Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Đề số 16 phân tích và bình luận nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật áp dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.69 MB, 22 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<i><b>Đề số 16: Phân tích và bình luận nguyên tắ</b>c gi i quy t vảế ụ việc dân s khi ự chưa có điều luật áp dụng. </i>

<b>Hà Nội - 2023</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC </b>

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ ... 1 </b>

<b>NỘI DUNG ... 1 </b>

<b>1. Một số vấn đ lý lu n v nguyên tề ậề ắc ... 1 </b>

<i><b>1.1. Khái niệm nguyên tắc ... 1 </b></i>

<i><b>1.2. Cơ sở khoa h c để xây dựng nguyên tắc ... 2 ọ</b></i>

<i>2.1.3. Áp d ng nguyên tụắc cơ bản c a pháp luủật dân sự, án l , lệ ẽ công bằng ... 9 </i>

<i><b>2.3. Ảnh hư ng cởủa nguyên tắc tới các quy định của B luật Tộ ố tụng dân sự ... 12 </b></i>

<i><b>2.4. Trách nhiệm của Toà án khi từ chối th lý ... 12 ụ </b></i> <b>3. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc và một số kiến ngh hoàn thi n pháp luị ệật ... 13 </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>ĐẶT VẤN ĐỀ </b>

Hiện nay, các quan h dân sệ ự là m t trong nhộ ững quan h phong phú, đa d ng và ệ ạ không ng ng v n đ ng, thay đừ ậ ộ ổi dư i tác đớ ộng của thời kì h i nhộ ập, đổi m i. Điớ ều này đã đặt ra nhiều thách thức đối với các nhà lập pháp trong quá trình xây d ng pháp ự luật thành văn có thể điều ch nh mỉ ọi quan h dân s , và d n đ n thệ ự ẫ ế ực trạng luôn phát sinh những tranh ch p trong quan h dân sấ ệ ự mà chưa có điều luật quy định.

Chính vì vậy, để có th gi i quy t các hể ả ế ạn chế của vi c thiệ ếu luật điều ch nh, pháp ỉ luật Tố tụng dân sự Việt Nam đã lần đ u tiên quy đ nh: “ầ ị <i>Tịa án khơng được từ chối gi i ảquyết vụ việc dân s vì lý do chưa có điự ều luật để áp dụng” , trở thành một trong những </i>

nguyên tắc cơ bản, quan tr ng nhọ ất được ghi nhận trong BLTTDS 2015.

<b>NỘI DUNG 1. Một số vấn đề lý luận về nguyên tắc </b>

<i><b>1.1. Khái niệm nguyên tắc </b></i>

<i>Thứ nhất, về khái niệm “Vụ việc dân sự”, được hiểu bao gồm “Vụ án dân sự” và “Việc dân sự”, xuất phát từ</i> các yêu cầu của cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục đích u cầu

<i>tồ án giải quyết tranh chấp, phân xử quyền lợi (Vụ án dân sự) hoặc yêu cầu tồ án cơng </i>

nhận hoặc khơng cơng nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ phát sinh, thay đổi, chấm dứt

<i>các quyền và nghĩa vụ dân sự (Việc dân sự). Theo đó, việc Tồ án “từ chối giải quyết vụ việc dân sự” có thể hiểu là hành vi Tồ án thơng qua việc trả lời khơng đưa vụ án ra </i>

xét xử hoặc không thụ lý yêu cầu của đương sự .

<i>Thứ hai, về khái niệm “Vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng”, có thể hiểu là các </i>

vụ việc dân sự phát sinh trên đời sống thực tiễn nhưng chưa nằm trong sự điều chỉnh của pháp luật nội dung cũng như các quy định về quy trình, thủ tục giải quyết. Hay nói cách khác, tại thời điểm các quan hệ này phát sinh và được các chủ thể u cầu tồ án giải quyết, vẫn chưa có sẵn các quy định hay hệ thống quy định nào điều chỉnh trực tiếp các quan hệ mới phát sinh đó .

<i>Như vậy, nguyên tắc Giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật áp dụng có thể </i>

hiểu là một trong những nguyên tắc bảo đảm quyền tham gia tố tụng của đương sự. Cụ thể, trong trường hợp phát sinh quan hệ tranh chấp trong lĩnh vực dân sự mà các bên khơng có thoả thuận, pháp luật cũng khơng có quy định trực tiếp thì Tịa án khơng được “im lặng” hay từ chối thụ lý mà có thể áp dụng tập quán, TTPL, những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ và lẽ công bằng để giải quyết.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<i><b>1.2. Cơ sở khoa học để xây dựng nguyên tắc </b></i>

<i>1.2.1. Cơ sở lí luận </i>

<i>Thứ nhất, xuất phát từ vai trị là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, Tồ án có trách nhiệm xét xử, bảo vệ và bảo đảm pháp luật nói riêng và cơng lý nói chung. Có thể nói, ngun tắc Tịa án khơng được từ chối thụ lý (bất khẳng thụ lý) đã được ghi nhận từ lâu </i>

bởi nhiều quốc gia trên thế giới, chẳng hạn như trong Bộ luật Napolion 1804 quy định

<i>rằng: “Một thẩm phán từ chối giải quyết vụ án với lý do pháp luật im lặng, mơ hồ hoặc không đủ, có thể bị truy tố vì tội phủ nhận cơng lý”. Có thể nói, quy định là kết quả của một q trình “tiến hóa” lâu dài, xuất phát từ châm ngôn “Luật pháp không tự thân quan tâm đến các tiểu tiết” (de minimis non curat lex) . </i>

Trước khi nguyên tắc được hình thành, vào thời đại Trung cổ, các thẩm phán đã bị

<i>“cáo buộc” chối bỏ trách nhiệm xét xử của mình mà phải viện dẫn tới Sự phán xét của Chúa (God's Judgment) khi phải đối mặt với tình huống khơng có quy tắc sẵn nào có </i>

thể được áp dụng. Mặt khác, trong thời kỳ vua Louis XV trị vì, nguyên tắc quân chủ với

<i>tư cách là nguồn luật pháp duy nhất (The will of the King is the will of the Law) không </i>

chỉ làm cho việc xét xử của các thẩm phán bị phụ thuộc vào các cơ quan lập pháp mà thậm chí cịn dẫn đến sự vi phạm hoàn toàn các nguyên tắc xét xử . Vì lý do này, các tác giả của BLDS năm 1804 có xu hướng buộc thẩm phán phải đưa ra phán quyết ngay cả khi văn bản luật khơng quy định điều luật. Có thể nói, quy định này một mặt đã ràng buộc trách nhiệm xét xử của các thẩm phán, mặt khác đã mở đầu cho sự ghi nhận và phát triển của nguyên tắc này tại nhiều bộ luật hiện đại của nhiều quốc gia trên thế giới

<i>Thứ hai, xuất phát từ việc pháp luật trao cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện hoặc u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Tuy nhiên, trên thực tế, nếu Nhà nước chỉ công nhận các quyền và lợi ích cho các </i>

chủ thể là chưa đủ, mà cần phải có cơ chế pháp lý đảm bảo cho quyền đó được thực hiện trong thực tế. Do đó, một trong những cơ chế pháp lý đó là đưa ra cách giải quyết khi chưa có điều luật áp dụng và ràng buộc cho Tịa án khơng được từ chối giải quyết vụ việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng.

<b>Too long to read onyour phone? Save</b>

to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<i>1.2.2. Cơ sở thực tiễn </i>

<i>Trên cơ sở hoạt động lập pháp. Trong lĩnh vực dân sự, cùng với sự phát triển của </i>

kinh tế xã hội, các vụ việc liên quan đến quyền và lợi ích diễn ra ngày càng phổ biến -

<i>và phức tạp. Theo Luật gia Portalis, ông cho rằng: “Sự trao đổi giữa con người vô cùng năng động, lợi ích của các cá nhân là rất đa dạng và quan hệ giữa con người với nhau là rất phong phú, cho nên nhà làm luật không thể nào làm hết mọi thứ” . Do đó, dù các </i>

nhà làm luật có làm tốt đến đâu cũng không thể quy định hết các quan hệ dân sự phát sinh trong đời sống hằng ngày. Mặt khác, việc xây dựng cũng như sửa đổi luật trên thực tế rất tốn kém, sẽ vơ cùng khó khăn để có thể tiến hành việc sửa đổi liên tục và đảm bảo tính kịp thời của luật văn bản so với thực tiễn.

Tại Việt Nam, trước khi có quy định trên, thực tế đã có rất nhiều vụ việc người dân khởi kiện ra Tòa án yêu cầu giải quyết như tranh chấp về mộ phần, chăm sóc mồ mả... nhưng bị Tịa án từ chối vì khơng thuộc thẩm quyền . Việc từ chối giải quyết những vụ việc như trên xuất phát từ sự bất cập của pháp luật dân sự quy định về phạm vi điều chỉnh và thẩm quyền giải quyết trong BLTTDS trước đây, dẫn đến một số quan điểm cho rằng Nhà nước đã không thực hiện tốt trách nhiệm phân xử và bảo đảm công lý.

<i>Trên cơ sở hoạt động của Toà án. Hiến pháp năm 2013 đã quy định rất rõ nhiệm vụ </i>

của Tịa án nhân dân là bảo vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền

<i>và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Do đó, quy định “Tịa án khơng được từ chối yêu cầu giải quyết vụ, việc dân sự vì lý do chưa có điều luật để áp dụng” là phù hợp với </i>

quy định của Hiến pháp, tạo điều kiện cho việc triển khai, thi hành các quy định của Hiến pháp vào cuộc sống.

<i><b>1.3. Ý nghĩa nguyên tắc </b></i>

<i>Có thể nói, việc ghi nhận nguyên tắc đã góp phần xóa đi những “lỗ hổng” có thể phát </i>

sinh trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự do Tòa án tiến hành, là cơ sở cho việc bảo đảm tối đa các quyền và lợi ích chính đáng của cá nhân, tổ chức, phù hợp với Hiến pháp năm 2013 và phù hợp với nền kinh tế xã hội hiện nay của Việt Nam- . Cụ thể:

<i>Đối với đương sự, nguyên tắc là cơ sở pháp lý quan trọng cho phép các đương sự thực hiện các quyền tố tụng của mình. Khi nguyên tắc được ghi nhận và bảo đảm thực </i>

hiện thì dù chưa có điều luật điều chỉnh, yêu cầu của các đương sự vẫn sẽ được Tòa án thụ lý để giải quyết. Từ đó, tạo cơ sở bảo đảm các quyền khởi kiện cũng như lợi ích hợp pháp của đương sự.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<i>Đối với Tòa án, nguyên tắc đã đặt ra trách nhiệm và cách ứng xử của toà án trướcnhững lời yêu cầu của người dân. </i>Thực tế nguyên tắc này đã làm thay đổi nhận thức , cũng như nâng cao trách nhiệm của Tòa án trong việc bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

<i>Đối với hệ thống pháp luật, nguyên tắc đã khắc phục hạn chế của các BLTTDS trước đó, tạo điều kiện cho việc hồn thiện hệ thống pháp luật. Cụ thể, thông qua việc áp dụng </i>

nguyên tắc để giải quyết các tình huống chưa có điều luật quy định sẽ tạo điều kiện cho Tịa án có thể phát hiện được những khiếm khuyết, lỗ hổng của pháp luật, từ đó làm cơ sở để kiến nghị, đề xuất hướng giải quyết với cơ quan lập pháp trong việc sửa đổi, bổ sung và từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật.

<i><b>1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc </b></i>

Trên cơ sở khoa học hình thành nguyên tắc như đã phân tích ở trên, nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự khi chưa có điều luật áp dụng được hình thành từ yếu tố trách nhiệm của thẩm phán cũng như xuất phát từ khả năng giải thích pháp luật trong bối cảnh các quan hệ dân sự ngày càng phức tạp và phát triển. Do đó, có thể suy luận rằng, những yếu tố đã góp phần hình thành nên nguyên tắc cũng chính là những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc. Cụ thể:

<i>Một là, năng lực của thẩm phán mà trọng tâm là kỹ năng giải thích pháp luật trên thực tế của Thẩm phán cũng như Hội thẩm nhân dân. Cụ thể, khi rơi vào các tình huống “thiếu vắng” căn cứ pháp lý, các chủ thể đưa ra phán quyết trước tiên phải đảm bảo tính </i>

sáng tỏ về mặt tư tưởng, nội dung và ý nghĩa của các quy phạm pháp luật sẵn có, từ đó làm cơ sở cho việc vận dụng các phương pháp khác một cách đúng đắn. Ngược lại, nếu thẩm phán khơng đảm bảo khả năng giải thích pháp luật thì hồn tồn có thể dẫn đến việc á<i>p dụng sai lầm các phương pháp cũng như đưa ra các phán quyết thiếu tin cậy</i> “ ” và đi ngược lại với mục đích của ngun tắc.

Điều này có thể chứng minh qua một tranh chấp có thực trên thực tế - các vụ án tranh chấp về quyền tác giả đối với sản phẩm do AI sáng tác. Tại vụ án này, thông qua việc sử dụng án lệ từ năm 1884 bảo hộ bản quyền cho đối với nhiếp ảnh, thẩm phán có thể thừa nhận quyền tác giả sản phẩm của trí tuệ nhân tạo, chứng minh AI chỉ là một công cụ hỗ trợ tác giả trong việc sáng tác tác phẩm . Tuy nhiên, phán quyết này cũng có thể vấp phải một số quan điểm cho rằng việc áp dụng án lệ trên là chưa phù hợp do thẩm phán chưa làm rõ được ý nghĩa của các quy định bảo hộ bản quyền cũng như tư cách pháp lý của AI. Như vậy, qua đây có thể thấy rằng, năng lực và khả năng giải thích pháp luật của thẩm phán ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện nguyên tắc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<i>Hai là, yếu tố trách nhiệm của Toà án. Trên thực tế, nếu quy định trách nhiệm cho </i>

Tòa án quá nghiêm khắc sẽ tạo áp lực cho việc thực hiện nguyên tắc, song, việc “buông lỏng” trong quy định trách nhiệm cũng có thể khiến Tồ án tuỳ nghi thực hiện. Vì vậy, việc quy định trách nhiệm của Tòa án một cách phù hợp là điều vô cùng cần thiết.

<i>Ba là, mức độ phát triển của các mối quan hệ dân sự. Về bản chất, quyền tư pháp và </i>

quyền lập pháp vẫn mang tính độc lập nhất định, các thẩm phán tuy được trao khả năng sáng tạo pháp luật thông qua ban hành án lệ nhưng không thể xa rời tư tưởng lập pháp nói chung và mục đích của các quy phạm thuộc một hệ thống nói riêng. Do đó, việc phát sinh ngày càng nhiều những quan hệ dân sự chưa có luật điều chỉnh khơng chỉ là một thách thức lớn với các cơ quan lập pháp, mà cịn là trở ngại khơng nhỏ đối với các thẩm phán khi phải làm sáng tỏ tính cơng bằng, cơng lý, đồng thời lựa chọn phương pháp giải quyết bảo đảm tối đa quyền và lợi ích xứng đáng của mỗi bên.

<b>2. Thực trạng pháp luật về Nguyên tắc 2.1. Điều kiện áp dụng Nguyên tắc</b>

Có thể nói, sự ra đời của nguyên tắc đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, không phải mọi vụ việc xảy ra mà khơng có điều luật áp dụng trực tiếp, tịa án đều phải thụ lý nếu có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết. Theo đó, bộ luật đã giới hạn trường hợp

<i>Tịa án khơng được từ chối là những “Vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng là vụ việc dân sự thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự nhưng tại thời điểm vụ việc dân sự đó phát sinh và cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tịa án giải quyết chưa có điều luật để áp dụng” : </i>

<i>Thứ nhất, vụ việc được yêu cầu giải quyết phải thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự. Ở đây, danh từ “Dân sự” cần được hiểu theo nghĩa rộng, bản chất là sự bình </i>

đẳng trong việc cam kết, thoả thuận về quyền và nghĩa vụ các bên . Theo đó, pháp luật dân sự được hiểu là hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ tài sản, nhân thân, các quan hệ của luật tư được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự nguyện và tự do ý chí. Như vậy, quan hệ được yêu cầu giải quyết phảilà các quan hệvề nhân thân hoặc tài sản, được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản và tự

<i>chịu trách nhiệm. </i>

<i>Thứ hai, quan hệ được yêu cầu giải quyết thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Cụ thể, các quan hệ này cần được xác định là các quan hệ </i>

không thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan, tổ chức khác như Trọng tài thương mại, Uỷ ban nhân dân,… Mặt khác, các quan hệ này cũng cần được giải quyết ở Toà án

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

theo thủ tục tố tụng dân sự mà không tiến hành theo các thủ tục khác như thủ tục tố tụng hành chính, thủ tục tố tụng hình sự, thủ tục tuyên bố phá sản.

<i>Thứ ba, quan hệ được yêu cầu giải quyết chưa có điều luật áp dụng. Như đã phân </i>

tích, <i>“quan hệ chưa có điều luật áp dụng” có thể hiểu là </i>tại thời điểm vụ việc phát sinh và được cá nhân, cơ quan, tổ chức yêu cầu tồ án giải quyết, các quan hệ đó chưa có quy định hay hệ thống các quy định điều chỉnh. Do đó, chỉ khi vụ việc dân sự đang phát sinh

<i>khơng có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp, thì nguyên tắc Giải quyết vụ việc dân sự khi khơng có điều luật điều chỉnh mới được áp dụng. </i>

Như vậy, chỉ đối với các trường hợp khi người dân có đơn khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng và thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo thủ tục Tố tụng dân sự thì Tồ án mới có trách nhiệm thụ lý giải quyết.

<i><b>2.2. Trình tự áp dụng pháp luật </b></i>

Nhằm đảm bảo Nguyên tắc được thực hiện trên thực tiễn, Bộ luật cũng đã có những quy định cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục và nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng tại Điều 43, Điều 44 và Điều 45. Cụ thể:

<i>Về thẩm quyền. Theo đó, thẩm quyền của Tịa án khi thụ lý, giải quyết vụ việc dân sự </i>

trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng được quy định từ Điều 35 đến Điều 41 của BLTTDS. Như vậy, điều luật đã gián tiếp khẳng định các vụ việc dân sự phát sinh mà chưa có điều luật áp dụng vẫn thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án và thẩm quyền này được xác định theothủ tục do pháp luật Tố tụng dân sự quy định.

<i>Về trình tự, thủ tục thụ lý, giải quyết. Theo đó, việc thụ lý, giải quyết các vụ việc dân </i>

sự chưa có điều luật áp dụng được thực hiện theo thủ tục chung. Tuy nhiên, trên thực tế, các vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng có những điểm khác biệt so với vụ những việc dân sự thông thường khác đã được các nhà làm luật dự báo. Do đó, theo quan điểm của nhóm, đối với những vụ việc dân sự chưa có điều luật quy định, ngồi các thủ tục thông thường như các vụ án dân sự khác, cần thiết phải có những quy định cụ thể, riêng biệt về q trình Tồ án nghiên cứu cũng như giải quyết vụ việc nhằm đảm bảo việc thực hiện đúng đắn mục đích của Nguyên tắc.

<i>Về quy tắc áp dụng. Khi giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật </i>

để áp dụng, Tòa án phải căn cứ vào tập quán, TTPL, nguyên tắc cơ bản của pháp luật, án lệ, lẽ công bằng để giải quyết. Cụ thể, việc áp dụng nguyên tắc sẽ thực hiện theo thứ tự sau:

<i>2.1.1. Áp dụng tập quán </i>

<i>Tiếp cận từ góc độ pháp lý, thuật ngữ “tập quán” chưa được định nghĩa trong các văn </i>

bản luật, song, khái niệm này đã được đề cập trong Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán TAND tối cao. Theo đó, Tập quán là thói quen đã thành nếp trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

đời sống xã hội, trong sản xuất và sinh hoạt thường ngày, được cộng đồng nơi có tập quán đó thừa nhận và làm theo như một quy ước chung của cộng đồng.

Có thể thấy, các nhà làm luật đã ưu tiên lựa chọn áp dụng tập quán sau sự thoả thuận của các đương sự khi giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng. Điều này xuất phát từsự hình thành của tập qn được bắt nguồntrong chính cộng đồng dân cư nên bản thân tập quán cũng có tính gần gũi với các chủ thể. Đồng thời, tập quán cũng được xem là giá trị văn hoá, tinh thần, việc sử dụng chúng sẽ tạo điều kiện cho việc đạt được sự thuyết phục, công nhận trong quá trình giải quyết vụ việc.

Tuy nhiên, cũng cần phải xác định không phải mọi tập quán tồn tại trên thực tế đều được Toà án viện dẫn để xét xử, giải quyết các tranh chấp, yêu cầu. Theo khoản 1 Điều 45 BLTTDS năm 2015, việc áp dụng tập quán được thực hiện như sau:

Toà án áp dụng tập quán để giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp các bên không có thoả thuận và pháp luật khơng quy định. Tập quán không được trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, đạo đức xã hội và đã trở thành thông dụng, được cộng đồng thừa nhận. Khi yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự chưa có điều luật để áp dụng, đương sự có quyền viện dẫn tập quán để yêu cầu Tòa án xem xét áp dụng. Tòa án phải có trách nhiệm xác định giá trị áp dụng của tập quán đảm bảo đúng quy định . Trường hợp các đương sự viện dẫn các tập qn khác nhau thì tập qn có giá trị áp dụng là tập quán được thừa nhận tại nơi phát sinh vụ việc dân sự

Chẳng hạn như trong vụ án về tranh chấp quyền sử dụng đất giữa nguyên đơn là bà H và bị đơn là ông T trong bản án số 161/2017/DS-PT ngày 17/07/2017. Theo đó, nhằm làm rõ và để chứng minh nhằm xác định sự thật khách quan của vụ việc dân sự, toà án đã vận dụng tập quán trong quản lý sử dụng đất và chôn cất người chết để giải quyết vụ án. Cụ thể, khi làm rõ phần ranh đất tranh chấp, các bên cho rằng ranh giới giữa hai thuở đất cách ngôi mộtrên đấy0,2m. Để xác định và làm rõ, toà án đã áp dụng tập quán để nhận định rằng ngôi mộ sẽ không chôn khi một phần ngôi mộ thuộc đất người này, một phần ngôi mộ thuộc đất người khác và theo xác nhận của các bên đương sự thì việc xác định ranh đất như trên là có cơ sở

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>2.1.2. Áp dụng tương tự pháp luật </i>

Về mặt lí luận, áp dụng TTPL là giải quyết vụ việc thực tế, cụ thể trên cơ sở quy phạm pháp luật điều chỉnh trường hợp khác có nội dung gần giống với vụ việc cần giải quyết . Trên cơ sở đó, có thể hiểu áp dụng TTPL để giải quyết những vụ việc dân sự chưa có điều luật áp dụng là sử dụng những quy phạm pháp luật đang có hiệu lực để điều chỉnh những quan hệ dân sự có tính chất tương tự với những quan hệ dân sự đang được quy phạm pháp luật đó điều chỉnh trực tiếp.

Có thể nói, việc áp dụng TTPL địi hỏi tính chun môn cao của người áp dụng, song cũng rất dễ dẫn đến sự tùy tiện bởi sự hiểu biết của thẩm phán so với các bên đương sự. Do đó, phương pháp này chỉ được tiến hành khi có đủ những điều kiện nhất định. Cụ

<i>thể, việc áp dụng TTPL để giải quyết vụ án dân sự chỉ được thực hiện “trong trường hợp các bên không có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và khơng có tập qn được áp dụng” . </i>Đồng thời, trong khoa học pháp lý, việc áp dụng TTPL dân sự còn phải đáp ứng điều kiện cụ thể là òa án phải xác định được quy phạm điều chỉnh khác t trong pháp luật dân sự có nội dung tương tự, đồng thời có thể được áp dụng để giải quyết tranh chấp trong trường hợp cụ thể xảy ra.

Ví dụ, tại bản án số 25/2019/DS-ST ngày 07/06/2019 về tranh chấp hợp đồng góp hụi. Tại bản án, nguyên đơn là bà T tham gia dây hụi có lãi do vợ chồng bà C làm đầu thảo. Tuy nhiên, đến ngày 02/10/2018 thì bà C tuyên bố vỡ hụi ngưng khui . Ở đây, do pháp luật không quy định trường hợp việc chủ hụi tự ý ngưng khui hụi, do đó Tồ án đã áp dụng TTPL để xác định rằng hụi viên có đóng góp chưa lĩnh hụi được xem là đương

<i>nhiên rút khỏi dây hụi và được nhận lại tiền hụi đã góp. Trong trường hợp này, “vỡ hụi ngưng khui” có thể hiểu là “quỹ hụi” do vợ chồng bà C quản lý “bất ngờ” bị đóng và </i>

dây hụi khơng cịn đi vào hoạt động nhưng số tiền do hụi viên đóng góp vẫn do chủ hụi nắm giữ. Như vậy, về mặt hậu quả pháp lý, điều này cũng tương đồng với việc toàn bộ các hụi viên đương nhiên rút khỏi dây hụi khiến cho dây hụi khơng cịn “tồn tại” và chủ hụi phải trả lại phần hụi theo thỏa thuận.

Ở đây, theo quan điểm của nhóm, dường như trong pháp luật dân sự Việt Nam, hai

<i>cụm từ “áp dụng quy định tương tự của pháp luật” và “áp dụng TTPL” được dùng đồng nghĩa với nhau. Cụ thể, tại Khoản 2 Điều 45 có nội dung là “áp dụng TTPL” nhưng lại quy định Tòa án phải “xác định quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự”. Do đó, sự phân định của hai hình thức này dường như chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận </i>

và chỉ được đề cập đến trong khoa học pháp lý.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>2.1.3. Áp dụng nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, lẽ công bằng </i>

Theo quy định của BLTTDS 2015, trong trường hợp không thể áp dụng tập quán, TTPL để giải quyết vụ việc dân sự thì Tồ án sẽ áp dụng ngun tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ hoặc lẽ công bằng. Cụ thể:

<i>Thứ nhất, đối với việc áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật. Nguyên tắc cơ </i>

bản của pháp luật là những tư tưởng mang tính chỉ đạo cơ bản, xuyên suốt, định hướng cho tồn bộ hệ thống pháp luật. Do đó, trường hợp pháp luật khơng quy định, khơng có tập quán để áp dụng và cũng không thể áp dụng TTPL, BLTTDS quy định áp dụng nguyên tắc cơ bản của PLDS như là một phương thức mở, đề cao sự tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận của các bên trong việc giải quyết vụ việc dân sự nhưng vẫn đảm bảo theo định hướng của hệ thống PLDS.

Trong BLTTDS, các nhà làm luật không đưa ra định nghĩa hay liệt kê các nguyên tắc

<i>cơ bản của PLDS mà chỉ dẫn chiếu “những nguyên tắc được quy định tại Điều 3 của BLDS”. Theo đó, 5 nguyên tắc cơ bản được áp dụng bao gồm: (1) Mọi cá nhân, pháp </i>

nhân đều bình đẳng, khơng được lấy bất kỳ lý do nào để phân biệt đối xử; được pháp

<i>luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và tài sản. (2) Cá nhân, pháp nhân xác lập, </i>

thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, có hiệu lực thực hiện đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn

<i>trọng. (3) Cá nhân, pháp nhân phải xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung thực. (4) Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, </i>

nghĩa vụ dân sự không được xâm phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích cơng cộng,

<i>quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. (5) Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách </i>

nhiệm về việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự.

Chẳng hạn như vụ án dân sự sơ thẩm được thụ lý năm 2016 của tỉnh Quảng gãi có N nội dung như sau: Sau 1 năm, khi cha mẹ mất, vì tranh chấp di sản thừa kế, anh em trong gia đình đã kiện nhau ra tịa. Trong đó, có đề cập liên quan đến số tiền phúng viếng . Theo quy định của pháp luật, tiền phúng viếng không phải là di sản thừa kế. Cũng có quan điểm cho rằng, tiền phúng viếng có tính chất gần với tiền tử tuất được điều chỉnh bởi Điều 66 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 nhưng đây là 2 loại tài sản được hình thành trên căn cứ xác lập quyền sở hữu khác nhau do đó khơng thể áp dụng TTPL để giải quyết khi có tranh chấp. Lúc này, Tịa án chỉ có thể giải quyết vụ án dựa trên nguyên tắc cơ bản pháp luật dân sự: dựa trên nguyên tắc tôn trọng ý chí tự định đoạt của các bên chủ

</div>

×