngữ cổ Trung Hoa thì văn có nghĩa là “vẻ đẹp”, hóa có nghĩa là giáo hóa, dạy dỗ, sửa đổi “biến đổi”. Văn hóa gộp lại theo nghĩa gớc là “làm cho đẹp, trở thành đẹp đẽ”. </i>

Ở phương Tây, từ văn hóa xuất hiện vào khoảng thế kỷ III TCN. Xét về nguồn gớc,

<i>văn hóa là khái niệm gắn với sản x́t nơng nghiệp. Văn hóa trong tiếng Latinh bắt nguồn từ chữ Cultus có nghĩa gớc là trồng trọt, cày cấy, vun trồng. Về sau, thuật ngữ văn hóa mở rộng thành Cultus animi và được chuyển nghĩa, nói về sự vun trồng tinh thần, trí tuệ, bồi dưỡng tâm hồn con người. Từ thuật ngữ gốc Latinh này mà xuất hiện từ Culture trong tiếng Anh, Pháp, Kultur trong tiếng Đức và Kultura trong tiếng Nga đều có nghĩa là văn hóa.</i>

Theo tiến trình lịch sử, khái niệm văn hóa dần phong phú hơn về nội hàm, trong rất nhiều thế kỷ nó được dùng để chỉ những khái niệm và hiện tượng hết sức khác nhau. Năm

<i>1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn xuất bản quyển sách Culture, a critical review of concept </i>

<i>and definitions [Văn hóa, điểm lại bằng cái nhìn phê phán các khái niệm và định nghĩa], trong </i>

đó tác giả đã trích lục khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau. Điều này cho thấy, khái niệm “Văn hóa” rất phức tạp.

<i>Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về </i>

<i>tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách một thành viên của xã hội”. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một; nó bao gồm tất cả </i>

những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Có người ví, định nghĩa này mang tính “bách khoa tồn thư” vì đã liệt kê hết mọi lĩnh vực sáng tạo của con người.

<i>F. Boas định nghĩa: “Văn hóa là tổng thể các phản ứng tinh thần, thể chất và những </i>

<i>hoạt động định hình nên hành vi của cá nhân cấu thành nên một nhóm người vừa có tính tập thể vừa có tính cá nhân trong mối quan hệ với mơi trường tự nhiên của họ, với những nhóm người khác, với những thành viên trong nhóm và của chính các thành viên này với nhau”. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Theo định nghĩa này, mối quan hệ giữa cá nhân, tập thể và mơi trường là quan trọng trong việc hình thành văn hóa của con người.

Ở Việt Nam, văn hóa cũng được định nghĩa rất khác nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho

<i>rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, lồi người mới sáng tạo và phát minh </i>

<i>ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Với cách hiểu này, văn hóa sẽ bao gồm tồn bộ </i>

những gì do con người sáng tạo và phát minh ra. Cũng giống như định nghĩa của Tylor, văn hóa theo cách nói của Hồ Chí Minh sẽ là một “bách khoa toàn thư” về những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người.

<i>Phạm Văn Đồng cho rằng: “Nói tới văn hóa là nói tới một lĩnh vực vơ cùng phong phú </i>

<i>và rộng lớn, bao gồm tất cả những gì khơng phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu bảo vệ mình và khơng ngừng lớn mạnh”. Theo </i>

định nghĩa này thì văn hóa là những cái gì đới lập với thiên nhiên và do con người sáng tạo nên từ tư tưởng tình cảm đến ý thức tình cảm và sức đề kháng của mỗi người, mỗi dân tộc.

Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa

<i>rộng: “Văn hóa là một phức hệ- tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri </i>

<i>thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa khơng chỉ bao gồm nghệ thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”; cịn hiểu theo nghĩa hẹp: “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc thù riêng”,… </i>

Cịn có rất nhiều cách hiểu về văn hóa của các nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.

<i>Trong đó, Trần Ngọc Thêm cho rằng: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua q trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội của mình”. Phan Ngọc thì hiểu “Văn hóa là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng trong óc một cá nhân hay một tộc người với cái thế giới thực tại ít nhiều đã bị cá nhân này hay tộc người này mơ hình hóa theo cái mơ hình tồn tại trong biểu tượng. Điều biểu hiện rõ nhất chứng tỏ mối quan hệ này, đó là văn hóa dưới hình thức dễ nhận thấy nhất, </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của cá nhân hay tộc người, khác các kiểu lựa chọn của các cá nhân hay các tộc người khác”. </i>

Nhìn chung, các định nghĩa về văn hóa hiện nay rất đa dạng. Chúng tôi dựa trên các định nghĩa đã nêu để xác định một khái niệm văn hóa cho riêng mình nhằm thuận tiện cho

<i>việc thu thập và phân tích dự liệu khi nghiên cứu. Chúng tôi thống nhất với cách hiểu: văn </i>

<i>hóa là sản phẩm của con người được tạo ra trong qua trình lao động (từ lao động trí óc đến lao động chân tay), được chi phối bởi môi trường (môi tự nhiên và xã hội) xung quanh và tính cách của từng tộc người. Nhờ có văn hóa mà con người trở nên khác biệt so với các loài động vật khác; và do được chi phối bởi mơi trường xung quanh và tính cách tộc người nên văn hóa ở mỗi tộc người sẽ có những đặc trưng riêng.</i>

<b>1.1.1.2. Các khái niệm liên quan với văn hóa </b>

<i><b>* Văn minh</b></i>

Văn minh là danh từ Hán – Việt, văn là vẻ đẹp, minh là sáng, chỉ tia sáng của đạo đức biểu hiện ở chính trị, pháp luật, văn học, nghệ thuật.

<i>Trong tiếng Anh, từ civilisation với nội hàm nghĩa văn minh, có từ căn gốc Latinh là </i>

<i>civitas với nghĩa gốc là đô thị, thành phố và các nghĩa phái sinh là thị dân, công dân.</i>

Văn minh chủ yếu liên quan tới kĩ thuật làm chủ thế giới, biến đổi thế giới sao cho đáp ứng được đòi hỏi của con người. Cho nên một thành tựu của văn minh thường lan rộng khắp thế giới. Nghiên cứu văn minh là nghiên cứu mặt động của trí tuệ, tâm thức con người. Nếu như văn minh của loài người tiến lên khơng ngừng thì văn hóa lại khơng thể. Có những nước văn minh rất cao nhưng văn hóa lại suy giảm. Thế giới đã trải qua nhiều nền văn minh: văn minh đồ đá, văn minh du mục, văn minh nông nghiệp, văn minh thương nghiệp, văn minh công nghiệp và đang bước vào văn minh hậu cơng nghiệp.

Như vậy, văn hóa và văn minh khác nhau ở các điểm sau:

- Văn hóa là khái niệm bao trùm gồm cả giá trị vật chất lẫn tinh thần còn văn minh thiên về giá trị vật chất.

- Văn hóa ln có bề dày của q khứ còn văn minh chỉ là một lát cắt đồng đại, chỉ “trình độ phát triển.

- Văn hóa mang tính dân tộc, văn minh mang tính q́c tế.

- Văn hóa gắn bó nhiều hơn với phương Đơng nơng nghiệp cịn văn minh gắn bó nhiều hơn với phương Tây đô thị.

<i><b>Theo đấy, văn minh là khái niệm mang tính quốc tế, có nguồn gốc từ phương Tây đơ </b></i>

<i>thị và chỉ trình độ phát triển nhất định của văn hóa chủ yếu về phương diện vật chất.</i>

<i><b>* Văn hiến dùng để chỉ những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải </b></i>

(Văn là văn hóa, hiến là hiền tài).

<i><b>*Văn vật là truyền thống văn hóa tốt đẹp được thể hiện thơng qua một đội ngũ tài và </b></i>

<i>hiện vật trong lịch sử.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Để dễ dàng cho việc phân biệt các thuật ngữ trên, Trần Ngọc Thêm đã thể hiện thông qua bảng so sánh:

Chứa cả giá trị vật chất lẫn

phương Tây đơ thị

Bảng 1: So sánh văn hóa, văn minh, văn hiến, văn vật

<b>1.1.1.3. Văn hóa học </b>

Để nghiên cứu các biểu thị của văn hóa, người ta sử dụng nhiều môn khoa học khác nhau như Dân tộc chí, Dân tộc học, Nhân học, Xã hội học, Khảo cổ học, Tâm lý học…Tuy

<i>nhiên chỉ có văn hóa học là nghiên cứu văn hóa như một chỉnh thể tự biến đổi và phát triển. Người đầu tiên đặt nền móng cho cách tiếp cận tổng thể trong nghiên cứu văn hóa và cũng được coi là người đầu tiên đặt nền móng cho văn hóa học là Edward B.Tylor – nhà nhân học nổi tiếng người Anh với ćn Văn hóa ngun thủy (1871).</i>

<i><b>Tuy nhiên, cơng sáng lập ra văn hóa học thì thuộc về nhà nhân học Hoa Kỳ Leslie </b></i>

<i><b>Alvin White (1900-1975). Ông nổi tiếng với những cơng trình lý luận về sự tiến hóa của văn </b></i>

hóa và với những nghiên cứu khoa học về văn hóa mà ơng gọi là “văn hóa học”. Trong các

<i>tác phẩm “Khoa học về văn hóa” (The Science of Culture - 1949), “Sự tiến hóa của văn hóa” </i>

<i>(The Evolution of Culture - 1959), “Khái niệm văn hóa” (The concept of Culture - 1973) </i>

L.A.White đã đặt cơ sở cho văn hóa học với tính cách là một mơn khoa học độc lập, lý giải văn hóa như một hệ thớng tồn vẹn, làm rõ phạm vi, nguyên tắc và đối tượng nghiên cứu của văn hóa học…

Ći thế kỷ XX, khi tiến trình tồn cầu hóa tác động mạnh mẽ lên đời sống của các cá thể và cộng đồng trên thế giới, người ta mới thực sự chú ý đến vai trò của các tác nhân văn hóa đới với các q trình phát triển kinh tế - xã hội, và do đó mới quan tâm đầu tư để thúc đẩy văn hóa học phát triển và lan rộng trên khắp thế giới. Nhờ thế mà các bộ mơn nghiên cứu về văn hóa có điều kiện để phát triển, dẫn đến việc phổ biến khoa học về văn hóa ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam.

Ở Việt Nam, khái niệm về Văn hóa học cũng được bàn luận nhiều nhưng vẫn chưa đi đến thớng nhất. Có thể tham khảo một vài quan điểm sau :

<i><b>Trong cơng trình Đại cương văn hóa Việt Nam, Phạm Thái Việt cho rằng: Văn hóa học </b></i>

<i>là một bộ mơn khoa học tương đối mới, một khoa học tích hợp, vừa nghiên cứu văn hóa nói chung vừa nghiên cứu các hiện tượng văn hóa riêng biệt. Mục đích của văn hóa học là phát </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>hiện ra và phân tích tính quy luật của những biến đổi văn hóa – xã hội.</i>

<i><b>Cịn Trần Ngọc Thêm thì cho rằng: “Văn hóa học là một ngành khoa học nhân văn </b></i>

<i><b>giáp ranh với khoa học xã hội, có đối tượng nghiên cứu là văn hóa với tư cách một hệ thống giá trị mang tính biểu tượng, bằng hệ phương pháp lý luận định tính mang tính liên ngành </b></i>

<i>với độ bao quát rộng các sự kiện và tính khái quát cao trong yêu cầu khảo cứu”. </i>

<b>1.1.2. Đặc trưng và chức năng của văn hóa </b>

<i><b>Tính hệ thống là đặc trưng hàng đầu của văn hóa. Chính nhờ có tính hệ thớng mà văn </b></i>

hóa, với tư cách là một đối tượng bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được một trong ba chức năng cơ bản của mình là chức năng tổ chức xã hội. Chính văn hóa thường xun làm tăng độ ổn định của xã hội, cung cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với mơi trường tự nhiên và xã hội của mình.

<i><b>Đặc trưng thứ hai của văn hóa là tính giá trị ("văn hóa là một hệ thớng ... của các giá </b></i>

trị vật chất và tinh thần..."). Văn hóa có nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các giá trị. Nó là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Đặc trưng tính giá trị cho phép phân biệt văn hóa với hậu quả của văn hóa hoặc những hiện tượng phi văn hóa.

Nhờ thường xuyên xem xét, phân loại các giá trị mà văn hóa thực hiện được chức năng

<b>quan trọng thứ hai của mình là chức năng điều chỉnh xã hội, nó định hướng các giá trị, điều </b>

chỉnh các ứng xử, nó là động lực cho sự phát triển của xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động của mình.

<i><b>Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính lịch sử ("văn hóa... do con người... tích lũy qua </b></i>

q trình hoạt động thực tiễn...)". Tính lịch sử của văn hóa thể hiện ở chỗ nó bao giờ cũng hình thành trong một q trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ. Tính lịch sử tạo cho văn hóa một bề dày, một chiều sâu; và chính nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến hành phân loại và phân bớ lại các giá trị.

Tính lịch sử của văn hóa được duy trì bằng truyền thớng văn hóa. Truyền thống (truyền = chuyển giao, thống = nối tiếp) là cơ chế tích lũy và truyền đạt kinh nghiệm qua không gian

<i>và thời gian trong cộng đồng. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những </i>

<i>kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khn mẫu xã hội được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và thời gian và được cố định hố dưới dạng ngơn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận....</i>

<b>Truyền thớng văn hóa được tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng </b>

quan trọng thứ ba của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định (truyền thớng), mà cịn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị đã ổn định và những giá trị đang hình thành tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trị quyết định trong việc hình thành nhân cách

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

ở con người, trồng người (dưỡng dục nhân cách). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo tính kế tục của lịch sử.

<i><b> Văn hóa cịn có tính nhân sinh (văn hóa... do con người sáng tạo). Nó là một hiện </b></i>

tượng xã hội, là sản phẩm hoạt động thực tiễn của con người. Nói một cách hình tượng, văn hóa là cái tự nhiên đã được biến đổi dưới tác động của con người, là "phần giao" giữa tự nhiên và con người. Đặc trưng này cho phép phân biệt văn hóa với những giá trị tự nhiên chưa mang dấu ấn sáng tạo của con người (như các tài ngun khống sản trong lịng đất). Sự tác động của con người đối với tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc luyện quặng để chế tạo đồ dùng, đẽo gỗ tạc tượng) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, tạo truyền thuyết cho các cảnh quan thiên nhiên: vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành Sơn, hòn Vọng Phu....).

Do gắn liền với con người và hoạt động của con người trong xã hội, văn hóa trở thành

<b>một cơng cụ giao tiếp quan trọng. Chức năng giao tiếp là chức năng thứ tư của văn hóa. Nếu </b>

ngơn ngữ là hình thức của giao tiếp thì văn hóa là nội dung của nó; điều đó đúng với giao tiếp giữa các cá nhân trong một dân tộc, lại càng đúng với giao tiếp giữa những người thuộc các dân tộc khác nhau và giao tiếp giữa các nền văn hóa.

<b>1.1.3. Cấu trúc của hệ thống văn hóa </b>

Như đã nói, lâu nay, tính hệ thớng của văn hóa chưa được chú ý đầy đủ, cho nên cũng chưa có được một mơ hình hệ thớng văn hóa đầy đủ và có sức thuyết phục. Để tiếp cận văn hóa như một hệ thớng, cần phải vận dụng chính Lí thuyết hệ thớng. Trên cơ sở này, hợp lí hơn cả là xem văn hóa như một hệ thống gồm 4 thành tố (4 tiểu hệ) cơ bản, mỗi tiểu hệ lại có hai vi hệ nhỏ hơn như sau: b. Tổ chức đời sớng cá nhân

3. Văn hóa ứng xử với mơi

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

b. Văn hóa đới phó với mơi trường xã hội

Bảng 2: Cấu trúc của Hệ thống văn hóa

<b>1.1.4. Đối tượng của Văn hố học </b>

Mặc dù trong việc định nghĩa thế nào là văn hóa có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đới lập nhau nhưng trong việc xác định đối tượng nghiên cứu của khoa học văn hóa

<i>thì các nhà nghiên cứu đều đi đến chỗ thống nhất: đối tượng của văn hóa học chính là văn </i>

<i>hóa. Vậy nên, cơng việc của chúng ta là đã rõ ràng: </i>

- Tìm hiểu văn hóa là gì? - Đặc trưng và chức năng?

- Các quy luật vận động và biến đổi của văn hóa?...

<b>1.1.5. Các phương pháp nghiên cứu </b>

<b>1.1.5.1. Phương pháp chung </b>

Hệ thống - chỉnh thể: khi xem xét bất cứ thành tớ văn hóa nào cũng phải đặt nó trong chính hệ thớng, chỉnh thể mà nó tồn tại nhằm tìm ra giá trị, vai trị thực chất của nó.

<b>Liên ngành: Văn hóa vớn dĩ là một khái niệm hàm chứa những nội dung rất phong phú </b>

và rộng lớn. Để tiếp cận được, đặc biệt hơn là để có thể hiểu được, con đường tất yếu là phải tạo ra sự kết hợp của nhiều ngành khoa học khác nhau.

Lịch sử (cách tiếp cận lịch đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ thời gian, bao gồm diễn trình văn hóa của một dân tộc qua từng giai đoạn lịch sử

Lôgich (cách tiếp cận đồng đại): nghiên cứu văn hóa dưới góc độ khơng gian, thời gian cụ thể, mang tính chất khách quan nhất, không áp đặt quan điểm của bản thân.

<b>1.1.5.2. Phương pháp chuyên biệt </b>

Nhân học văn hoá: một trong những đối tượng nghiên cứu của ngành Nhân học là lịch sử hình thành, phát triển và không ngừng biến đổi của các tộc người. Nghiên cứu văn hóa dưới góc độ nhân học sẽ chỉ ra được đặc trưng văn hóa tộc người.

Sử học văn hoá: thực hiện phương pháp này, chúng ta nghiên cứu văn hóa trong tiến trình hình thành, phát triển với những quy luật nội tại của chúng, nghiên cứu văn hóa gắn với lịch sử tư tưởng, lịch sử xã hội của mỗi dân tộc và nhân loại.

Xã hội học văn hoá: vận dụng những phương pháp nghiên cứu tối ưu của Xã hội học như quan sát, miêu tả, điều tra hiện tượng văn hóa để có cái nhìn đa chiều, cả chất và lượng.

Kinh tế học văn hoá: Cơ sở kinh tế - xã hội quy định nội dung, bản chất của một nền văn hóa và của các thành tớ văn hóa. Tách rời khỏi cơ sở kinh tế sẽ không hiểu được nội dung,

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

bản chất của văn hóa. Cơ sở kinh tế - xã hội góp phần xác định mục tiêu, xu hướng phát triển của văn hóa; bởi văn hóa mang tính giai cấp.

<i><b>1.2. Văn hoá Việt Nam </b></i>

<b>1.2.1. Khái niệm văn hóa Việt Nam </b>

Văn hóa Việt Nam như đang tồn tại là nền văn hóa của một q́c gia đa tộc người. Hiện nay Việt Nam gồm có tất cả 54 tộc người, trong đó tộc người Việt/ Kinh là tộc người chủ thể. Chỉnh thể văn hóa Việt Nam được thể hiện bởi một nền văn hóa thống nhất của một quốc gia dân tộc bao gồm 54 sắc thái văn hóa của 54 tộc người, với đặc điểm là một nền văn hóa đa tộc người vừa có tính thớng nhất, vừa có tính đa dạng. Tiếp cận văn hóa Việt Nam cần phải hiểu và phản ánh được tính thớng nhất trong sự đa dạng ấy.

Hiện trạng văn hóa Việt Nam là kết quả của một quá trình phát triển lịch sử lâu dài, bắt đầu từ khi hình thành những nền tảng văn hóa thời Tiền sử và Sơ sử cho đến nay, đã hình thành những hằng sớ văn hóa tạo nên bản sắc văn hóa Việt Nam. Hằng sớ và bản sắc văn hóa

<i>ln được gìn giữ và phát huy, và nó đang là nền tảng cho việc xây dựng một “nền văn hóa </i>

<i>Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc”. </i>

<b>1.2.2. Định vị văn hoá Việt Nam </b>

<b>1.2.2.1. Địa - văn hố </b>

Địa – văn hóa vừa là một phương pháp dùng để định vị văn hóa theo vùng địa lý, đồng thời cũng là phương pháp kiến giải các đặc điểm văn hóa dựa vào điều kiện địa lý và hoàn cảnh tự nhiên. Phương pháp này cùng với những phương pháp khác đã góp phần lý giải tính đồng nhất (tương đồng) văn hóa của các cộng đồng người cùng sống trên một vùng lãnh thổ - nơi có điều kiện tự nhiên khá giớng nhau.

Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, Trần Ngọc Thêm cho rằng xét từ trong cội nguồn, khơng gian văn hóa Việt Nam vớn được định hình trên nền của khơng gian văn hóa khu vực Đơng Nam Á. Có thể hình dung khơng gian văn hóa khu vực Đơng Nam Á này như một hình trịn bao qt tồn bộ Đơng Nam Á lục địa và hải đảo.

Dù rộng hay hẹp thì đặc trưng địa lý cố hữu của khu vực này vẫn là: nhiệt độ, độ ẩm cao và có gió mùa. Điều kiện tự nhiên quy định cho khu vực này loại hình văn hóa nơng nghiệp với những đặc điểm sau:

+ Trồng lúa nước, khác với văn hóa khơ mạch của Trung Hoa – phía Bắc sơng Dương Tử.

+ Sớng định cư và hịa hợp với thiên nhiên.

+ Đề cao vai trò của phụ nữ (một đặc trưng của văn hóa thực vật, nơi chế độ mẫu hệ dựa trên kinh tế hái lượm, trồng trọt là hình thái thớng trị).

+ Sùng bái mùa màng, sinh nở (văn hóa phồn thực).

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Do nằm trong vùng địa lý này nên văn hóa Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất nói trên và chúng cấu thành các yếu tớ đặc thù (mang tính khu vực) trong nội dung văn hóa Việt Nam.

Bên cạnh đó, điều kiện địa lý riêng có của Việt Nam cũng tạo ra những phẩm chất văn hóa độc đáo (các yếu tớ riêng thuộc về bản sắc). Đó là:

+ Ứng xử mềm dẻo, khả năng thích nghi và chịu đựng cao (ảnh hưởng của môi trường nước).

+ Tính dung chấp cao (do là đầu mới giao thông đường thủy và đường bộ - cửa ngõ của Đông Nam Á nên người dân thường xuyên giao lưu với khu vực bên ngoài và tiếp thu nhiều kiến thức từ hoạt động giao lưu đó).

+ Khơng có các cơng trình kiến trúc đồ sộ (ngoại trừ hệ thống đê điều và thủy lợi), do là vùng đất trẻ lấn dần ra biển nên không có kết cấu bền vững và cư dân của khu vực này thường phải sống chung với nước.

+ Tồn tại nhiều loại hình nghệ thuật gắn với sơng nước như chèo, múa rối nước, đua thuyền…

<b>1.2.2.2. Nhân học - văn hoá </b>

Cùng với thời gian lịch sử, dân số trên hành tinh ngày càng tăng, điều kiện tự nhiên ở một số vùng trên trái đất cũng thay đổi và do cả những cuộc xâm lược lẫn nhau của chính con người đã dẫn đến những làn sóng di cư nhân khẩu từ vùng địa lý này sang vùng địa lý khác.

Di cư đã làm thay đổi đáng kể diện mạo của thứ văn hóa vớn trước kia bị chi phới bởi hồn cảnh địa lý. Sự phát tán các cộng đồng người đã làm cho một khơng gian địa lý có thể hàm chứa vơ sớ các khơng gian văn hóa khác nhau. Đây là nguyên nhân cơ bản thúc đẩy sự ra đời của phương pháp nhân học – văn hóa nhằm khắc phục những hạn chế của phương pháp địa – văn hóa.

Phương pháp này xác định thực thể văn hóa chủ yếu dựa vào sự phân bớ chủng người và thổ ngữ. Bằng cách gắn các phẩm chất văn hóa với chủ thể - con người (vừa là vật mang, vừa là chủ thể, vừa là kết quả của văn hóa), phương pháp này đã giảm thiểu việc lệ thuộc vào hoàn cảnh địa lý khi tiến hành lý giải các hiện tượng văn hóa. Nó chuyển sang xem xét văn hóa như một q trình tự thân có khả năng tái sản x́t ra chính nó trong khn khổ của một cồng đồng xác định.

Vận dụng vào việc định vị văn hóa Việt Nam, có thể thấy văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thớng nhất trong đa dạng. Tính đa dạng văn hóa là kết quả của sự đa dạng tộc người (có 54 tộc người đang sinh sớng tại Việt Nam), trong đó, tộc người Kinh (Việt) đóng vai trị chủ thể (chiếm 90% tổng dân sớ). Bởi vậy, văn hóa Việt Nam tuy đa dạng song vẫn hướng tâm vào văn hóa chủ thể - văn hóa Việt.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

* Về mặt chủng tộc, quá trình hình thành các dân tộc Việt Nam có thể chia thành ba giai đoạn:

- Vào thời đồ đá giữa (khoảng 10.000 năm về trước), có một dịng người thuộc đại chủng Mongoloid từ phía dãy Himalaya thiên di về hướng đông nam, tới vùng Đơng Nam Á cổ đại thì dừng lại và hợp chủng với dân cư Melanesien bản địa (thuộc đại chủng Australoid), dẫn đến sự hình thành chủng Indonesien với nước da ngăm đen, tóc quăn dợn sóng, tầm vóc thấp... Từ đây lan tỏa ra, người Indonesien cư trú trên tồn bộ địa bàn Đơng Nam Á cổ đại.

- Từ cuối thời đá mới, đầu thời đại đồ đồng (khoảng 5000 năm về trước), tại khu vực nay là nam Trung Hoa và bắc Đông Dương, trên cơ sở sự chuyển biến từ loại hình Indonesien bản địa dưới tác động của sự tiếp xúc thường xun với chủng Mongoloid từ phía bắc đã hình thành chủng mới là chủng Nam – Á. Dần dà, chủng Nam – Á này đã được chia tách thành một loạt các dân tộc mà trong cổ thư Việt Nam và Trung Hoa được gọi bằng danh từ Bách Việt, bao gồm nhiều tộc người Việt như Điền Việt, Dương Việt, Mân Việt, Đông Việt, Nam Việt, Lạc Việt... sinh sớng khắp khu vực phía nam sông Dương tử cho tới Bắc Trung Bộ ngày nay, hợp thành những khối cư dân lớn như Môn – Khmer, Việt – Mường, Tày – Thái, Mèo – Dao...

- Quá trình chia tách này tiếp tục diễn tiến, dẫn đến sự hình thành các tộc người cụ thể, trong đó người Việt (Kinh) chiếm gần 90% dân sớ cả nước. Ở phía nam Việt Nam là nơi cư trú của các tộc người Chăm, Giarai, Êđê, Churu, Hroi... gọi chung là Nam Đảo.

* Về mặt ngôn ngữ, ngôn ngữ phổ thông hiện nay (tiếng Việt của tộc người Kinh) là kết quả của q trình hịa hợp các thổ ngữ của các tộc người trong cộng đồng Bách Việt và quá trình Hán hóa.

- Lúc đầu ngơn ngữ của người Kinh gồm các thổ ngữ của người Bách Việt. Cùng với sự hịa huyết và chung sớng, và x́t phát từ nhu cầu giao tiếp, các thổ ngữ này bị biến đổi để trở thành một thứ ngôn ngữ chung cho cả cộng đồng, đó là ngơn ngữ Việt – Mường. Các yếu tố cấu thành ngôn ngữ Việt – Mường là Môn – Khơme, Tày – Thái.

- Quá trình giao lưu văn hóa với Hán ngữ, chủ yếu diễn ra vào giai đoạn Bắc thuộc, ngôn ngữ Việt – Mường đã hấp thụ Hán ngữ để làm giàu và phát triển.

- Cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây – từ thời Pháp thuộc đến nay đã đem lại cho tiếng Việt một diện mạo mới, được đánh dấu bằng sự ra đời chữ Quốc ngữ và một cấu trúc ngữ pháp cũng như vốn từ vựng ổn định như ngày nay.

<b>1.2.2.3. Tôn giáo </b>

Trong thiên niên kỷ thứ ba này, q trình tồn cầu hóa đang kiến tạo nên các hệ thớng chuẩn mực chung cho tồn nhân loại. Điều đó có nghĩa là, khía cạnh văn minh đang gia tăng một cách tỷ lệ thuận với sự tiến triển của toàn cầu hóa. Chính điều này đã làm cho các nền văn hóa ngày càng trở nên giớng nhau hơn, xét từ góc độ văn minh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>Trong tình h́ng đó, tơn giáo với bản tính phi duy lý cớ hữu của nó đã khơng bị biến </i>

dạng bởi tính duy lý của khoa học và cơng nghệ. Nhờ đó, tơn giáo đã trở thành chỗ dựa cho bản sắc văn hóa của nhiều cộng đồng trong điều kiện tồn cầu hóa. Đó chính là lý do khiến việc định vị văn hóa bằng tơn giáo trở thành một phương pháp thịnh hành trong các nghiên cứu hiện nay về văn hóa.

<b>Có thể coi Chiristopher Dawson (1889 - 1970) là ông tổ sáng lập ra phương pháp </b>

định vị này. Theo ông, tôn giáo không phải là một hình thái ý thức trừu tượng mà là truyền thớng văn hóa hay tập tục văn hóa. Cũng theo ơng thì một xã hội giàu sức sớng tất có một tơn giáo, mà tơn giáo này ở mức độ rất lớn lại quyết định phương thức văn hóa của xã hội ấy. Do đó, việc nghiên cứu tôn giáo trong sự thống nhất với văn hóa sẽ mở ra một cái nhìn mới, hay nói đúng hơn là cho phép đánh giá lại các vấn đề có liên quan đến sự phát triển xã hội.

Theo quan điểm của nhiều nhà nghiên cứu hiện nay, Việt Nam thuộc cộng đồng các quốc gia Phật giáo (cùng với Lào, Campuchia, Thái Lan, Mianma…). Cách phân loại này đã không xếp Nho giáo vào hàng tôn giáo.

Một số khác coi Việt Nam nằm trong cộng đồng của các nước chịu ảnh hưởng của Nho giáo (như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc...).

Tồn tại quan điểm thứ ba, mà chủ yếu là các học giả trong nước, đó là coi tơn giáo ở

<i>Việt Nam mang tính tổng hợp theo nguyên lý “Tam giáo đồng nguyên” (Nho – Phật – Đạo). </i>

Trong đó, Phật giáo giữ vai trị cơ sở, chất dung mơi để hịa trộn hai yếu tớ cịn lại.

Như vậy, đới với Việt Nam, việc định vị văn hóa dựa trên dấu hiệu tơn giáo là rất khó khăn, do thiếu tính thuần nhất về tín ngưỡng và tơn giáo. Bởi vậy, việc sử dụng lý thuyết giao lưu – tiếp biến văn hóa để định vị trong trường hợp này là rất cần thiết.

<b>1.2.2.4. Giao lưu và tiếp biến văn hố </b>

Với vị trí địa lí giao điểm của các luồng văn hóa, q trình phát triển lịch sử - xã hội của Việt Nam đã bị chi phối mạnh mẽ bởi các quan hệ giao lưu văn hóa rộng rãi với Đơng Nam Á, Trung Hoa, Ấn Độ và phương Tây. Dưới giác độ giao lưu tiếp biến, văn hóa Việt Nam là kết quả của các cuộc gặp gỡ văn hóa lớn trong khu vực:

+ Giao lưu với văn hóa các tộc người bản địa qua văn hóa Chămpa ở Trung Bộ và văn hóa Ĩc Eo ở Nam Bộ;

+ Giao lưu với văn hóa Trung Hoa: chủ yếu bằng con đường cưỡng chế (bị xâm lược, đơ hộ và đồng hóa);

+ Giao lưu với văn hóa Ấn Độ: chủ yếu bằng con đường hịa bình, tự nguyện;

+ Giao lưu với văn hóa phương Tây: trong lịch sử, sự giao lưu này diễn ra chủ yếu thông qua các kênh: buôn bán đường biển, sự đô hộ của thực dân Pháp, và sau đó là đế q́c Mĩ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

<b>1.2.3. Diễn trình lịch sử của văn hố Việt Nam </b>

<b>1.2.3.1. Văn hoá Việt Nam thời Tiền sử và Sơ sử </b>

Giai đoạn bản địa của văn hóa Việt Nam có thể tính từ khi con người bắt đầu có mặt trên lãnh thổ Việt Nam cho tới khoảng thế kỷ I.TCN. Đây là một giai đoạn dài và có tính chất quyết định, là giai đoạn hình thành, phát triển và định vị của văn hóa Việt Nam. Giai đoạn này có thể chia làm hai thời kỳ: thời Tiền sử từ buổi đầu đến cuối thời đại đá mới; thời Sơ sử cách đây khoảng trên dưới 4000 năm.

<i><b>1.2.3.1.1. Thời Tiền sử</b></i>

Những kết quả nghiên cứu khoa học hiện nay của Khảo cổ học và Cổ nhân học đã khẳng định: Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á là một trong những chiếc nơi của lồi người. Cách đây khoảng 40 – 50 vạn năm và đến bây giờ khí hậu Việt Nam mang nặng đặc trưng nhiệt đới nóng ẩm thích hợp cho sự sinh sớng của con người. Với những vết tích cịn lại là các di cốt người – vượn trong các hang Thẩm Khuyên, Thẩm Hai (Lạng Sơn) và hang Thẩm Ồm (Nghệ An) và những phát hiện di cốt người hiện đại trong hang Hùm (Yên Bái) và hang Kéo Lèng (Lạng Sơn) đã chứng tỏ ở Việt Nam, con người đã có mặt từ rất sớm và đã trải qua sự tiến hóa từ dạng người vượn đến dạng người hiện đại (người khôn ngoan – Homo sapien).

Mở đầu cho giai đoạn tiền sử là văn hóa Núi Đọ (tên di chỉ khảo cổ học thuộc sơ kỳ thời đại đồ đá cũ (cách đây khoảng 300.000 năm) phát hiện ở núi Đọ - Thiệu Hóa – Thanh Hóa).

Sau văn hóa Núi Đọ, các nhà khảo cổ học đã phát hiện ra di chỉ khảo cổ học thuộc hậu kỳ đá cũ ở Việt Nam, đó là văn hóa Sơn Vi – Lâm Thao, Phú Thọ (tồn tại trong khoảng từ 30.000 đến 11.000 năm cách ngày nay).

Trong giai đoạn Tiền sử, cách đây khoảng một vạn năm, loài người cũng bước vào thời đại đá mới. Thời kỳ này con người nhận biết, tận dụng và sử dụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá, đất sét, xương, sừng, tre, gỗ… Kĩ thuật chế tác đá được hoàn thiện và đạt tới đỉnh cao, loại hình cơng cụ nhiều. Đặc biệt con người đã biết làm gốm, thuần dưỡng động vật và cây trồng, bắt đầu sống định cư, dân số gia tăng. Tiêu biểu cho giai đoạn này là văn hóa Hịa Bình.

Cư dân văn hóa Hịa Bình sớng chủ yếu trong các hang động núi đá vôi, nhất là khu vực gần cửa hang thống đãng, có ánh sáng. Người Hịa Bình cũng sống chủ yếu bằng săn bắt và hái lượm theo phổ rộng.

Sự xuất hiện của nông nghiệp trồng trọt và muộn hơn một chút trong các văn hóa thuộc trung kỳ và hậu kỳ đá mới, việc sản xuất đồ gốm đã đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong đời sống con người, từ kinh tế khai thác sang kinh tế sản xuất. Cũng nhờ phương thức sản xuất mới mà con người đã mở rộng không gian sinh tồn, họ đã chinh phục được hai vùng sinh thái là núi, trước núi và ven biển.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Thời kỳ này cũng để lại những dấu vết của nghệ thuật như những hiện vật bằng xương có vết khắc hình cá, hình thú và những hình vẽ trên vách hang Đồng Nội, những mảnh thổ hoàng… Tư duy về thời gian vũ trụ được con người thể hiện bằng những hoa văn kí hiệu biểu thị mặt trời như hình trịn, hình chữ… vẽ trên đồ gớm. Thời kỳ này cũng xuất hiện những tín ngưỡng nguyên thủy. Là cư dân nơng nghiệp nên mưa, gió và đặc biệt là mặt trời đã trở thành những thần linh quan trọng đối với con người.

<i><b>1.2.3.1.2. Thời Sơ sử</b></i>

Cách đây 4.000 năm, các cộng đồng cư dân từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Đồng Nai đã bước vào thời đại kim khí/ thời đại đồ đồng. Thời kỳ này trên lãnh thổ Việt Nam có ba trung tâm văn hóa:

- Văn hóa Đơng Sơn (miền Bắc) được coi là cốt lõi của người Việt cổ.

- Văn hóa Sa Huỳnh (miền Trung) được coi là tiền nhân tố của người Chăm và vương q́c Chămpa.

- Văn hóa Đồng Nai (miền Nam) là một trong những cội nguồn hình thành văn hóa Ĩc Eo của cư dân thuộc nhóm Mã Lai – Đa Đảo sinh sống vào những thế kỉ sau công nguyên ở vùng Đông và Tây Nam Bộ. Hiện nay văn hóa Ĩc Eo thường được gắn với vương q́c Phù Nam, một nước tồn tại từ thế kỉ II đến thế kỉ VII ở châu thổ sông Cửu Long.

<b>* Văn hóa Đơng Sơn </b>

- Q trình hình thành

Q trình hình thành và phát triển của văn hóa Đơng Sơn ở miền Bắc là một quá trình hình thành nên cái cốt lõi của người Việt cổ và Nhà nước đầu tiên của người Việt cổ. Quá trình này là một sự phát triển có ý nghĩa nhảy vọt trong lịch sử Việt Nam. Bởi lẽ, về mặt xã hội sự phát triển từ xã hội cơng xã ngun thủy sang xã hội phân hóa giai cấp sơ kỳ, từ bộ lạc đến liên minh bộ lạc, tiến đến hình thành Nhà nước sơ khai là Nhà nước Văn Lang của các vua Hùng, rồi Nhà nước Âu Lạc của An Dương Vương. Về mặt văn hóa thì từ những tiền đề của văn hóa thời Tiền sử đã hình thành nên nền văn minh đầu tiên của người Việt cổ là văn minh sơng Hồng – q trình văn hóa bộ lạc mất dần tính địa phương để hịa chung vào một nền văn hóa thớng nhất trên một vùng rộng lớn từ biên giới Việt – Trung cho đến bờ sơng Gianh (Quảng Bình) với chủ nhân là một cộng đồng cư dân nhiều thành phần tộc người (54 tộc người) thuộc 4 ngữ hệ lớn: Nam Á, Thái, Tạng – Miến, Nam Đảo.

- Thành tựu văn hóa Đơng Sơn + Văn hóa tổ chức xã hội

Xã hội Đơng Sơn là một xã hội đã có phân hóa nhưng chưa sâu sắc, Nhà nước thì mới hình thành. Đơn vị cơ sở của xã hội là cơng xã nơng thơn – một tổ chức mang tính chất vùng địa lý, tập hợp một số gia đình gần gũi nhau cùng chung sớng, quan hệ huyết thớng dịng họ được duy trì. Đơn vị kinh tế là gia đình nhỏ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Ở phạm vi quốc gia, ngay từ thời kỳ này đã xác lập thể kết hợp “Nhà – Làng – Nước” mang sắc thái riêng của xã hội truyền thống Việt Nam. Trong đó, làng là đơn vị xã hội – văn hóa giữ vai trị chủ yếu trong sáng tạo, bảo tồn và tái tạo các truyền thống văn hóa.

+ Văn hóa vật chất

Nền kinh tế nơng nghiệp lúa nước dùng cày với sức kéo trâu bò phát triển, với sản phẩm chủ yếu là lúa. Bên cạnh đó là các ngành sản x́t thủ cơng như luyện kim, chế tạo đồ gốm, thủy tinh, nghề mộc, nghề dệt vải cũng phát triển.

Cơ cấu bữa ăn là Cơm – Rau - Cá. Có tục ́ng nước chè, uống rượu, tục ăn trầu, nhuộm răng, xăm mình… Y phục: sau một thời kỳ dùng vỏ cây làm áo, người Việt cổ tiến tới trồng gai, đay, trồng dâu chăn tằm, ươm tơ, dệt vải lụa. Từ các chất liệu đó, người xưa làm ra khố, váy, yếm, thắt lưng, khăn đội đầu… Nhà ở chủ yếu là nhà sàn có nhiều kiểu dáng, vật dụng sinh hoạt chủ yếu bằng gốm, tre nứa… Phương tiện đi lại là bằng thuyền, bè, mảng… Ngồi ra cịn có đi bộ, gánh gồng mang vác trên vai trên lưng, con người cũng biết thuần dưỡng voi để chuyển chở. Nghề mộc phát triển nên người xưa đã đóng được những thuyền lớn chở được vài chục người, họ cịn đóng cả thuyền chiến, thuyền đua…

+ Văn hóa tinh thần

Tín ngưỡng người Đông Sơn chủ yếu liên quan đến nông nghiệp trồng lúa. Đó là hình thái tín ngưỡng sùng bái tự nhiên với tục thờ mặt trời, thờ thần sông, thần biển… Tiếp đến là tín ngưỡng phồn thực biểu hiện ở tục thờ cơ quan sinh dục nam nữ và thờ hành vi giao phối. Tục thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng và thủ lĩnh, tín ngưỡng thờ Thành hồng…

+ Văn hóa nghệ thuật

Các nghệ thuật âm nhạc, nhảy múa thời Đông Sơn khá phát triển. Nhạc khí phong phú và đa dạng như trống các loại, chiêng, cồng, chuông, sênh, phách, khèn… Nghệ thuật múa gồm có múa hóa trang và múa vũ trang.

Lễ hội là một sinh hoạt quan trọng của cư dân nơng nghiệp Đơng Sơn. Tính chất của lễ hội là lễ hội làng, thường mở vào mùa xuân và mùa thu, có nội dung cầu mùa, cầu bình an vơ sự. Các thần thoại, truyền thuyết cũng hình thành trong thời gian này, biểu hiện tư duy của người Đông Sơn trong sự nhận thức về thế giới với đặc điểm chính là tư duy lưỡng phân.

Biểu tượng của văn hóa Đơng Sơn, văn minh sơng Hồng là trớng đồng Đơng Sơn.

<b>* Văn hóa Sa Huỳnh </b>

- Quá trình hình thành

Trung tâm hay đỉnh cao của văn hóa thời đại kim khí Việt Nam ở miền Trung (từ đèo Ngang đến Đồng Nai) được gọi theo tên một địa điểm khảo cổ học ven biển tỉnh Quảng Ngãi, đó là văn hóa Sa Huỳnh.

Văn hóa Sa Huỳnh tồn tại từ sơ kỳ thời đại đồng thau (hơn 4.000 năm cách ngày nay) cho tới sơ kỳ thời đại sắt sớm (những thế kỉ 7-6 T.CN tới thế kỉ 1-2 S.CN). Chủ nhân văn hóa Sa Huỳnh có quan hệ cội nguồn với chủ nhân văn hóa Bàu Tró là người tiền Mã Lai – Pôlinêdi

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

và chủ nhân của văn hóa sơ kì đồng thau miền cao nguyên Lâm Đồng là người tiền Môn – Khơme hay tiền Nam Á. Ngồi ra cịn có những mối giao lưu rộng rãi với các cư dân kim khí Đơng Nam Á hải đảo và lục địa. Qua đó có thể thấy chủ nhân của nền văn hóa này nói tiếng Nam Đảo hay Malai – Pôlinêdi với nhiều yếu tố Nam Á.

- Thành tựu văn hóa

Một đặc trưng tiêu biểu của văn hóa Sa Huỳnh là hình thức mai táng bằng chum gớm với nhiều hình dạng như hình cầu, hình trứng, hình trụ… Trong và ngoài chum chứa nhiều đồ tùy táng với các chất liệu đá, thủy tinh, đồng, sắt…

Cơng cụ lao động và vũ khí chủ yếu bằng đồng, sắt như dao, rựa, giáo, mai, liềm, thuổng, kiếm, qua… Cùng với việc đạt đến trình độ cao của kĩ thuật chế tạo đồ sắt, cư dân văn hóa Sa Huỳnh cịn đạt đến bước phát triển cao với các nghề se sợi, dệt vải, chế tạo đồ gốm, làm đồ trang sức.

Nền kinh tế của cư dân văn hóa Sa Huỳnh là nền kinh tế đa thành phần. Bên cạnh làm nông họ còn biết khai thác những nguồn lợi từ biển, rừng, biết phát triển các nghề thủ công, mở rộng quan hệ buôn bán với các cư dân trong khu vực Đông Nam Á lục địa và hải đảo, và rộng hơn là với Ấn Độ, với Trung Hoa.

<b>* Văn hóa Đồng Nai </b>

Cư dân Đồng Nai có mặt ở vùng đồng bằng Nam Bộ cách ngày nay khoảng 4.000 – 5.000 với không gian sinh sống gắn chặt với vùng đất cửa sông, giáp biển. Các cư dân ấy là lớp người đầu tiên đến lập nghiệp ở vùng đất này và xây dựng nên văn hóa Đồng Nai, đặt nền móng cho thời kì chinh phục vùng châu thổ sơng Cửu Long, tức thời kì của văn hóa Ĩc Eo vào những thế kỉ đầu công nguyên sau này.

Hoạt động kinh tế chủ yếu của cư dân Đồng Nai là nghề nông và nghề thủ công. Trong trồng trọt, lúa là loại cây lương thực chính. Người Đồng Nai cịn khai thác các sản vật rừng và săn bắn. Nghề thủ công của họ khá phát triển, thể hiện ở chế tác các đồ trang sức bằng đá, thủy tinh, sắt, đồng…

Đời sống tinh thần của cư dân Đồng Nai cịn nặng tín ngưỡng bái vật giáo được thể hiện qua nghệ thuật tạo hình: các di vật như tượng lợn rừng, rùa bằng sa thạch, tượng chó săn mồi bằng đồng… Ngồi ra cịn phải kể tới sưu tập đàn đá hơn 60 thanh.

Ngồi ra cịn có sự hội nhập của khơng ít yếu tớ văn hóa láng giềng như trớng đồng Đơng Sơn, khun tai hai đầu thú, khuyên tai ba mấu của văn hóa Sa Huỳnh…

<b>1.2.3.2. Văn hố Việt Nam thiên niên kỷ đầu cơng ngun </b>

<i><b>1.2.3.2.1. Văn hóa ở châu thổ Bắc bộ thời Bắc thuộc</b></i>

<b>* Bối cảnh văn hóa lịch sử </b>

Vào những thế kỷ cuối của thiên niên kỷ trước cơng ngun, nền văn hóa Việt cổ bắt đầu chịu những thử thách lớn. Quốc gia Văn Lang, sau đó là Âu Lạc và dân tộc hầu như vừa

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

mới được xác lập và tồn tại chưa bao lâu đã rơi vào tình trạng bị đô hộ. Năm 179 T.CN, Triệu Đà vua nước Nam Việt đóng đơ ở Phiên Ngung (Quảng Đơng - Trung Quốc ngày nay) xâm chiếm nước Âu Lạc, chia Âu Lạc ra thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân. Năm 111 T.CN, nhà Hán chiếm được nước Nam Việt, đổi vùng đất của Âu Lạc thành châu Giao Chỉ, dưới đó là bảy quận, với chức quan đầu châu là Thứ sử, đầu quận là Thái thú. Thời kỳ này kéo dài từ năm 179 T.CN tới năm 938 với chiến thắng của Ngô Quyền mở đầu cho kỷ nguyên độc lập thời tự chủ của quốc gia Đại Việt. Thời kỳ này thường được gọi là thời nghìn năm Bắc thuộc, song có lẽ đúng hơn là thời Bắc thuộc và chớng Bắc thuộc vì người Việt chưa bao giờ chịu kh́t phục.

Trong diễn trình lịch sử văn hóa, bên cạnh xu hướng Hán hóa là xu hướng chớng Hán hóa mạnh mẽ, gìn giữ bản sắc của dân tộc Việt, văn hóa Việt. Cùng với việc xâm lược lãnh thổ, nhà Hán và sau này là các triều đại tiếp theo của phong kiến phương Bắc đã tiến hành đồng hóa về mặt dân tộc và văn hóa. Trong thời kỳ này, đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt là đấu tranh để bảo vệ bản sắc văn hóa của mình, chớng lại chính sách đồng hóa, đồng thời vẫn tiếp tục cớ gắng phát triển, cớ gắng duy trì và nung nấu quyết tâm giải phóng đất nước, giải phóng dân tộc.

<b>* Tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán </b>

Cùng với việc xâm chiếm và thôn tính đất đai của người Việt, giai cấp thớng trị Hán đã tiến hành những chính sách đồng hóa văn hóa Việt trên mọi phương diện.

+ Ở lĩnh vực chính trị - xã hội, kẻ thớng trị Hán có ý thức di thực mơ hình tổ chức chính trị và sinh hoạt xã hội của Trung Hoa sang đất Việt với mục đích thiết lập trên đất này một cơ cấu xã hội, một thể chế chính trị, một phương thức canh tác và một phong tục tập qn giớng như Trung Hoa. Đó là các chính sách bắt dân bản xứ học tập như người Hán, ăn mặc, tổ chức xã hội, làm ruộng giớng người Hán. Ngồi ra cịn có những cuộc di cư ồ ạt từ phương Bắc xuống sống lẫn với người Việt để đồng hóa người Việt.

+ Ở lĩnh vực tư tưởng là sự truyền bá các học thuyết, các tôn giáo của phương Đông, là sự du nhập của đạo Nho, đạo Lão – Trang… vào Việt Nam.

+ Sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn hóa Việt – Hán cịn để lại dấu ấn trong những lĩnh vực khác như cách ăn, mặc, ở, đi lại, phương thức sản xuất, quan hệ xã hội, tiếng nói…

Nhưng Hán hóa với mục tiêu là đồng hóa thì bọn xâm lược phương Bắc khơng thành cơng. Điều đó là do trong śt thời gian này, bên cạnh hướng Hán hóa đã có một chiều hướng khác luôn hạn chế và làm biến chất cái áp đặt từ bên ngồi. Đó là chiều hướng chớng Hán hóa để giữ gìn bản sắc của dân tộc. Vì thế từ đầu cơng ngun trở đi, nền văn minh Đông Sơn mà sợi dây liên kết là Nhà nước Âu Lạc với thiết chế xã hội là chế độ Lạc tướng đã bị giải thể cấu trúc. Những mảnh vụn của nền văn minh này cùng với cái “thần thái Đơng Sơn” của nó tuy khơng bị mất đi nhưng một mặt đã hịa tan vào nền văn hóa dân gian của các làng Việt cổ và các thành phần tộc người khác của miền Đông Dương và Đông Nam Á; mặt khác đã và sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

gá lắp với những thể chế văn minh ngoại sinh tới từ phía Trung Hoa, Ấn Độ… để dần dần tạo nên một sắc thái văn minh mới.

<b>* Giao lưu văn hóa tự nhiên Việt - Ấn </b>

Ngay từ thời Đông Sơn, người Việt cổ đã tiến hành giao lưu rộng rãi với nhiều vùng trong khu vực. Trong giai đoạn thiên niên kỉ I sau công nguyên, bên cạnh giao lưu với văn hóa Hán, luồng ảnh hưởng của văn hóa phương Nam mà tiêu biểu là văn hóa Ấn Độ đã theo Phật giáo du nhập vào nước ta. Phật giáo từ Ấn Độ truyền bá vào đất Việt và Trung Quốc, rồi từ Trung Quốc truyền dội sang đất nước ta từ rất sớm, khoảng thế kỉ I, II đầu công nguyên.

Ở đời Hán, ba trung tâm Phật giáo là Lạc Dương ở Hà Nam (kinh đô nhà Hậu Hán), Bành Thành ở Giang Tô và trung tâm Luy Lâu ở đất nước ta. Trung tâm Luy Lâu có thể được hình thành do sự viếng thăm của những thương nhân và tăng sĩ Ấn Độ theo thuyền mà tới bằng đường biển và đường sông. Đạo Phật tại Giao Châu chắc chắn do từ Ấn Độ truyền sang trực tiếp, mãi về sau mới lại do từ Trung Hoa tiếp tục truyền xuống.

Thương gia Ấn Độ đến Giao Châu phải ở lại đây cho đến năm tới, chờ gió mùa Đơng Bắc để trở về Ấn Độ. Một số tăng sĩ có thể ở lại hẳn Luy Lâu. Họ sớng với người Việt và Hoa kiều, và đã ảnh hưởng tới những người này bằng tiếng nói, lới sớng và đạo Phật. Người Việt đã tiếp thu nhiều thành tựu văn hóa vật chất, ngơn ngữ và tinh thần Ấn Độ trong đó có Phật giáo.

<b>* Giữ gìn, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc </b>

Từ trong các xóm làng cổ, người Việt thời Bắc thuộc vẫn bảo tồn và phát huy cái vớn liếng văn hóa bản địa, nội sinh tích lũy được qua hàng nghìn năm trước.

Trên cơ sở vớn liếng văn hóa bản địa vững chắc, sự hấp thụ các yếu tớ văn hóa Đơng Nam Á, Ấn Độ, Trung Á và Tây Á… có tác dụng trung hịa những ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa, khiến cho văn hóa Việt cổ thời Bắc thuộc vẫn mang tính chất độc đáo, đặc thù, khác và vẫn có thể phân biệt được với văn hóa Trung Hoa. Nhân dân ta đã biến những của cải đi vay thành tài sản của dân tộc để bồi dưỡng, xây dựng và phát triển nền kinh tế và văn hóa dân tộc.

Ngay trong khi vay mượn, nhân dân ta vẫn thể hiện được tinh thần sáng tạo. Ví dụ như từ chỗ tiếp thu kĩ thuật làm giấy của Trung Q́c, nhân dân ta đã biết tìm tịi, khai thác nguyên liệu địa phương để chế tác những loại giấy tớt, chất lượng và có phần hơn giấy sản xuất ở miền nội địa Trung Hoa. Hay là trong khi chịu ảnh hưởng của kĩ thuật gốm sứ Trung Quốc, ta vẫn sản xuất ra các mặt hàng độc đáo như sanh hai quai, ống nhổ, bình con tiện có đầu voi, bình gớm có nạm hạt đá ở chung quanh cổ tựa như loại “iang” của đồng bào Mơnông gần đây.

Biểu hiện rõ rệt của sự bảo tồn nịi giớng và văn hóa Việt là sự bảo tồn tiếng Việt – tiếng mẹ đẻ, tiếng nói của dân tộc. Khi bị đế chế Trung Hoa chinh phục và kiểm soát chặt chẽ, tiếng Hán và chữ Hán được du nhập ồ ạt vào nước ta. Song nó khơng thể tiêu diệt được tiếng Việt bởi lý do rất đơn giản là chỉ một lớp người thuộc tầng lớp trên học. Nhân dân lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

trong các xóm làng Việt cổ vẫn sớng theo cách sớng riêng của mình, cho nên họ duy trì được tiếng nói của tổ tiên, tiếng nói biểu hiện cuộc sớng và tâm hồn Việt. Nói như vậy khơng có nghĩa là tiếng Việt khơng có sự thay đổi dưới tác động của ngôn ngữ Hán. Tiếng Việt đã phát triển ngày càng xa với trạng thái ban đầu của nó do có tiếp thu nhiều yếu tớ của ngơn ngữ Hán. Tiếng Việt có nhiều từ gốc Hán, và chúng được nhân dân biến đổi để trở thành những từ Hán – Việt. Ngoài ra, tiếng Việt cũng tiếp thu nhiều ảnh hưởng của ngôn ngữ Mã Lai, Tạng-Miến và nhất là Ấn Độ làm cho vốn từ tiếng Việt thêm phong phú. Về mặt chữ viết, người Việt cũng tiếp nhận một cách sáng tạo loại hình chữ khới vng của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt đã dẫn đến sự hình thành chữ Nơm.

Phong tục, lễ giáo, văn học nghệ thuật trong thời kỳ Bắc thuộc vẫn được duy trì và phát huy mạnh mẽ. Nhiều tục lệ cổ truyền khác vẫn được bảo tồn như tục cạo tóc hay búi tóc, tục xăm mình, tục chơn người chết trong quan tài hình thuyền hay thân cây khoét rỗng, tục nhuộm răng, ăn trầu…

Tục thờ cúng các anh hùng huyền thoại và các anh hùng lịch sử như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan… được người Việt thực hiện thường niên. Các tín ngưỡng và lễ hội nông nghiệp của cư dân lúa nước vẫn giữ được sức sớng của nó trong lịng các làng xã.

Về âm nhạc, bên cạnh một số nhạc cụ chịu ảnh hưởng của Trung Hoa như khánh, chuông… chịu ảnh hưởng của Ấn Độ và Trung Á như trống cơm, hồ cầm,… vẫn tồn tại những dụng cụ độc đáo của nền nhạc Việt như trống, khèn, cồng chiêng…

Đứng trên phương diện thể chế chính trị và cơ cấu xã hội hạ tầng, có thể nói, trong thời Bắc thuộc người Việt mất nước chứ không mất làng. Giống như một học giả phương Tây đã nhận xét, qua Bắc thuộc, nước Việt như một tòa nhà chỉ bị thay đổi mặt tiền mà không bị thay đổi cấu trúc bên trong. Đó là một hạn chế rất lớn của nền Bắc thuộc và cũng là một lợi thế quan trọng của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chớng đồng hóa, giành lại độc lập dân tộc.

<i><b>1.2.3.2.2. Văn hóa Chămpa</b></i>

Người Chăm lập q́c vào khoảng thế kỉ thứ II, sau khi thoát khỏi ách độ hộ của phong kiến Trung Quốc, và cho đến tận thế kỉ XV, vương quốc Chămpa tan rã. Trong quá khứ, vương quốc này trải dài dọc theo Trung Bộ: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Bình Định, Nha Trang, Khánh Hồ, Phan Rang - Phan Thiết. Từ rất sớm (vào những thế kỉ trước công nguyên), thông qua các hoạt động thương mại và truyền giáo, người Chăm đã giao lưu với văn hố Ấn một cách hồ bình.

<i>* Đời sống kinh tế</i>

Người Chăm có một nền kinh tế đa thành phần mà trước hết là nghề nông trồng lúa nước – dâu tằm – bông – hoa màu; nghề rừng khai thác lâm thổ sản như quế, trầm hương, hạt tiêu...; nghề biển; nghề thủ công như rèn, dệt vải lụa, làm gốm, chế tạo đồ thủy tinh, đá ngọc...

Người Chăm có những tiến bộ về nơng nghiệp mà đầu tiên là phát hiện ra giống lúa

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

chịu hạn (lúa Chiêm), gieo cấy cả hai vụ từ tháng 7 đến tháng 10 trồng lúa trắng ở ruộng bạch điền, từ tháng 12 đến tháng 4 trồng lúa đỏ ở ruộng xích điền. Để thích ứng với đất khơ hạn, người Chăm có hàng loạt biện pháp thủy lợi như cọn nước, giếng, hồ đập... đặc biệt là hệ thống khai thác nước mạch chảy ra từ những cồn cát, đồi gị mà vết tích hiện nay vẫn cịn thấy ở Ninh Thuận, Bình Thuận...

<i>* Đời sống tơn giáo</i>

Hầu như tất cả các tôn giáo của Ấn Độ đều có mặt trong văn hố Chăm, trong đó Bàlamơn giáo là tơn giáo có ảnh hưởng lớn nhất.

- Brahmanism là tiền thân của Hinđu giáo (Ấn Độ giáo ngày nay), với ý niệm trung

<i>tâm là bộ ba gồm các thần: Brahma (thần sáng tạo đầy quyền năng) - Visnu (thần bảo trợ và bảo tồn) - Siva (thần huỷ diệt). Trong bộ ba này, người Chăm đặc biệt coi trọng vai trò của </i>

<i>Thần Siva, khiến cho việc thờ phụng Siva trở thành một nhánh tôn giáo phát triển khá độc </i>

lập, khiến có thể hiểu Brahmanism của người Chăm là Siva giáo.

<i>- Siva giáo và tín ngưỡng phồn thực bản địa của người Chăm hoà trộn với nhau để tạo </i>

thành một thứ tôn giáo hỗn dung. Theo đó, Siva được hố thân dưới dạng Linga hay hiện diện đi kèm với Linga - với tư cách là những đối tượng thờ cúng của người Chăm.

* Kiến trúc – điêu khắc

Người Chăm để lại một di sản kiến trúc đầy tính nghệ thuật và tinh tế. Đó là các quần

<i>thể kiến trúc - điêu khắc mà chủ yếu là quần thể các tháp Chàm. </i>

Tháp Chăm đứng sừng sững uy nghi trước sóng gió, chúng có mặt rải rác từ ven biển lên đến Tây Nguyên, suốt dọc miền Trung từ Bắc vào Nam – khắp nơi có người Chăm cư trú. Thớng kê cho biết hiện cịn 19 khu tháp với hơn 40 kiến trúc lớn nhỏ. Số lượng các phế tháp do bom đạn tàn phá và hủy diệt là chưa thể xác định được. Theo khảo sát và thống kê của H. Parmentier vào năm 1904-1909, riêng lịng chảo Mĩ Sơn (Quảng Nam) đã có tới trên 70 kiến trúc.

Về kiến trúc quần thể, tháp Chăm có hai loại: Loại thứ nhất là các quần thể kiến trúc bộ ba gồm tháp song song thờ ba vị thần Brahma, Visnu, Siva. Loại thứ hai là các quần thể kiến trúc có một tháp trung tâm thờ Siva và các tháp phụ vây quanh. Loại này thường xuất hiện muộn hơn (khoảng thế kỉ IX); có những nơi trước vớn là quần thể kiến trúc bộ ba, đến khi tu chỉnh đã được chuyển thành loại quần thể có một tháp trung tâm.

Về chức năng, hầu hết tháp Chăm đều mang tính chất lăng mộ thờ vua (ta theo hình thức mà gọi là “tháp”, nhưng người Chăm thì gọi chúng là kalăn, có nghĩa là “lăng”). Ngồi chức năng lăng mộ thờ vua, tháp Chăm còn là đền thờ thần bảo trợ của nhà vua. Chính vì chức năng lăng mộ và đền thờ nên nội thất tháp Chăm rất chật hẹp, nó chỉ đủ chỗ cho các pháp sư hành lễ chứ khơng phải là nơi tín đồ hội tụ và cầu nguyện.

* Văn tự, lịch pháp, âm nhạc

Người Chăm tiếp thu hệ thống văn tự Ấn Độ cổ (chữ Phạn - Sancrit) để tạo ra chữ viết

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

riêng của họ.

Từ thời xưa, người Chăm đã biết dùng lịch. Có một lịch pháp Ấn Độ đã du nhập vào Chămpa và người Chăm đã dùng lịch này từ đó đến nay.

Âm nhạc và múa có vai trị rất quan trọng trong đời sống tinh thần của người Chăm, nhất là những nghi lễ và hội lễ mang tính chất tín ngưỡng, tôn giáo như lễ Tết Katê, lễ mở cửa thánh, lễ cầu đảo, các lễ Chà Và lớn và nhỏ, những buổi lên đồng. Trống Baranưng và trống Kynăng là hai loại trống tiêu biểu cho nhạc cụ gõ của người Chăm. Trong nhạc cụ hơi, chiếc kèn Saranai có vị trí đặc biệt. Múa là loại hình nghệ thuật gắn bó với người Chăm như hình với bóng. Người Chăm có các loại múa như múa sinh hoạt, múa tôn giáo, múa tập thể và độc diễn, múa đạo cụ và múa bóng...

<i><b>1.2.3.2.3. Văn hóa Ĩc Eo</b></i>

Ĩc Eo là tên một di tích khảo cổ học ở cánh đồng Giồng Cát – Giồng Xoài, nơi lần đầu tiên phát hiện ra di chỉ của một nền văn hoá, được người Pháp tiến hành khai quật vào năm 1944. Hiện nay, địa danh này thuộc tỉnh An Giang.

Chủ nhân của nền văn hố Ĩc Eo, cho đến nay vẫn cịn nhiều ý kiến khác nhau. Một số học giả cho rằng, chủ nhân của nền văn hoá này là thuỷ tổ của người Khơ-me ngày nay, một số quan điểm khác lại coi đây là nền văn hố của giớng người thuộc chủng Indonesia, sử dụng tiếng Nam Đảo là chủ yếu. Nền văn hoá rực rỡ này đã tàn lụi vào khoảng thế kỉ thứ VIII, và hiện nay người ta chỉ biết về nó thơng qua các di chỉ khảo cổ.

Các di chỉ khảo cổ cho thấy, địa bàn cư trú của người của người Óc Eo trải rộng khắp các tỉnh Nam Bộ ngày nay, ở nhiều tiểu vùng sinh thái khác nhau và ở mỗi tiểu vùng này có những đặc trưng riêng về cách xây cất nhà ở, đền tháp, cách thức làm ăn, đi lại. Có các tiểu vùng như tiểu vùng tứ giác Long Xuyên, tiểu vùng Đồng Tháp Mười, tiểu vùng ven biển Tây Nam (vùng U Minh – Năm Căn), tiểu vùng rừng sát duyên hải, tiểu vùng ven biển Đông, tiểu vùng Đông Nam Bộ...

Người Óc Eo ở nhà đất và nhà sàn, phổ biến là nhà sàn. Họ trồng trọt trên nhiều loại thổ nhưỡng khác nhau, chủ yếu là trồng lúa. Ngồi ra cịn có trồng dừa, mía, cau và nhiều loại cây ăn quả khác. Hoạt động chăn nuôi thuần dưỡng khá phát triển như nuôi trâu, bị, lợn, chó... Nghề thủ cơng phát triển cao, rất đa dạng và tinh xảo nhất là nghề làm trang sức bằng vàng, rồi nghề gia công kim loại màu, nghề chế tác đá, nghề làm gớm... Ngồi các hoạt động sản xuất, hoạt động trao đổi bn bán cũng khá phát triển ở cư dân Ĩc Eo.

Người Ĩc Eo ảnh hưởng mạnh văn hố Ấn Độ. Cư dân theo Bàlamôn giáo, Phật giáo, thờ cúng Linga. Hệ thống đền đài và lăng tẩm khá quy mô, tất cả đều mang hơi hướng của nền văn hố Ấn.

<i>Tóm lại, có thể nhận ra Phật giáo là "mẫu số chung" của những lần giao lưu với văn hố </i>

Ấn. Vì yếu tớ này hiện diện nhiều lần trong các đợt lan toả trực tiếp và thứ phát. Điều đó giúp

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

lí giải vì sao Phật giáo lại là yếu tớ văn hố ngoại sinh song lại có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất tại Việt Nam.

<b>1.2.3.3. Văn hoá Việt Nam thời tự chủ </b>

<i><b>1.2.3.3.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử</b></i>

Thời tự chủ của quốc gia Đại Việt kéo dài suốt gần một thiên niên kỉ, từ năm 938 cho đến năm 1858. Giai đoạn này có nhiều biến đổi tự thân trong nội bộ quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng lại là thời kì có biến đổi nhiều từ ngoại cảnh.

Sau chiến thắng Bạch Đằng, Đại Việt bước vào thời kì xây dựng q́c gia độc lập. Diễn trình lịch sử từ năm 938 đến 1858 diễn ra với những đặc điểm sau:

- Các vương triều liên tục thay thế nhau xây dựng một quốc gia tự chủ.

- Đất nước được mở rộng dần về phương Nam, đến giữa thế kỉ XVIII, việc khai phá miền Nam Bộ đã cơ bản hoàn thành. Sau năm 1786 và năm 1802, đất nước Việt Nam có một lãnh thổ thống nhất từ Mục Nam Quan đến mũi Cà Mau.

- Thời kì này có các cuộc xâm lược liên tiếp của phong kiến phương Bắc và những cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước của cư dân Việt.

- Văn hóa Việt Nam thời tự chủ có ba lần phục hưng lớn: lần thứ nhất là thời Lý – Trần; lần thứ hai vào thế kỉ XV từ đời Lê Thái Tổ đến đời Lê Thánh Tông; lần thứ ba vào cuối thế kỉ XVIII.

<i><b>1.2.3.3.2. Đặc trưng văn hóa thời Lý – Trần</b></i>

Với việc dời đơ về Đại La và đổi tên là thành Thăng Long, nhà Lý đã mở đầu một giai đoạn phục hưng văn hóa Đại Việt. Nhà Trần tiếp tục sự nghiệp của nhà Lý, đưa đất nước tiếp tục phát triển về mọi mặt.

<b>* Văn hóa vật chất </b>

Sau dời đô, tại Thăng Long, nhà Lý cho xây dựng nhiều cung điện, đền đài, thành lũy. Thành Thăng Long là một cơng trình xây dựng thành lũy lớn nhất trong các triều đại phong kiến với hai vòng, thành dài khoảng 25 km, bên trong lại có những cung điện cao ba bốn tầng.

Kiến trúc và điêu khắc phát triển, chủ yếu là các cơng trình chùa chiền như chùa Một Cột, tháp Báo Thiên, chùa Giạm… Nghệ thuật điêu khắc trên đá, trên gốm thể hiện một phong cách đặc sắc và tay nghề khá thuần thục. Bố cục tượng gọn, đẹp và cân xứng nhưng không trùng lặp và đơn điệu. Từng chi tiết được chú ý khi chạm trổ, những đường cong mềm mại, gợi tả nên rất thanh thoát và nhẹ nhàng.

Các nghề thủ công cũng rất phát triển như nghề dệt, nghề gớm, mĩ nghệ… Đã hình thành những làng nghề chuyên sản xuất một mặt hàng nhất định như làng Ma Lôi (Hải Hưng). Kinh thành Thăng Long mở rộng chia thành 61 phường, tại đây khơng chỉ có chợ mà cịn có những phường thủ công và phố xá buôn bán.

<b>* Hệ tư tưởng </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Đặc trưng nổi trội thời Lý – Trần là sự dung hòa Tam giáo Nho – Phật – Đạo hay còn gọi là Tam giáo đồng nguyên. Tinh thần văn hóa Lý – Trần là tinh thần khai phóng đa ngun, phới hợp Phật, Nho, Đạo cùng các tín ngưỡng dân gian khác kể cả ảnh hưởng của tơn giáo Chămpa.

<b>* Văn hóa tinh thần </b>

Nhà Lý bắt đầu chăm lo mở mang học tập và thi cử để đào tạo nhân tài và tuyển lựa quan lại có năng lực cho bộ máy hành chính. Năm 1070 cho xây dựng Văn Miếu, năm 1076 mở Quốc Tử Giám làm nơi học tập cho con em quý tộc, năm 1975 mở khoa thi đầu tiên để chọn nhân tài…

Các hình thái văn hóa dân gian như lễ hội, tín ngưỡng, phong tục, truyện dân gian, hát múa, điêu khắc được phục hưng và lưu truyền cho đến tận ngày nay.

Nền văn hóa bác học hình thành và phát triển. Văn học chữ viết được hình thành với một đội ngũ tác giả hùng hậu. Bên cạnh dòng văn học viết bằng chữ Hán, lịch sử thời kì này chứng kiến sự hình thành của văn học chữ Nơm.

<i><b>1.2.3.3.3. Đặc trưng văn hóa thời Minh thuộc và Hậu Lê</b></i>

Cuối thời nhà Trần, nhà Hồ thay thế một khoảng thời gian rất ngắn (1400 - 1407). Hồ Quý Ly đã tiến hành những cải cách có những mặt tiến bộ nhất định. Nhưng các chính sách cải cách này chưa đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và chưa trả lời được những câu hỏi lớn của dân tộc đang đặt ra một cách gay gắt. Tháng 4 năm 1407, sau khi chiếm được Đại Việt, nhà Minh đổi nước ta thành quận Giao Chỉ, tiến hành một chính sách cai trị vơ cùng tàn bạo nhằm thủ tiêu nền độc lập của Đại Việt và thủ tiêu ln cả nền văn hóa của nước ta. Toàn thể dân tộc Đại Việt đứng trước một thử thách vô cùng ngặt nghèo.

Cuộc tụ nghĩa ở Lam Sơn của người dân, của những thức giả có lịng u nước đã dẫn đến chiến thắng của dân tộc Đại Việt trước sự xâm lược và đô hộ của nhà Minh. Trang sử mới của đất nước được mở ra, văn hóa dân tộc bước vào thời kì phục hưng lần thứ hai.

<b>* Hệ tư tưởng </b>

Nho giáo đã nhanh chóng chiếm một địa vị ưu thế so với các tôn giáo khác. Nho giáo thời Lê chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo đời Tống. Phật giáo, Đạo giáo bị lấn át, nhất là Phật giáo mất vị trí ưu thế của mình đã có từ thời Lý – Trần.

<b>* Văn hóa vật chất </b>

Nhà Lê rất quan tâm đến đê điều và các cơng trình thủy lợi. Một số đê điều được tu bổ lại, một số đê mới ở ven biển được đắp để ngăn mặn có kè đá chắc chắn.

Sau một thời gian bị tàn phá nặng nề, các ngành nghề, làng nghề lại tiếp tục phát triển. Nhiều trung tâm thủ công nghiệp xuất hiện, kinh thành Thăng Long chia lại 36 phường. Nhiều phường có phớ xá bn bán và sản xuất thủ công nghiệp. Riêng quan hệ buôn bán với nước ngồi nhà Lê có phần hạn chế nên ngoại thương cũng không phát triển bằng thời Lý – Trần.

Kiến trúc và điêu khắc chịu sự tác động của hệ tư tưởng mà triều đình lựa chọn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<b>* Văn hóa tinh thần </b>

Vương triều Lê chú trọng mở mang giáo dục. Chế độ đào tạo Nho sĩ được xây dựng theo một xu hướng rất chính quy. Nội dung học tập chủ yếu là các sách kinh điển của Nho giáo. Đối tượng người học có phần cởi mở hơn lúc trước, có cả con em bình dân, khơng kể giàu nghèo. Chế độ thi cử khá quy cũ. Từ 1422 trở đi, cứ 3 năm có một lần thi Hội ở kinh thành, tại các địa phương có thi Hương, triều đình đặt ra lễ xướng danh, lễ vinh quy và lễ khắc tên mỗi người đỗ tiến sĩ vào bia đá dựng ở Văn Miếu gọi là bia tiến sĩ.

<i>Văn hóa ngơn từ, văn học chữ Nơm vẫn khơng ngừng phát triển. Quốc âm thi tập của </i>

Nguyễn Trãi là bài thơ Nơm cổ nhất hiện cịn. 28 hội viên của hội Tao Đàn để lại khá nhiều tác phẩm, về hình thức tuy cịn khn sáo nhưng có ít nhiều đóng góp cho tiến trình văn học, văn hóa của dân tộc.

Một sớ loại hình như ca, múa nhạc vẫn tiếp tục phát triển. Tuồng chèo là hai thể loại

<i>sân khấu đã đạt đến sự ổn định về mặt nghệ thuật. Cuốn Hý phường phả lục của Lương Thế </i>

Vinh đã hoàn thành năm 1501 là tác phẩm lý luận đầu tiên về kịch hát cổ truyền chứng tỏ bước phát triển của tư duy nghệ thuật dân tộc về phương diện lý luận.

Tín ngưỡng thờ cúng Thành hồng có sự thay đổi cả về lượng lẫn diện mạo. Đình làng trở thành trú sở của thần linh ở mỗi làng quê và cũng mang chức năng mới – công sở của làng xã, nơi ban bớ chính lệnh của Nhà nước.

<i>Thành tựu đáng ghi nhận ở thời kì này là bộ luật Hồng Đức, bao gồm cả luật hình sự, </i>

luật hơn nhân và gia đình, luật dân sự và tớ tụng. Bộ luật này được thi hành cho đến cuối thế kỉ XVIII, về sau có bổ sung thêm một số điều, tổng cộng là 721 điều chia làm 6 quyển, 16

<i>chương. Bộ luật Hồng Đức là một bước phát triển quan trọng của lịch sử pháp quyền Việt </i>

<i><b>1.2.3.3.4. Đặc trưng văn hóa từ thế kỉ XVI đến năm 1858</b></i>

Đặc điểm của thời kì này là sự phân liệt về chính trị một cách gay gắt. Sự xung đột giữ nhà Mạc và nhà Lê rồi sự xung đột gay gắt giữa nhà Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài với các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, sự thống nhất đất nước buổi đầu của Nguyễn Huệ và sau đó là nhà Nguyễn của vua Gia Long đã tạo cho văn hóa giai đoạn này một diện mạo khá đa dạng.

<b>* Hệ tư tưởng </b>

Trên thực tế, nhà Mạc chống lại tư tưởng độc tôn Nho giáo của nhà Lê, nhưng từ trong tiềm thức của giai cấp phong kiến thì Nho giáo vẫn được bảo vệ để làm kỷ cương cho đời sống xã hội. Tuy nhiên, tầng lớp Nho sĩ lúc này bị phân hóa, một sớ có tấm lịng ưu thời mẫn thế thì hoặc lui về ở ẩn hoặc tham gia các cuộc khởi nghĩa của nông dân; cịn đa sớ đua chen vào con đường danh lợi.

Sự suy sụp của Nho giáo kéo dài cho đến đầu thế kỉ XIX. Bắt đầu từ vua Gia Long cho tới Minh Mệnh, Thiệu Trị và Tự Đức đều ra sức củng cố địa vị của Nho giáo nhưng vẫn khơng làm cho Nho giáo có được vị thế như nó đã từng có ở thế kỉ XV.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Bắt đầu từ thế kỉ XVI, một tôn giáo mới được du nhập vào nước ta là Kitô giáo. Sự phát triển của Kitô giáo ở Việt Nam có phần khác biệt với Nho giáo, Phật giáo ở Việt Nam.

Từ thế kỷ XVII, khi vào nước ta để truyền đạo, các giáo sĩ đã học tiếng Việt để giảng đạo, dùng chữ cái Latinh để ghi âm tiếng Việt nên chữ Quốc ngữ dần dần xuất hiện.

<b>* Sự phát triển của các ngành văn hóa nghệ thuật </b>

Nét đáng chú ý của văn học giai đoạn này là văn Nôm, được khởi phát từ các giai đoạn trước đã ngày càng phát triển. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Đào Duy Từ đã dùng văn Nôm để sáng tác, và sang đến thế kỷ XVIII – XIX những tác phẩm chữ Nơm đã hồn tồn chiếm ưu thế

<i>trên văn đàn như Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều, thơ của Bà Huyện Thanh Quan, những truyện Nôm dài như Phan Trần, Nhị độ mai, Quan Âm Thị </i>

<i>Kính, Phạm Công – Cúc Hoa… Tương ứng với sự phát triển của văn học viết bằng chữ Nôm </i>

là sự phát triển của thể lục bát và song thất lục bát, cùng những sáng tác dân gian như truyện trạng, truyện cười, tục ngữ; các hình thức diễn xướng như hát tuồng, hát chèo, hát ả đào… đều phát triển.

Về kiến trúc và điêu khắc là sự nở rộ của những cơng trình mang đậm màu sắc Phật giáo và Đạo giáo như chùa chiền, đình đền… Bên cạnh những chủ đề tâm linh nhân thế, điêu khắc đình làng thời kỳ này cịn có những hoa văn phản ánh sinh hoạt văn hóa đời thường. Nghệ thuật tạc tượng thế kỷ XVIII đã đạt đến một trình độ nghệ thuật điêu luyện. Đáng chú ý là kiến trúc và điêu khắc thời các vua Nguyễn nửa đầu XIX, thể hiện qua các cơng trình của Kinh đô Huế và các đền đài lăng tẩm.

<b>1.2.3.4. Văn hoá Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 </b>

<i><b>1.2.3.4.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử</b></i>

Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam với lý do triều đình Huế ngược đãi các giáo sĩ và cự tuyệt không nhận quốc thư của Pháp địi tự do bn bán – mở đầu cho thời kỳ thực dân Pháp đô hộ nước ta.

Đứng trước vận mệnh lớn lao của lịch sử, nhân dân Việt Nam đã liên tục đứng lên chống Pháp. Tất cả các phong trào yêu nước chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc tuy rất kiên cường nhưng đều bị thất bại.

Cơng cuộc bình định Việt Nam của thực dân Pháp căn bản hoàn thành và chúng bắt tay vào công cuộc khai thác thuộc địa. Cả hai lần khai thác thuộc địa, thực dân Pháp không hề chủ trương xóa bỏ các quan hệ kinh tế cổ truyền mà chủ trương duy trì các quan hệ ấy. Vậy nên, diện mạo văn hóa xã hội Việt Nam thời kỳ này sẽ bao gồm cả quan hệ tư bản thực dân và cả quan hệ phong kiến.

<i><b>1.2.3.4.2. Đặc trưng văn hóa từ năm 1858 đến năm 1945</b></i>

Giai đoạn này có hai đặc trưng văn hóa lớn là sự tiếp xúc cưỡng bức và giao thoa văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

hóa Việt – Pháp; giao lưu văn hóa tự nhiên Việt Nam với thế giới Đông Tây.

<b>* Hệ tư tưởng </b>

Sự tiếp xúc, giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và phương Tây tạo ra sự chuyển mình của hệ tư tưởng Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1945 diễn ra trong một thời kì đầy biến động lớn về tư tưởng và chính trị.

Trên mặt bằng lịch sử, các hệ tư tưởng vào Việt Nam từ hàng nghìn năm trước vẫn tồn tại ở xã hội mà căn bản vẫn là xóm làng với những người nơng dân trồng lúa nước nên hệ tư tưởng của họ là hệ tư tưởng thần thoại với một hệ thống thần linh đa dạng.

Hệ tư tưởng Nho giáo mất dần vị trí của mình khi ngày càng có nhiều luồng tư tưởng mới du nhập vào Việt Nam như trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản qua các tân văn và tân thư của Trung Quốc, các thuyết về nhân đạo, dân quyền của một số nhà tư tưởng phương Tây. Các nhà Nho Việt đã từ biệt hệ tư tưởng cũ để tiếp thu các hệ tư tưởng mới này để tìm một con đường khác trên hành trình cứu nước. Phan Bội Châu là một nhân chứng tiêu biểu. Đi từ tư tưởng quân chủ chuyển sang tư tưởng dân chủ, và cuối đời ơng cịn viết sách về chủ nghĩa xã hội.

Từ tấm lòng yêu nước, nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin rồi truyền bá vào Việt Nam. Giai cấp công nhân ngày càng phát triển và giác ngộ về mình. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân ngày càng lan rộng và có tổ chức. Đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh dấu một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Nó chứng tỏ giai cấp vô sản đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, đồng thời cũng khẳng định sự hiện diện của một hệ tư tưởng mới ở Việt Nam.

<b>* Văn hóa vật chất </b>

Từ ći thế kỷ XIX, tính chất của đơ thị Việt Nam đã chuyển từ một trung tâm chính trị văn hóa sang tính chất của một trung tâm cơng – thương nghiệp. Đó là các đơ thị lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn – Chợ Lớn, Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Biên Hịa, Mỹ Tho…

Kiến trúc đơ thị cũng phát triển không kém. Các kiến trúc Tây phương được đưa vào Việt Nam nhưng đã được Việt Nam hóa. Giao thơng vận tải có diện mạo mới với các con đường liên tỉnh dài 20 ngàn km, hệ thống đường sắt dài với 2059 km (1912)…

<b>* Văn hóa tinh thần </b>

<i>Báo chí tiếp tục phát triển và ngày càng có nhiều tờ báo nổi tiếng như Gia Định báo, </i>

<i>Phan n báo, Nơng cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, Phụ nữ tân văn, Đăng cổ tùng báo, Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn…</i>

Văn học lúc này là một thứ vũ khí của quần chúng để chống kẻ thù cướp nước, cổ động cho sự tiến bộ xã hội nên văn học giai đoạn này có bước phát triển nhanh chóng về cả nội dung và hình thức.

Với việc phổ biến chữ Quốc ngữ, mảng văn học bằng chữ Quốc ngữ đã phát triển với

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

các thể loại như kí sự, tiểu thuyết, văn xi, truyện ngắn, truyện dài… Về mặt nội dung, cái tôi cá nhân, sự ý thức về cá nhân, tình u đơi lứa được thể hiện trong hầu hết các thể loại của văn học.

<b>1.2.3.5. Văn hoá Việt Nam từ năm 1945 đến nay </b>

<i><b>1.2.3.5.1. Bối cảnh văn hóa lịch sử</b></i>

Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, toàn dân Việt

<i>Nam bước sang một cuộc đời mới. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn </i>

<i>độc lập chấm dứt chế độ thực dân nửa phong kiến ở nước ta. Thế nhưng, chỉ hai chục ngày </i>

sau đó – 23/9/1945, thực dân Pháp núp dưới bóng qn Anh, trong vai trị lực lượng đồng minh sang giải giáp phát xít Nhật ở Đông Dương, gây hấn ở Nam Bộ. Ngày 19/12/1945, nghe theo lời kêu gọi tồn q́c kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh, cả dân tộc bước vào cuộc trường chinh kháng chiến để bảo vệ quyền độc lập dân tộc mới giành lại được.

Ngày 21/7/1954, hiệp định Giơnevơ được kí kết, nước ta tạm thời chia thành hai miền với hai thể chế chính trị khác nhau, quân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ở hai miền cùng tiến hành hai nhiệm vụ chính trị khác nhau. Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.

Với chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, cuộc kháng chiến chớng Mỹ cứu nước của dân tộc ta toàn thắng, giành lại tồn vẹn non sơng.

<i><b>1.2.3.5.2. Đặc trưng văn hóa từ 1945 đến nay</b></i>

<i><b>Sự phát triển của văn hoá nghệ thuật chun nghiệp</b></i>

Ngay từ khi hồ bình lập lại, lực lượng hoạt động văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp được tổ chức lại.

Nghệ thuật điện ảnh có bước phát triển đột biến. Đã có những phim Việt Nam như “Cánh đồng hoang” và một số phim khác đoạt giải thưởng q́c tế.

Đội ngũ hoạt động văn hố được chú trọng nâng cao trình độ trở thành những nhà hoạt động văn hoá nghệ thuật chuyên nghiệp. Hàng loạt tác giả ở mọi lĩnh vực như văn học với Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận,… sân khấu như Đào Hồng Cẩm, Tào Mạt, Lưu

Quang Vũ…. điện ảnh như Hải Ninh, Trà Giang, Hồng Sến … tôi luyện qua hai cuộc kháng chiến trở thành những tác giả, những nhà định hướng văn hoá chuyên nghiệp.

<i><b>Kế thừa và nâng cao giá trị văn hố truyền thống</b></i>

Nghệ thuật truyền thớng như chèo, tuồng, mĩ thuật dân gian, việc kế thừa được thực thi ở cả hai phương diện khôi phục, bảo tồn và chỉnh lí, cải biên.

Cơng tác sưu tầm, nghiên cứu về văn học cổ, về các tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…. đã đạt được những thành cơng đáng kể.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Vấn đề gìn giữ bản sắc văn hoá dân tộc được Đảng, Nhà nước đặt ở tầm vĩ mô để giải quyết các cơng việc nhằm góp phần vào sự phát triển của văn hoá Việt Nam.

<i><b>Giao lưu văn hoá ngày càng mở rộng</b></i>

Giai đoạn này giao lưu văn hoá diễn ra trong tự nhiên và tự giác. Nhiều hiệp định văn hoá được ký kết giữa nước ta và nước bạn.

Sau năm 1954 khi Việt Nam là thành viên của phe xã hội chủ nghĩa sự giao lưu văn hoá giữa Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu cũng như Trung Q́c được đẩy mạnh.

Trong khi đó ở miền Nam từ năm 1954 đến năm 1975 giao lưu văn hố Việt Nam và văn hố Mỹ khơng phải là giao lưu tự nhiên mà giao lưu cưỡng bức.

Sau năm 1975 hai miền thống nhất việc giao lưu văn hoá giữa nước ta và thế giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn.

<b>1.2.4. Văn hóa và phát triển (Quan niệm về phát triển; nét khác biệt giữa phát triển và tăng trưởng; Vai trị của văn hố trong phát triển - đọc tài liệu) </b>

<b>1.2.5. Văn hoá Việt Nam trong bối cảnh tồn cầu hố (Tác động của tồn cầu hố đối với bản sắc dân tộc; Giữ gìn và làm giàu bản sắc văn hố Việt Nam trong điều kiện tồn cầu hố - đọc tài liệu) </b>

<b>HƯỚNG DẪN HỌC TẬP </b>

1. Hãy giải thích ý kiến cho rằng: “Văn hóa là cái cịn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả” (Edouor Herriot)

2. Từ cấu trúc, đặc trưng và chức năng văn hóa, hãy lí giải vì sao văn hóa được coi là nền tảng, là nội lực của sự phát triển?

3. Hãy phân tích và chứng minh đặc trưng văn hóa các thời kì: Tiền sử và Sơ sử; Thiên kỉ đầu công nguyên; Thời tự chủ; từ 1858 - 1945; từ 1945 đến nay ?

4. Hãy chỉ ra các cơ sở hình thành và quá trình hình thành nền văn hóa truyền thớng Việt Nam?

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

<b>CHƯƠNG 2. CÁC THÀNH TỐ VĂN HÓA VIỆT NAM </b>

<i><b>2.1. Văn hố vật chất </b></i>

<b>2.1.1. Văn hóa ẩm thực </b>

Để duy trì sự sớng, ăn ́ng là việc có tầm quan trọng số 1. Người Việt Nam nông nghiệp với tính thiết thực cơng khai nói to lên rằng, có năng lượng vật chất mới nói đến chuyện tinh thần.

<i> “Có thực mới vực được đạo” ăn ́ng là văn hóa, đó là văn hóa tận dụng mơi trường </i>

tự nhiên, cho nên trong cơ cấu bữa ăn của người Việt bộc lộ rất rõ dấu ấn của truyền thống văn hóa nơng nghiệp lúa nước. Đó là cơ cấu ăn thiên về thực vật với lúa gạo là thành phần

<i>đứng đầu bảng “người sống về gạo, cá bạo về nước”, “cơm tẻ mẹ ruột”, “đói thì thèm thịt </i>

<i>thèm xơi, hễ no cơm tẻ thì thơi mọi đường”. Không phải ngẫu nhiên mà bữa ăn của người Việt </i>

Nam được gọi là bữa cơm.

Trong bữa ăn của ta, sau lúa gạo thì đến rau quả. Nằm trong khu vực là một trong những trung tâm trồng trọt, Việt Nam có một danh mục rau quả mùa nào thức ấy phong phú vơ cùng. Đới với người Việt thì đói ăn rau, đau uống thuốc là chuyện tất nhiên. Thực đơn của người Việt có nhiều món canh, món xào với đủ các loại rau xanh, các loại quả như bí, bầu, mướp, đu đủ, cà… và cả các loại hoa như hoa bí, bắp ch́i, thiên lý… Nói đến rau trong bữa

<i>ăn thì khơng thể khơng nhắc đến 2 món đặc thù là rau ḿng và dưa cà: “Anh đi anh nhớ quê </i>

<i>nhà, nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”…</i>

Đứng thứ ba trong cơ cấu bữa ăn và đứng đầu trong hàng thức ăn động vật của người

<i>Việt Nam là các loại thủy sản – sản phẩm đặc thù của vùng sơng nước: Có cá đổ vạ cho cơm; </i>

<i>Con cá đánh ngã bát cơm… Từ các loại thủy sản người Việt đã chế tạo ra một thứ đồ chấm </i>

đặc biệt là nước mắm và mắm các loại. Thiếu nước mắm thì chưa thành bữa cơm Việt.

Ći cùng chiếm một vị trí khiêm tớn trong cơ cấu bữa ăn Việt Nam mới là thịt. Phổ

<i>biến thì như thịt gà, thịt lợn, thịt heo, thịt trâu… Đặc sản bình dân thì có thịt chó “Sống được </i>

<i>miếng dồi chó, chết được bó vàng tâm”, sơn hào hải vị thì có yến sào, gân hổ…</i>

Các loại gia vị như hành, gừng, ớt, tỏi, riềng, rau mùi, rau răm… cũng là những thứ không thể thiếu được trong bữa ăn người Việt.

Người nước ta có thói ăn trầu, nhai một miếng cau tươi hay khơ với một miếng trầu quyệt vôi, phụ thêm một miếng vỏ cây chát hay hột mây, hột móc. Người nước ta cũng có tục hút th́c lào. Th́c lào là một thứ lá cây phơi khô xắt ra cho nhỏ rồi dùng điếu mà hút. Có

<i>ba thứ điếu hút thuốc lào, điếu cày bằng ống tre, điếu bát bằng sành hay bằng sứ, và điếu đóng </i>

bằng gỗ hay bằng ngà.

Rượu Việt Nam làm từ gạo và nếp. Gạo nếp được đem đồ xôi, ủ cho lên men rồi cất ra. Rượu chế tạo như thế gọi là rượu trắng hoặc rượu đế, để phân biệt với rượu có ướp thêm các thứ hoa gọi là rượu mùi. Cúng ơng bà tổ tiên thì phải có ly rượu trắng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<i>Các đặc trưng trong văn hóa ẩm thực người Việt</i>

<i>Lới ăn ́ng của người Việt mang đậm tính tổng hợp. Đặc tính này thể hiện trước hết </i>

trong cách chế biến đồ ăn. Hầu hết các món ăn Việt Nam đều là sản phẩm của sự pha chế tổng hợp từ rất nhiều nguyên liệu, để đảm bảo một món ăn vừa có đủ ngũ chất (đạm-béo-bột-khống-nước), ngũ vị (mặn-béo-chua-cay-ngọt), ngũ sắc (đen-đỏ-trắng-xanh-vàng)… Tính tổng hợp cịn thể hiện ngay trong cách ăn với mâm cơm dọn ra bao giờ cũng rất nhiều món. Śt bữa ăn là cả một q trình tổng hợp các món ăn. Bất kì bát cơm nào, miếng cơm nào cũng là sự tổng hợp nhiều món canh-rau-cá-thịt. Cái ngon của bữa ăn Việt Nam là tổng hợp cái ngon của nhiều yếu tố: thức ăn ngon, hợp thời tiết, chỗ ăn ngon, bạn bè tâm giao, không khí bữa ăn…

<i>Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng. Ăn tổng hợp, ăn chung cho nên các thành viên </i>

trong bữa ăn có liên quan và phụ thuộc vào nhau. Vì vậy trong lúc ăn ́ng, người Việt rất thích chuyện trị, thú ́ng rượu cần của người vùng cao cũng là biểu hiện tiêu biểu của tính

<i>cộng đồng. Tính cộng đồng địi hỏi mọi phải có một văn hóa ăn ́ng. Đó là “ăn trơng nồi, </i>

<i>ngồi trông hướng”; “lời chào cao hơn mâm cỗ”; “ăn hết bị đòn ăn còn mất vợ”…</i>

<i>Trong cách ăn của người Việt thể hiện rõ tính linh hoạt, biện chứng. Chẳng hạn, có bao </i>

nhiêu người ăn thì có bấy nhiêu cách tổng hợp khác nhau trong cách ăn. Tính linh hoạt còn thể hiện ở dụng cụ ăn là đơi đũa. Nó có thể thực hiện nhiều chức năng như: gắp, và, xẻ, xé, dầm, trộn,… nối cho cánh tay dài ra để gắp thức ăn. Người Việt Nam đặc biệt chú ý đến quan hệ biện chứng âm dương trong việc ăn. Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương, người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức âm dương ứng với Ngũ hành: hàn, nhiệt, ơn, bình, trung tính. Tập qn dùng gia vị ngồi các tác dụng kích thích dịch vị làm dậy mùi thơm ngon của thức ăn cịn có tác dụng điều hịa âm dương, thủy hỏa của thức ăn. Để đảm bảo qn bình âm dương giữa con người với mơi trường người, Việt có tập qn ăn ́ng theo vùng khí hậu,

<i>theo mùa và chọn đúng bộ phận có giá trị để ăn. “chuối sau cau trước”, “tôm nấu sống, bống </i>

<i>để ươn”, “cơm chín tới, cải vồng non, gái một con, gà ghẹ ổ”…</i>

<b>2.1.2. Văn hóa trang phục </b>

Đới với con người, sau ăn thì đến mặc là cái quan trọng. Nó giúp con người đới phó

<i>với mơi trường, với cái nóng, cái rét của thời tiết, khí hậu “được bụng no cịn lo ấm cật”. Vì vậy, quan niệm về mặc của người Việt hết sức thiết thực: “ăn lấy chắc mặc lấy bền”, “cơm </i>

<i>ba bát, áo ba manh, đói khơng xanh rét khơng chết”…</i>

Từ mục đích ban đầu là đới phó với mơi trường tự nhiên, mặc dần dần trở thành một

<i>nhu cầu khơng thể thiếu trong mục đích trang điểm, làm đẹp cho con người: “Người đẹp vì </i>

<i>lụa, lúa tốt vì phân, chân tốt về hài, tai tốt về hoa”…</i>

Mỗi dân tộc có một cách ăn mặc riêng, vì vậy mặc đã trở thành biểu tượng của văn hóa dân tộc. Cái riêng trong cách ăn mặc của người Việt trước hết là cái chất nông nghiệp trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

chất liệu may mặc – đó là các chất liệu có nguồn gớc thực vật là sản phẩm của nghề trồng trọt, cũng là chất liệu may mặc nhẹ thống phù hợp với xứ nóng. Đó là sợi gai, đay, chuối, bông, tơ tằm…

Trang phục thường chọn các màu âm tính như đen, nâu, chàm, gụ, tím… và chỉ sử dụng những trang phục có màu sắc dương tính như đỏ, điều, vàng, xanh… vào các dịp lễ hội.

Cách thức trang phục của người Việt qua các thời đại bị chi phối bởi hai nhân tớ chính là khí hậu nhiệt đới nóng bức và cơng việc trồng lúa nước. Đồ mặc phía dưới tiêu biểu và ổn

<i>định hơn cả của phụ nữ qua các thời đại là cái váy. Váy có hai loại là váy mở - một mảnh vải </i>

quấn quanh thân; và váy kín được khâu lại thành hình ớng. Đới với nam giới, đồ mặc phía

<i>dưới ban đầu là chiếc khố. Khớ mặc mát, phù hợp với khí hậu nóng bức và dễ thao tác trong </i>

lao động. Ngày nay nam giới khơng cịn đóng khớ nữa nhưng lối cởi trần mặc độc một chiếc quần đùi lúc ở nhà vào mùa nóng vẫn khơng khác cách mặc cởi trần đóng khớ là mấy. Khi chiếc quần thâm nhập ngày càng mạnh vào Việt Nam thì nam giới là bộ phận tiếp thu nó sớm

<i>nhất. Tiếp thu nhưng người Việt Nam đã cải biến nó một cách linh hoạt thành quần lá tọa. Đó </i>

là quần ống rộng và thẳng, đũng sâu, cạp quần to bản. Khi mặc người ta buộc dây thắt lưng ra ngồi rồi thả phần cạp thừa phía trên rủ x́ng ra ngồi thắt lưng thành lá tọa.

<i>Đồ mặc phía trên của người phụ nữ ổn định nhất qua các thời đại là cái yếm. Yếm là </i>

đồ mặc thuần túy Việt Nam thường do phụ nữ tự cắt may, nhuộm với nhiều màu phong phú: yếm nâu để đi làm thường ngày ở nông thôn, yếm trắng thường ngày ở thành thị, yếm hồng - yếm đào - yếm thắm dùng vào các ngày lễ hội. Đối với đàn ơng, khi lao động thì thường cởi trần. Ngoài ra, nam và nữ cũng thường mặc áo ngắn có hai túi phía dưới, có thể xẻ tà hai bên hơng hoặc bít tà, ngồi Bắc gọi là áo cánh, trong Nam thì gọi là áo bà ba. Dịp lễ hội, phụ nữ (mặc áo dài), gồm áo tứ thân và áo năm thân. Đàn ông vào dịp hội hè cũng mặc áo dài (là áo the đen), giới thượng lưu thì mặc áo dài cả trong sinh hoạt thường ngày.

Về màu sắc, màu phổ biến là các màu âm tính, phù hợp với phong cách truyền thớng ưa tế nhị, kín đáo: ở miền Bắc là màu nâu, gụ; ở miền Nam là màu đen; ở xứ Huế thì ưa màu tím trang nhã phù hợp với phong cách đế đô. Gần đây, do ảnh hưởng của phương Tây nên màu sắc đã trở nên đa dạng hơn.

Phụ nữ trước đây để tóc dài và vấn tóc bằng một mảnh vải dài cuộn lại để trên đầu, đi tóc để chừa ra một ít gọi là đi gà. Có thể phủ ra ngồi cái vấn tóc là cái khăn vng chít hình mỏ quạ vào mùa lạnh hoặc hình đồng tiền vào mùa nóng. Đàn ơng trước đây để tóc dài búi trịn, khi làm lụng vấn khăn đầu rìu, lúc sang trọng thì đội khăn xếp, người Nam bộ thường đội khăn rằn.

Trên khăn hoặc thay cho khăn là cái nón che mưa che nắng. Có nhiều loại nón nhưng nhiều nhất, phổ biến nhất là nón rộng vành và có mái dớc. Các loại nón này thường phải có quai để giữ, quai thao làm bằng vải thao là loại phổ biến hơn cả. Mũ là loại đồ đội đầu ôm sát và kín tóc, x́t hiện muộn sau này, gọn hơn nón nhưng khả năng che mưa nắng kém hơn. Bởi

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

vậy người miền Nam dùng một từ nón để gọi chung cho cả mũ và nón.

Về đồ trang sức thì từ thời Hùng Vương, người Việt đã rất thích đeo vịng các loại như vịng tai, vòng cổ, vòng tay, vòng chân… Thời Hùng Vương có tục xăm mình theo hình cá sấu để khi x́ng nước khỏi bị nó làm hại. Tục nhuộm răng đen vừa có tác dụng bảo vệ răng vừa để trang điểm.

<b>2.1.3. Văn hóa cư trú </b>

Đới với người nông nghiệp, ngôi nhà là cái tổ ấm để đới phó với nóng lạnh, mưa nắng, gió bão; là một trong những yếu tố quan trọng để đảm bảo cho cuộc sống định cư ổn định. Nằm trong khu vực là vùng sông nước cho nên ngôi nhà của người Việt truyền thống cũng mang đậm dấu ấn môi trường sông nước. Những người chài lưới, chèo đò thường lấy ngay thuyền bè làm nhà ở, nhiều gia đình tụ họp với nhau lại tạo nên các làng chài, xóm chài… Rồi nhiều người, tuy không sống bằng nghề sông nước nhưng cũng làm nhà sàn để ứng phó với lũ lụt quanh năm. Đây là kiểu nhà rất phổ biến ở Việt Nam từ thời Đông Sơn. Ngôi nhà Việt cổ thường làm với chiếc mái cong mơ phỏng hình thuyền – kỉ niệm về sơng nước. Các đình, chùa, cung điện thì đầu đao ở 4 góc thường được làm cong vút như một con thuyền rẽ sóng nước lướt tới, tạo nên dáng vẻ thanh thoát và gợi cảm giác bay bổng cho cấu trúc.

Để ứng phó với môi trường tự nhiên, tiêu chuẩn ngôi nhà Việt Nam về mặt cấu trúc phải là nhà cao cửa rộng, tạo khơng gian thống mát giao hịa với thiên nhiên. Nơi được chọn làm nhà phải đáp ứng những yêu cầu trong việc chọn hướng nhà, hướng đất. Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam vì Việt Nam ở gần biển, trong khu vực gió mùa, trong 4 hướng chỉ có hướng Nam và Đơng Nam là tránh được cái nóng từ phương Tây, cái bão từ phương Đơng và gió lạnh thổi vào mùa rét từ phương Bắc, nhưng lại tận dụng được cái gió mát từ phương Nam vào mùa nóng.

Phong và thủy là hai yếu tố quan trọng tạo thành vi khí hậu cho một ngơi nhà. Nhà ở là nơi có gió khơng nhiều q cũng khơng ít quá. Có mặt nước trước nhà tạo nên sự cân bằng sinh thái nhưng không được là nước đọng, cũng không là nước chảy quá mạnh, nước chảy từ từ là tớt nhất. Ngồi ra, trong việc chọn nhà ở, người Việt Nam với tính cộng đồng rất quan

<i>tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng, chọn vị trí giao thơng thuận lợi “nhất cận thị, nhị </i>

<i>cận giang” hay là “nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền”…</i>

Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngơi nhà Việt Nam truyền thống là rất động và linh hoạt, thể hiện ở lối kết cấu khung. Cốt lõi của ngôi nhà là một bộ khung chịu lực với sự liên kết chặt chẽ giữa các bộ phận trong một không gian ba chiều: theo chiều đứng, trọng lực của ngôi nhà phân bố đều vào các cột và dồn xuống các viên đá tảng kê chân cột; theo chiều ngang, các cột được liên kết với nhau bằng các kẻ tạo nên các vì kèo; theo chiều dọc, các vì kèo được liên kết lại bằng các xà. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau bằng mộng, khi cần di chuyển có thể tháo dở ra rất dễ dàng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

Về cách thức kiến trúc, ngôi nhà Việt Nam thể hiện đậm nét các đặc điểm của truyền thớng văn hóa dân tộc. Trong nhà khơng phân chia thành nhiều phịng nhỏ như ở phương Tây, giữa hai nhà thì ngăn cách bằng rặng cây xén thấp để hai bên hàng xóm có thể nói chuyện với nhau hoặc khi cần có thể lách rào đi tắt sang nhà nhau. Gian giữa của ngôi nhà thường là nơi đặt bàn thờ gia tiên. Hình thức kiến trúc ngơi nhà cịn tn thủ nguyên tắc coi trọng các số lẻ ước lệ của truyền thớng văn hóa Việt Nam: tam quan, tam cấp, ba gian hai chái…

<b>2.1.4. Văn hóa giao thơng </b>

Trong điều kiện của một nước nông nghiệp, nhân dân ta ít có nhu cầu đi lại, thường chỉ có đi ra đồng, đi lại giữa láng giềng với nhau và thỉnh thoảng mới đi lại giữa các làng để dự lễ hội hoặc thăm nhau. Do đó, hoạt động giao thông ở Việt Nam thời xưa chậm phát triển.

Hệ thống đường giao thông bộ ở nước ta đến trước thời Pháp thuộc gồm ba loại đường: đường thiên lý, đường hàng tỉnh và đường hàng xã. Đến đầu thế kỷ XX, cùng với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp, hệ thống đường đá, đường nhựa, đường sắt xuyên Việt cũng như liên tỉnh mới được xây dựng. Bộ mặt giao thông ở Việt Nam được đổi mới.

Trong xã hội Việt Nam truyền thống, phương tiện vận chuyển chủ yếu của giới bình dân là đi bộ, gồng gánh đội thúng trên đầu hoặc mang gùi trên lưng. Các vật nặng trên bộ được chở bằng xe cút kít (một bánh gỗ) hoặc xe do trâu bị kéo. Nói cách khác, trước ngày tiếp xúc với văn minh phương Tây, người Việt thường sử dụng voi, ngựa, xe trâu, xe bò, kiệu cáng, gùi, điệu, cõng, mang… và được cải tiến theo lối kéo trực tiếp hoặc kéo bằng xe. Sách Trung Hoa đời Hán diễn đạt sự khác biệt truyền thống trong cách thức đi lại của người phương

<i>Nam và phương Bắc rất ngắn gọn: Nam di chu, Bắc di mã (Nam đi thuyền, Bắc đi ngựa). Ở </i>

phương Nam sông nước, thuyền rồng là biểu tượng của quyền uy, ở Trung Hoa du mục thì cái sang trọng của vua thể hiện ở các cỗ xe tam mã, tứ mã…

Đường bộ thường nhỏ hẹp, bùn lầy khi trời mưa, nên dân quê thường đi chân đất. Các tầng lớp quan liêu thường hay sử dụng các loại vận chuyển cho những phu hầu phục vụ, như võng, cáng, kiệu, có thêm những người hầu che lọng đi theo. Trong quân sự và ở những cấp quan cao có dùng ngựa cưỡi và đôi khi dùng voi kéo, do người quản tượng điều khiển.

Đị thuyền là hình thức vận chuyển chủ yếu và thích hợp trong một đất nước nhiều sơng, rạch, theo chức năng, có các loại đị dọc, đị ngang, theo chủng loại, có các loại thuyền thúng, thuyền đinh, thuyền độc mộc, thuyền buồm…

Ngay từ thời Đông Sơn, Phù Nam, Chăm pa, chúng ta đã có nhiều loại thuyền: thuyền độc mộc, thuyền tam bản, thuyền lớn. Thuyền chiến, thuyền rồng cũng được sử dụng trong quân đội và các hàng ngũ quan liêu quý tộc. Các người ngoại quốc phương Tây đến Việt Nam trong những thế kỷ XVII, XVIII, XIX đều có nhận xét rằng người Việt Nam đóng thuyền chiến và điều khiển thuyền chiến rất giỏi, kỹ thuật vào loại cao trên thế giới.

Ngoài ra, nước ta cịn có các loại phương tiện giao thơng vận tải trên sông nước rất

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

phong phú như ghe, xuồng, bè, mảng, phà, tàu…

<i><b>2.2. Văn hố xã hội </b></i>

<b>2.2.1. Văn hóa gia đình </b>

Mơ hình phổ biến của gia đình Việt Nam truyền thớng là loại gia đình nhỏ, bình qn sớ khẩu trong một hộ khoảng từ 4 đến 8 người, bao gồm hai thế hệ hoặc ba thế hệ (ông bà, cha mẹ, con cái), nhưng trong các gia đình thượng lưu quý tộc hoặc quan lại, cũng đã xuất hiện những loại hình gia đình lớn, 4 hoặc 5 thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà, dưới quyền răn dạy của vị gia trưởng cao tuổi, uy nghiêm, nhân từ.

Gia đình truyền thớng Việt Nam đã gắn bó các thành viên bằng những quan hệ chặt chẽ, xuất phát từ những nguyên lý Nho giáo vừa cớ kết bằng tình cảm kính trọng u thương, giữa các thế hệ khác nhau trong quá khứ, hiện tại và tương lai. Người ta thờ cúng tổ tiên như một hành động tiếp tục phụng dưỡng những người đã khuất, cũng như tin vào sự hiện diện của tổ tiên luôn bên họ, phù hộ độ trì cho con cháu. Sự lo toan cho những thế hệ con cháu sẽ sinh ra, dẫn đến những quan điểm quá đề cao việc nối dõi tông đường, trọng nam trọng trưởng và một hệ quả tiêu cực là tục đa thê.

Sự gắn bó giữa những người cùng sớng trong gia đình biểu hiện chủ yếu trong hai quan hệ cơ bản là bố mẹ - con cái và vợ - chồng. Theo quan điểm Nho giáo, nội dung của đạo hiếu của con cái với bớ mẹ bao gồm các mặt kính yêu, vâng lời và phụng dưỡng bố mẹ. Trách nhiệm chủ yếu của bố mẹ là việc nuôi dưỡng và răn dạy con cái. Cịn đới với quan hệ vợ chồng, vai trò của người vợ được đề cao mặc dù người vợ chỉ giới hạn công việc trong phạm vi chăm sóc gia đình, chồng con. Sự bền chặt của hai mối quan hệ này cùng với một nền giáo dục gia đình tỉ mỉ và hiệu quả đã củng cớ tính vững chắc của gia đình như một tế bào cơ sở của xã hội.

Gia đình mở rộng thành gia tộc (họ hàng), cơ bản dựa trên mối quan hệ huyết thống gần gũi đến một chừng mực nào đó (thường trong phạm vi 9 thế hệ cùng chung một vị tổ phụ xa nhất. Trên nguyên tắc, một dòng họ có thể phân bớ thành nhiều làng, thậm chí ở nhiều địa phương xa cách nhau, nhưng trong thực tế, sự cớ kết gắn bó của dịng họ thường chỉ trong một thơn làng hoặc một xã. Dịng họ ở Việt Nam khá cớ kết gắn bó trong cơ cấu làng xã. Một làng có thể có một họ, có thể có nhiều họ, tập trung vào một vài họ mạnh, những họ này thường cạnh tranh thế lực với nhau.

Một họ chia thành nhiều chi, chỉ tính theo nam giới, nữ giới thuộc họ bên nhà chồng. Người con trai trưởng không kể tuổi tác, được kính nể. Mỗi dịng họ thường có một nhà thờ họ (Từ đường), là nơi thờ cúng tổ tiên và hội họp trong các buổi giỗ tết, thường cũng là dịp ăn uống cỗ bàn và bàn bạc những cơng việc chung của họ

Mỗi dịng họ thường lưu giữ một quyển lịch sử dòng họ tức gia phả, ghi lại tên tuổi, thế thứ các chi họ và đặc biệt là các công trạng khoa mục chức tước của những vị tổ phụ, coi

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

đó là niềm vinh dự chung của họ.

Kinh phí thờ cúng của họ dựa vào hoa lợi của loại ruộng hương hỏa, được giao cho người con trai trưởng. Người nào khơng có con trai sẽ trao phần ruộng đó cho họ hàng để lo việc cúng giỗ cho mình sau này, gọi là ruộng kỵ.

Những người cùng một dòng họ trong làng xã thường có ý thức cao trong việc đồn kết, tượng trợ bảo vệ uy tín của họ mình. Tuy nhiên, từ đó cũng sinh ra tệ nạn bè phái, cục bộ, tranh chấp, kiện tụng trong các vấn đề quyền lực đất đai. Tính cớ kết dịng họ ở đây đã biến thành một thứ chủ nghĩa vị kỷ dịng họ mang nhiều yếu tớ tiêu cực.

Gia đình được coi là tế bào cơ sở, là một tư cách pháp nhân trong xã hội. Hộ gia đình là một đơn vị kinh tế, lao động tập thể và hợp nhất, nhất là trong việc làm ruộng theo mùa vụ cũng như trong các nghề thủ cơng làng xã. Hộ gia đình cũng được coi như những cá thể trong cơ cấu làng xã, là đơn vị được phân chia ruộng công, chịu sưu thuế, lao dịch và những khoản đóng góp khác. Đó cũng là một đơn vị chịu liên đới trách nhiệm trước pháp luật. Tồn thể gia đình (và gia tộc) được hưởng chung những vinh dự của một thành viên trong cộng đồng có được. Một người đỗ đạt, cả gia đình đều được trọng vọng trong lễ vinh quy. Một người làm quan, ân tứ của Triều đình đã ban phát đến cả những người thân như ông bà cha me (lệ phong tước) hoặc con cháu (lệ phong ấm). Ngược lại, khi một thành viên trong gia đình bị tội, gia đình cũng bị vạ lây, nếu là trọng tội như mưu phản, gia đình bị khép vịa hình phạt tru di tam tộc. Pháp luật đề cao vai trò, trách nhiệm và quyền lực của người tôn trưởng, gia trưởng trong việc răn dạy con cái, biện pháp trừng phạt bằng roi vọt được coi là chuyện bình thường và cần thiết trong việc giữ nghiêm gia pháp. Những gương sáng về lòng hiếu nghĩa, tiết liệt trong gia đình được nhà nước quan tâm, khen thưởng và tuyên dương trong việc ban tặng bằng, sắc.

<b>2.2.2. Văn hóa làng xã </b>

Làng xã Việt Nam đã xuất hiện từ ći thời ngun thủy, đầu thời dựng nước, có thể được coi là sản phẩm của một nền nông nghiệp lúa nước. Lúc này, ở các vùng trung du và đồng bằng Bắc bộ, người Việt cổ đã quần tụ lại, định cư theo từng điểm cư dân trông nom đồng ruộng. Trong các làng này, tồn tại rất đậm tính cộng đồng, chủ nghĩa trọng lão (vai trò của các già làng được đề cao) và trọng nữ (trong nền nông nghiệp lúa nước, giới nữ có vai trị tương đới cao trong sản xuất).

Thời Bắc thuộc, làng xã Việt Nam đã co mình lại để tự vệ bảo tồn cơ cấu lối sống cổ truyền, chớng lại sự đơ hộ chính trị và đồng hóa văn hóa các thế lực phương Bắc. Dưới các vương triều phong kiến dân tộc, làng xã trở thành đơn vị hành chính q́c gia. Một xã có thể gồm một hoặc nhiều làng (tương đương cấp thơn). Xã là tên gọi mang tính chất hành chính, cịn làng là một cộng đồng xã hội nhiều mặt mang tính dân gian.

Thời Lý – Trần, làng xã Việt còn giữ nhiều nét cổ truyền về kinh tế - xã hội, có vai trị tự trị tương đới lớn, nhà nước ít can thiệp vào đời sống xã. Từ thời Lê sơ, sự can thiệp của

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

nhà nước vào làng xã diễn ra mạnh hơn, làng xã từng bước bị phong kiến hóa và sẽ phân hóa xã hội, kinh tế nội bộ cũng diễn ra sâu sắc.

Về không gian, các làng xã miền Bắc – mà điển hình là các làng xã vùng đồng bằng Bắc bộ thường có kết cấu kinh tế xã hội chặt và khép kín hơn là các làng xã miền Nam, sự phân hóa đẳng cấp cũng sâu sắc hơn. Làng xã Nam bộ mà phần lớn có nguồn gớc di dân lập ấp thường trải dài theo hai bờ kênh rạch, sự trao đổi giao lưu kinh tế có phần năng động hơn, văn hóa thống mở hơn, và ảnh hưởng của Nho giáo cũng nhạt hơn các làng xã miền Bắc.

Làng xã miền Bắc cũng có nhiều dạng khác nhau về loại hình kinh tế: làng thuần nơng, làng chài, làng nghề, làng bn…

Tuy có nhiều sắc thái khác nhau về các phương diện nói trên, nhìn một cách tổng quát, làng xã Việt Nam truyền thớng vẫn mang nhiều đặc điểm chung. Nó vừa là một cộng đồng cố kết chặt, vừa là một cấu trúc phân tầng sâu sắc.

Làng xã là một cộng đồng xã hội cớ kết chặt về nhiều mặt, có tính tự quản. Tính cộng đồng làng xã đó có cơ sở, đặt nền móng cho truyền thớng đồn kết tương trợ, tinh thần tập thể của người nông dân Việt Nam, tuy trong những điều kiện nhất định, nó cũng có thể biến thái thành một thứ cộng đồng bản vị mang tính địa phương, bè phái, cục bộ.

Về cảnh quan, địa thế, một làng thường được bao bọc, phòng vệ sau một lũy tre xanh, thơng thương với bên ngồi bằng một cổng làng, đó là một khơng gian cưu trú khép kín. Tuy nhiên, bên trong làng, là một tụ điểm quần cư thống mở, nhà cửa của các hộ gia đình thường được ngăn cách sơ sài, dễ dàng thông thương với nhau. Đình làng, quán cầu, cây đa, giếng nước là những điểm giao tiếp cộng đồng. Do đó các gia đình thường quen biết nhau, nhưng một người trong làng có thể cả đời chỉ quanh sống trong làng và đồng ruộng, không hề đi tới các làng xã hoặc địa phương khác.

Kinh tế ở những làng thuần nông là kinh tế bán tự túc. Mối liên hệ với bên ngồi thường ít ỏi và ở cự ly gần, qua mạng lưới chợ luân phiên, phần lớn các hoạt động kinh tế thực hiện ở quy mô làng: ruộng đất cày cấy tập trung quanh làng, công việc thủy lợi chung, thủ công nghiệp mang tính tự cấp gia đình, việc mua bán các phẩm vật hàng ngày chủ yếu diễn ra ở chợ làng. Các làng nghề trao đổi hàng hóa ở những thị trường xa hơn, nhưng bí mật về kỹ thuật sản x́t thì vẫn mang tính làng xã. Ngay ở các làng buôn, người ta cũng tập hợp thành các phường, bạn mang tính cộng đồng cao khi đi bn bán ở các địa phương xa.

Tính cộng đồng tự quản về mặt chính trị của làng xã thể hiện ở sự tồn tại song song hai hình thức quyền lực. Bộ máy chính quyền mang tính nhà nước (thực chất vẫn dân cử) có chức năng hành pháp và thiết chế làng xã tự quản (hội đồng kỳ mục) có chức năng lập pháp. Các chủ trương và những công việc chung của làng xã thường được bàn bạc và giải quyết nội bộ ít khi cần đến sự can thiệp của cấp trên. Làng xã cũng tổ chức những lực lượng dân phòng tự quản (đội tuần đinh do Hán thủ phụ trách) để duy trì cơng việc an ninh trật tự.

Làng xã cịn là cộng đồng cớ kết và tự quản về văn hóa tinh thần. Có một thứ tôn giáo

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

làng là tục thờ cúng thành hoàng, được coi là vị thần bảo trợ cho tồn thể dân làng. Khơng gian thiêng của làng bao gồm các đình (chức năng tơn giáo kết hợp với chức năng chính trị, xã hội), chùa chiền, miếu mạo, nghĩa trang làng… Trong làng, người ta thưỡng sống theo những phong tục tập quán cổ truyền (lệ làng) mang tính mềm dẻo, là đới trọng của phép nước (mang tính cứng rắn). Một sự thỏa hiệp hỗn dung giữa lệ làng và phép nước, được văn bản hóa thành các khốn ước, hương ước và thương do nho sĩ được làng xã cử ra soạn thảo, đề cập đến làng. Việc giáo dục trẻ em được giao cho một thầy đồ, thầy đồ được làng chu cấp. Trong năm, người ta tổ chức những đám rước tế, lễ hội, các bữa cỗ tập thể đình đám, tục hương ẩm, các dịp khao vọng, cheo cưới, nhân cơ hội này đã thu hút đông đảo mọi tầng lớp dân làng, vừa nghiêm trang, vừa vui vẻ nhưng có khi lãng phí hình thức, biến thành hũ tục.

<b>2.2.3. Văn hóa quốc gia </b>

Ở Việt Nam, do những nhu cầu cố kết các cộng đồng dân cư trong công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên (vấn đề thủy lợi) và đấu tranh xã hội (chống xâm lược), nhà nước đã hình thành từ rất sớm. Văn Lang là q́c gia đầu tiên của người Việt Nam hình thành ở phần đất phía Bắc, cùng với hai q́c gia cổ đại khác ở miền Trung và miền Nam. Tiếp theo, là những quốc gia mang quốc hiệu Âu Lạc (thời An Dương Vương), Vạn Xuân (thời Lý Bôn), Đại Cồ Việt (thời Đinh), Đại Việt (thời Lý – Trần – Lê) xen giữa là Đại Ngu (thời Hồ) sau đó đến Việt Nam, Đại Nam (thời Nguyễn). Giao Chỉ và An Nam là những tên gọi nước Việt của người phương Bắc mang ý khinh thị. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người.

Từ thời dựng nước, đứng đầu nhà nước Văn Lang đã có một nhà vua theo chế độ cha truyền con nới. Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là những thủ lĩnh liên minh bộ lạc. Thiết chế quân chủ tập quyền Việt Nam được xác lập trong những vương triều phong kiến, muộn nhất là từ thời Lý. Và, tuy có những mức độ khác nhau, thiết chế đó đã tồn tại trong śt thời trung đại, đến thời Pháp thuộc. Đó là một thiết chế dựa theo mơ hình lý tưởng của văn hóa Trung Hoa, nhưng khi du nhập vào Việt Nam, nó đã bị đẽo gọt, biến thái, hỗn dung với các yếu tớ truyền thớng để thích ứng với thực tế xã hội Việt Nam.

Trên nguyên lý, vua là biểu tượng tối cao của quốc gia, dân tộc, có sứ mệnh “Thay trời trị dân”, là bậc trung gian giữa Trời và người, vừa là con Trời vừa là cha mẹ của dân chúng. Vấn đề tuổi tác và kể cả năng lực đối với nhà vua đều không quan trọng. Trong lịch sử, đã có một sớ ít nhà vua từng là Hồng đế mạnh mẽ, quyết đốn, điển hình là vua Lê Thánh Tông triều Lê sơ và vua Minh Mạng triều Nguyễn. Một số chỉ nắm quyền hành trên danh nghĩa, thậm chí là hư vị, như dưới thời vua Lê chúa Trịnh, điển hình là vua Lê Hiển Tơng.

Trên danh nghĩa, nhà vua có quyền tới thượng và toàn năng. Vua là người chủ tế duy nhất, không ai thay thế được trong các nghi lễ quan trọng (như tế Nam Giao, tế Tôn Miếu, tế Giám). Vua cũng là người chủ sở hữu toàn bộ đất đai trong nước, có tồn quyền phong cấp hoặc tịch thu đất đới với tồn dân. Vua là vị Tổng tư lệnh chỉ huy quân đội, là người trực tiếp

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

bổ nhiệm hoặc bãi miễn các chức quan cao cấp, người ra đề thi chọn học vị cao nhất (thi Đình), quan tịa xử kiện tối hậu đối với các vụ trọng án. Uy quyền tới thượng đó mang tính chất thần thánh, được biểu tượng hóa trong việc kiêng kỵ tên húy, độc quyền được dùng các đồ dùng có hình rồng (long ngai, long sàng, long bào…) là con vật tượng trưng cho vương quyền, độc quyền dùng áo khốc mầu vàng (hồng bào) vì theo thuyết ngũ hành, màu vàng thuộc hành thổ, ở trung tâm, tượng trưng cho quyền uy lãnh tụ của nhà vua.

Ở một mặt khác, vua được coi là người cha của tồn thể dân tộc như trong một gia đình lớn, là người bảo vệ, chăm lo cho dân. ở Việt Nam đã tồn tại một thứ chủ nghĩa dân bản, thân dân, được tô đậm bởi những truyền thớng cộng đồng của nền văn hóa cơ tầng Nam Á. Một số vị vua, nhất là trong giai đoạn Lý – Trần đã sinh hoạt gần gũi với các thần dân như trực tiếp đi kiểm tra việc đắp đê, gặt hái, dự các lễ hội dân gian như đua thuyền, đấu vật, đầu năm cày ruộng tịch điền để nêu gương. Trong lịch sử Việt Nam, vai trị của vị Hồng đế trên thực tế đã tùy thuộc nhiều vào đức độ và tư chất của cá nhân nhà vua, dao động trên một biên độ rất rộng giữa danh và thực. Thể chế quân chủ tập quyền ở Việt Nam là một thực thể chính trị mang trong mình nó vừa là những yếu tớ mạnh, tích cực, đồng thời vừa là những yếu tớ mạnh, tích cực, đồng thời vừa là những yếu tớ yếu, tiêu cực.

<i><b>2.3. Văn hố tinh thần </b></i>

<b>2.3.1. Tơn giáo, tín ngưỡng </b>

Việt Nam là một q́c gia đa tơn giáo, tín ngưỡng. Người dân Việt Nam có truyền thớng sinh hoạt, hoạt động tín ngưỡng từ lâu đời. Các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều có những tín ngưỡng riêng gắn liền với đời sớng kinh tế và tâm linh của mình.

<i><b>Tín ngưỡng dân gian: Với quan niệm vạn vật hữu linh, nên người xưa đã thờ rất nhiều </b></i>

thần linh, đặc biệt là những sự vật có liên quan đến nơng nghiệp như trời, trăng, đất, rừng, sông, núi… để được phù hộ. Đối với các dân tộc thiểu số, mỗi dân tộc có hình thái tín ngưỡng riêng của mình. Tuy nhiên, đặc trưng nhất là các hình thái tín ngưỡng nguyên thủy và tín ngưỡng dân gian ngày nay cịn lưu giữ được trong các nhóm dân tộc như nhóm Tày-Thái, nhóm Hmơng-Dao; nhóm Hoa-Sán Dìu-Ngái; nhóm Chăm-Ê đê-Gia Rai; nhóm Mơn-Khơ me.

Tín ngưỡng thờ thần linh rất phổ biến. Người ta phân loại thành các vị thiên thần, nhân thần. Thiên thần phần lớn là các vị thần núi, thần sông. Ở Bắc Bộ, những thiên thần được thờ cúng nhiều nhất là Tản Viên và Thánh Gióng. Trong sớ các nhân thần, một số là các nhân vật lịch sử tầm cỡ quốc gia, phổ biến là Hùng vương, Hai Bà Trung, Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt và Trần Quốc Tuấn (được suy tôn là Đức Thánh Trần), một số khác là các nhân vật lịch sử văn hóa mang tính địa phương.

Người ta thờ thần linh trong các đền miếu, và ở trong các đình của làng xã, trong trường hợp này, vị thần trở thành vị Thành hoàng làng. Thần thành hoàng được thờ trong các đình

</div>

×