Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Tiểu luận nhóm môn chủ nghĩa xã hội khoa học đề tài 02 nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.08 MB, 55 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINHTRUNG TÂM QUẢN LÝ ĐÀO TẠO CHẤT LƯỢNG CAO</b>

<b>VÀ ĐÀO TẠO QUỐC TẾ</b>

<b>ĐỀ TÀI TIỂU LUẬN NHĨM </b>

<b>MƠN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC</b>

<i>Đề tài 02: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam</i>

<b>Giảng viên hướng dẫn: TS Nguyễn Thanh Hải</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>Huỳnh Ngọc Bảo Châu2353801013040</b>

<b>Nhóm sinh viên thực hiện: Nhóm 2</b>

<i>Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 26 tháng 02 năm 2024</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI NÓI ĐẦU………..1</b>

<b>1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃHỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM...4</b>

1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...4

1.2 Đặc trưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...5

<b>2. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Xã hội chủnghĩa VIỆT NAM...6</b>

2.1 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan...6

2.2 Tính tất yếu việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam...6

<b>3. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC Pháp quyền xã hộichủ nghĩa Việt Nam...8</b>

3.1 Bản chất của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam...8

3.2 Chức năng của Nhà nước Pháp quyền xã hội Chủ nghĩa Việt Nam...11

<i>3.2.1 Theo góc độ tiếp cận...11</i>

<i>3.2.2Theo bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa...11</i>

<b>4. SO SÁNH VÀ LIÊN HỆ...13</b>

4.1 So sánh về đặc trưng của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các mơ hình nhà nước pháp quyền khác trên Thế giới...13

<i>4.1.1 Điểm tương đồng...13</i>

<i>4.1.2 Điểm khác biệt...14</i>

<b>Too long to read onyour phone? Save</b>

to read later on your computer

Save to a Studylist

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

4.2 Liên hệ về phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền...17

<i>4.2.1 Những kết quả đạt được...18</i>

<i>4.2.2 Những hạn chế, yếu kém...29</i>

<i>4.2.2Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém...33</i>

<b>5. NHỮNG PHƯƠNG HƯỚNG CƠ BẢN TIẾP TỤC XÂY DỰNG NHÀNƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌDÂN Ở NƯỚC TA...35</b>

5.1 Tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa...35

5.2 Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước...36

5.3 Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật...40

<b>KẾT LUẬN………..………..45</b>

<b>DANHMỤCTÀILIỆUTHAMKHẢO………..46</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>LỜI MỞ ĐẦU:</b>

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đóng vai trị khơng thể phủ nhận trong việc định hình và điều hành sự phát triển của xã hội. Trong bối cảnh một nền kinh tế thị trường đang được xây dựng và một xã hội đang trải qua quá trình đổi mới và phát triển, vai trị của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trở nên càng trở nên cần thiết và quan trọng hơn bao giờ hết. Như một phần không thể tách rời của hệ thống chính trị và quản lý quốc gia, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không chỉ là một cơ quan điều hành chính trị mà cịn là ngơi nhà chung của tất cả các tầng lớp nhân dân. Tính đến từng chi tiết, từ việc xây dựng các chính sách kinh tế đến việc đảm bảo an ninh quốc gia, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam luôn chú trọng vào việc đáp ứng nhu cầu và mong muốn của nhân dân, đồng thời đảm bảo sự công bằng, minh bạch và dân chủ trong mọi quyết định và hành động của mình.

Bản chất của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam phản ánh sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc dân chủ và lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Điều này thể hiện qua cơ chế tổ chức của nhà nước, trong đó quyền lực được phân tán và kiểm sốt một cách chặt chẽ thơng qua các cơ quan, tổ chức đại diện cho các tầng lớp nhân dân, từ cấp quốc gia đến cấp địa phương. So với các mơ hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt và độc đáo, đặc biệt là sự kết hợp giữa nguyên tắc dân chủ và lãnh đạo từ trên xuống, giữa quyền lực cộng đồng và quyền lực trung ương. Điều này tạo ra một mơ hình quản lý và điều hành có tính hiệu quả cao trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững và bảo vệ quyền lợi của nhân dân.

Như vậy, để hiểu rõ hơn về vai trò và ảnh hưởng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đối với phát triển kinh tế, chính trị và xã hội, chúng ta cần phải xem xét sâu hơn về bản chất, chức năng và đặc điểm của nó, cũng như mối liên hệ và tương tác giữa nhà nước và các tầng lớp nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.

<b> ĐẶT VẤN ĐỀ</b>

<b>1.Tính cấp thiết của đề tài</b>

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không chỉ là một cơ quan quản lý chính trị mà cịn là trụ cột của sự phát triển và ổn định của xã hội. Việc hiểu rõ về vai trò, chức năng và bản chất của nhà nước này là cần thiết để định hình chính sách và hướng phát triển của đất nước. Hiểu biết sâu hơn về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam giúp chúng ta nắm bắt được những xu hướng và thách thức đang đối diện, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp và hiệu quả. Việc nghiên cứu về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam không chỉ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về cơ chế quản lý và điều hành mà cịn giúp định hình các chiến lược phát triển bền vững cho đất nước. Hiểu biết sâu hơn về cơ cấu và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam giúp đảm bảo rằng quyết định và chính sách được đưa ra mang tính cơng bằng và dân chủ, phản ánh ý kiến và mong muốn của toàn bộ nhân dân. Việc nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam cũng cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng cho việc xây dựng các chương trình giáo dục và đào tạo về chủ đề này, từ đó giúp nâng cao nhận thức và kiến thức của các thế hệ tương lai.

<b>2. Lý do chọn đề tài</b>

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một phần không thể thiếu của hệ thống chính trị và quản lý quốc gia tại Việt Nam. Việc hiểu biết sâu hơn về cơ cấu, chức năng và hoạt động của nhà nước này là cực kỳ quan trọng để có thể đánh giá và định hình tốt hơn các chính sách và chiến lược phát triển của đất nước. Mơ hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt và phong phú, đáp ứng được nhu cầu và điều kiện đặc thù của quốc gia. Việc nghiên cứu về chủ đề này giúp ta hiểu rõ hơn về sự phát triển của xã hội và chính trị ở Việt Nam. Hiểu biết về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam là một phần không thể thiếu trong việc xây dựng và thúc đẩy sự phát triển bền vững của đất nước, từ việc đảm bảo an ninh quốc gia đến việc thúc đẩy sự công bằng xã hội và phát triển kinh tế. Nghiên cứu về nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam cũng giúp ta nhận biết và đối mặt với những thách thức đang đối diện, đồng thời tìm ra những cơ hội và giải pháp để phát triển và cải thiện hệ thống nhà nước này. Việc nghiên cứu và truyền đạt kiến thức về nhà nước pháp quyền chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam không chỉ giúp

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

nâng cao hiểu biết của các nhà nghiên cứu, sinh viên mà cịn đóng góp vào việc tăng cường nhận thức và kiến thức của cộng đồng về chủ đề này.

<b>3. Mục đích nghiên cứu đề tài</b>

Mục đích chính của nghiên cứu là tìm hiểu và phân tích sâu hơn về bản chất, tính chất và bản sắc của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, từ cơ cấu tổ chức đến quy trình hoạt động và ảnh hưởng của nó đối với sự phát triển của xã hội. Nghiên cứu nhằm đánh giá vai trò và tầm quan trọng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong việc thúc đẩy sự phát triển bền vững, từ khía cạnh kinh tế, chính trị đến xã hội. Phân tích và đánh giá những thách thức mà nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đang đối diện, cũng như những cơ hội để cải thiện và phát triển hệ thống nhà nước này. Dựa trên những kết quả từ nghiên cứu, mục đích của đề tài là đề xuất các giải pháp và chiến lược phát triển nhằm tăng cường hiệu quả hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, đồng thời đảm bảo sự công bằng, dân chủ và phát triển bền vững cho xã hội.

<b>4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài</b>

Đối tượng nghiên cứu là cơ cấu tổ chức, chức năng và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, từ cấp trung ương đến cấp địa phương. Các cơ quan, tổ chức liên quan đến việc hoạt động và điều hành của nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Quốc hội, Chính phủ, và các cơ quan chính trị - xã hội khác. Nghiên cứu cũng có thể liên quan đến ý kiến, mong muốn và tác động của nhân dân và cộng đồng đối với hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam.

Phạm vi nghiên cứu: giáo trình và tài liệu tham khảo do Đại học Luật TP.HCM cung cấp; những bài báo, nguồn thơng tin chính thống từ chính phủ Việt Nam.

<b>5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu đề tài</b>

Phương pháp tiến hành nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam có thể áp dụng các phương pháp sau:

<i>-Phương pháp nghiên cứu lịch sử: tập trung vào việc tìm hiểu và phân tích lịch</i>

sử phát triển của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam, từ ngày thành lập đến hiện tại. Việc nghiên cứu lịch sử sẽ giúp hiểu rõ hơn về nguồn gốc, phát triển và biến đổi của nhà nước này.

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>- Phương pháp phân tích văn bản: tập trung vào việc phân tích các văn bản pháp</i>

lý, chính sách, báo cáo và tài liệu liên quan đến hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam. Việc phân tích văn bản sẽ giúp đánh giá các chính sách và quy định pháp luật, cũng như hiểu rõ hơn về cơ cấu và hoạt động của nhà nước.

<i>- Phương pháp so sánh: so sánh nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt</i>

Nam với các mơ hình nhà nước pháp quyền khác trên thế giới, nhằm nhận biết những đặc trưng độc đáo và những điểm tương đồng, từ đó đưa ra những nhận định và kết luận phù hợp.

<i>- Phương pháp đánh giá tác động: đánh giá tác động của nhà nước pháp quyền</i>

xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam đối với sự phát triển kinh tế, chính trị và xã hội của đất nước, từ đó đưa ra những khuyến nghị và đề xuất cải thiện.

<b>NỘI DUNG:</b>

<b>1. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM</b>

1.1 Khái niệm Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là<small>1</small>

quá trình đúc kết, kế thừa, vận dụng tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật kiểu mới và thực tiễn xây dựng Nhà nước kiểu mới ở nước ta, nhất là trong những năm đổi mới vừa qua.

Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền xuất hiện rất sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại, ngay từ khi xuất hiện Nhà nước cổ đại và được tiếp tục phát triển, nhất là trong thời kỳ cách mạng tư sản, phản ánh khát vọng của nhân dân về một Nhà nước bảo đảm tự do, dân chủ, nhân quyền, đối lập với sự độc đoán, độc tài của Nhà nước chủ nô và chế độ chuyên chế hà khắc của Nhà nước phong kiến.

Nhà nước pháp quyền theo quan điểm của các nhà tư tưởng trong lịch sử nhân loại là Nhà nước bảo đảm tính tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội, trong<small>2</small>

đó pháp luật phải phản ánh ý chí chung, lợi ích chung của nhân dân; thực hiện và bảo

<small>1là nhà nước được tổ chức và hoạt động trong khn khổ pháp luật, đó là hệ thống pháp luật dân chủ, phản ánhcơng lí, phù hợp với quyền tự nhiên của con người.</small>

<small>2 Điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, được nhà nước đảm bảo thực hiện,buộc mọi người trong đất nước phải tuântheo</small>

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

vệ quyền tự do, dân chủ của nhân dân; chịu trách nhiệm trước cơng dân về những hoạt động của mình và yêu cầu công dân thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước và xã hội; có hình thức tổ chức quyền lực Nhà nước thích hợp bảo đảm chủ quyền thuộc về nhân dân, tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; ngăn chặn được sự tùy tiện, lạm quyền từ phía Nhà nước, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, kể cả vi phạm pháp luật của các cơ quan và công chức nhà nước.

Như vậy, nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước gắn với một giai cấp mà là hình thức tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm tổ chức hoạt động của nhà nước tuân theo quy định của pháp luật, thực hiện được quản lý xã hội theo pháp luật, bảo đảm chủ quyền và quyền tự do, dân chủ của nhân dân. Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước, pháp luật kiểu mới và vận dụng phù hợp với thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, trên quan điểm này có thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp, quản lý xã hội theo pháp luật nhằm phục vụ lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, do Đảng tiền phong của giai cấp công nhân lãnh đạo đồng thời chịu trách nhiệm trước nhân dân và sự giám sát của nhân dân.

1.2 Đặc trưng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Trong những năm đổi mới vừa qua Đảng ta đã từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Từ nhận thức lý luận và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể khái quát nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có những đặc trưng sau đây:

Là Nhà nước thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; được tổ chức, hoạt động trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật, bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật trong đời sống xã hội.

Là Nhà nước tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước về mặt lập pháp, hành pháp và tư pháp; tôn trọng, thực

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

hiện và bảo vệ quyền con người, tất cả vì hạnh phúc của con người; bảo đảm trách nhiệm giữa nhà nước và công dân, thực hành dân chủ gắn với tăng cường kỷ cương, kỷ luật.

Đó là Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận; thực hiện đường lối hịa bình, hữu nghị với nhân dân các dân tộc và các nhà nước trên thế giới trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và cùng có lợi; đồng thời tơn trọng và cam kết thực hiện các công ước, điều ước, hiệp ước quốc tế đã tham gia, ký kết, phê chuẩn.

<b>2. XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Xã hội chủ nghĩa VIỆT NAM</b>

2.1 Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan

Chức năng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam xuất phát từ yêu cầu tất yếu của quá trình cách mạng theo ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm xây dựng “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Nhà nước pháp quyền không phải là một kiểu nhà nước mà là giá trị phổ biến, là biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Mỗi quốc gia, dân tộc, tùy thuộc vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế, xã hội và trình độ phát triển mà xây dựng cho mình một mơ hình nhà nước pháp quyền thích hợp.

Đối với Việt Nam, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan. Có thể nói, q trình xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp năm 1946, được định hướng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước. Quá trình này đã trải qua hơn nửa thế kỷ và ngày nay đang được tiếp tục đẩy mạnh trong thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

2.2 Tính tất yếu việc xây dựng và hồn thiện nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xuất phát từ định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội , nhằm xây dựng một chế độ xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Chúng ta ý thức sâu sắc rằng, để xây dựng được một chế độ xã hội có tính mục tiêu như vậy thì cơng cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tính tất yếu khách quan ấy cịn xuất phát từ đặc điểm của thời đại với xu thế toàn cầu hóa. Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng<small>3</small>

ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, thực hành dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một nhà nước vừa phải thể hiện được các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, vừa khẳng định được bản sắc, đặc thù của riêng mình. Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư pháp và được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Tiếp tục hồn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật”. Như vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những đặc trưng sau:

Thứ nhất, là nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân. Đây là đặc trưng cơ bản, được ghi nhận trong Hiến pháp của nước ta và được thể hiện trong các quy định về nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.

<small>3Tiếng Anh: World Trade Organization, viết tắt WTO, được thành lập với chức năng giám sát các hiệp địnhthương mại giữa các nước thành viên với nhau theo các quy tắc thương mại, mục đích loại bỏ hay giảm thiểu cácrào cản thương mại để tiến tới tự do thương mại</small>

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Thứ hai, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đây vừa là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, vừa là quan điểm chỉ đạo quá trình tiếp tục thực hiện việc cải cách bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả.

Thứ ba, Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối thượng trong điều chỉnh các quan hệ thuộc tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật thể hiện đầy đủ, đúng đắn ý chí của Nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp, pháp luật là của tất cả công dân, không loại trừ đối với bất cứ ai.

Thứ tư, Nhà nước ta tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Mục tiêu cao cả của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh về bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân được thể chế hố thành luật và được Nhà nước ta tổ chức thực hiện có kết quả.

Thứ năm, tơn trọng và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia.

Thứ sáu, được tổ chức và hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là đặc trưng cơ bản để phân biệt nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nhà nước pháp quyền tư sản chủ nghĩa.<small>4</small>

<b>3. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA NHÀ NƯỚC Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam</b>

3.1 Bản chất của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một giá trị vừa mang tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không phải là một kiểu nhà nước mà là một phương thức tổ chức quyền lực nhà nước dựa trên nền tảng Hiến pháp và pháp luật, vì dân chủ, con người, quyền con người, quyền công dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một trong những đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là một trong những phương hướng cơ

<small>4 Trích Tạp chí Cộng Sản-“Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giaiđoạn mới”(PGS-TS Trương Hồ Hải, TS Đặng Viết Đạt)</small>

8

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, được xây dựng, hoàn thiện đồng thời với xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là ba trụ cột phát triển đất nước.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận và khẳng định điều đó.<small>56</small>

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam mang tính chất dân chủ, nhân văn sâu sắc. Nhà nước pháp quyền Việt Nam mang tính chất “xã hội chủ nghĩa”, được thể hiện ở các quan điểm, mục tiêu, đặc trưng, giá trị, nội dung của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Bản chất của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được quy định trong Điều 2 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung năm 2001): “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Bản chất của Nhà nước ta hiện nay thể hiện cụ thể bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bao gồm các đặc trưng sau:

Thứ nhất tính giai cấp cơng nhân của Nhà nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Tính giai cấp công nhân của Nhà nước ta được quy định bởi tính tiên phong và sự lãnh đạo của giai cấp này. Tính tiên phong của giai cấp cơng nhân được thể hiện trong quá trình đấu tranh cách mạng, ở sự trung thành với lý tưởng cách mạng, ở khả năng nhận thức và tư tưởng đổi mới, phát triển. 4 Bản chất giai cấp của Nhà nước ta thể hiện bản chất của giai cấp công nhân, là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất, phấn đấu vì lợi ích của nhân dân lao động và của tồn xã hội.

Thứ hai tính dân tộc của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước ta là nhà nước của tất cả các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, là biểu hiện

<small>5 Khoản 1 điều 2 hiến pháp 2013: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hộichủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.</small>

<small>6 Bản chất của nhà nước thường được quy định trong các bản hiến pháp</small>

9

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

tập trung của khối đoàn kết dân tộc. Các dân tộc anh em đều bình đẳng trước pháp luật. Mỗi dân tộc đều có ngơn ngữ riêng, được Nhà nước tạo điều kiện, hỗ trợ về mọi mặt để phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội. Các chính sách xã hội thể hiện tính dân chủ, nhân đạo của nhà nước xã hội chủ nghĩa đang được triển khai thực hiện ở vùng đồng bào các dân tộc. Ngày nay, tính dân tộc đó được phát huy nhờ kết hợp với tính giai cấp, tính nhân dân và tính thời đại.

Thứ ba tính nhân dân của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Điều 2 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. “Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức ". Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân: Nhân dân<small>7</small>

thiết lập nên Nhà nước bằng quyền bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân, sử dụng quyền lực nhà nước chủ yếu thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước bằng các hình thức giám sát, khiếu nại, tố cáo, khiếu kiện các quyết định, hành vi của các cơ quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền làm thiệt hại đến quyền lợi của họ; tham gia góp ý vào các dự án chính sách, pháp luật. Tính nhân dân không phủ nhận các biện pháp cương quyết, mạnh mẽ của Nhà nước nhằm chống lại các hành vi gây mất ổn định chính trị, vi phạm pháp luật, xâm hại đến lợi ích của Nhà nước, tập thể và cơng dân. Vì vậy, cùng với việc đổi mới, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước, Nhà nước cần tăng cường bộ máy cưỡng chế để đảm bảo an ninh, an toàn cho xã hội và cho từng cá nhân con người.

Thứ tư tính thời đại của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Nhà nước ta là một Nhà nước xã hội chủ nghĩa, thực hiện thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nhà nước ta hiện nay đang thực hiện 5 chính sách phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đồng thời thực hiện dân chủ hóa đời sống xã hội. Nhà nước ta thừa nhận nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là phương tiện để đạt mục tiêu

<small>7 Là sự thể hiện trực tiếp nguyên lý về chủ quyền nhân dân - tư tưởng nền tảng trong các bản Hiến pháp của ViệtNam</small>

10

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

"dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Bên cạnh việc chăm lo phát triển kinh tế, Nhà nước Việt Nam còn quan tâm đến việc giải quyết các vấn đề xã hội, chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hóa… Tính thời đại của Nhà nước ta còn được thể hiện sinh động trong chính sách đối ngoại với phương châm: "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới". Nhà nước Việt Nam thực hiện chính<small>8</small>

sách hịa bình, hữu nghị, hợp tác trên cơ sở tơn trọng độc lập, chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ, khơng can thiệp vào nội bộ của nhau.

<b>3.2 Chức năng của Nhà nước Pháp quyền xã hội Chủ nghĩa Việt Nam</b>

<i>3.2.1 Theo góc độ tiếp cận</i>

Tùy theo góc độ tiếp cận, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa được chia thành các chức năng khác nhau:

được chia thành chức năng đối nội và chức năng đối ngoại.

xã hội chủ nghĩa được chia thành chức năng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, ... - Căn cứ vào tính chất của quyền lực nhà nước, chức năng của nhà nước được chia

thành chức năng giai cấp (trấn áp) và chức năng xã hội (tổ chức và xây dựng).

<i>3.2.2 Theo bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa</i>

Xuất phát từ bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa, nên việc thực hiện các chức năng của nhà nước cũng có sự khác biệt so với các nhà nước trước đó:

- Đối với các nhà nước bóc lột, nhà nước của thiểu số thống trị đối với đa số nhân dân lao động, nên việc thực hiện chức năng trấn áp đóng vai trị quyết định trong việc duy trì địa vị của giai cấp nắm quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.

- Còn trong nhà nước xã hội xã hội chủ nghĩa, mặc dù vẫn cịn chức năng trấn áp, nhưng đó là bộ máy do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức ra để trấn áp giai cấp bóc lột đã bị lật đổ và những phần tử chống đối để bảo vệ thành quả cách mạng, giữ vững an ninh chính trị, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù trong thời kỳ quá độ, sự trấn áp vẫn còn tồn tại như

<small>8 Cho đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 191/193 quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc</small>

11

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

một tất yếu, nhưng đó là sự thật trấn áp của đa số nhân dân lao động đối với thiếu số bóc lột.

V.I Lênin khẳng định: “Bất cứ một nhà nước nào cũng đều có nghĩa là dùng bạo lực; nhưng toàn bộ sự khác nhau là ở chỗ dùng bạo lực đối với những người bị bóc lột hay đối với kẻ đi bóc lột". Theo V.I.Lênin, mặc dù trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng<small>9</small>

sản, “cơ quan đặc biệt, bộ máy trấn áp đặc biệt là “nhà nước” vẫn cịn cần thiết, nhưng nó đã là nhà nước q độ, mà khơng cịn là nhà nước theo đúng nghĩa của nó nữa”.

V.I. Lênin cho rằng, giai cấp vơ sản sau khi giành được chính quyền, xác lập địa vị thống trị cho đại đa số nhân dân lao động, thì vấn đề quan trọng khơng chỉ là trấn áp lại sự phản kháng của giai cấp bóc lột, mà điều quan trọng hơn cả là chính quyền mới tạo ra được năng suất sản xuất cao hơn chế độ xã hội cũ, nhờ đó mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho đại đa số các giai cấp, tầng lớp nhân dân lao động . Vì vậy, vấn đề<small>10</small>

quản lý và xây dựng kinh tế là then chốt, quyết định. Nhà nước xã hội chủ nghĩa “không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực. Cơ sở kinh tế của bạo lực cách mạng đó, cải bảo đảm sức sống và thắng lợi của nó chính là việc giai cấp vô sản đưa ra được và thực hiện được kiểu tổ chức lao động cao hơn so với chủ nghĩa tư bản. Đấy là thực chất của vấn đề. Đấy là nguồn sức mạnh, là điều kiện bảo đảm cho thắng lợi hoàn toàn và tất nhiên của chủ nghĩa cộng sản".

Cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới là nội dung chủ yếu và mục đích cuối cùng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đó là một sự nghiệp vĩ đại, nhưng đồng thời cũng là công việc cực kỳ khó khăn và phức tạp. Nó địi hỏi nhà nước xã hội chủ nghĩa phải là một bộ máy có đầy đủ sức mạnh để trấn áp kẻ thù và những phần tử chống đối cách mạng, đồng thời nhà nước đó phải là một tổ chức có đủ năng lực để quản lý và xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, trong đó việc tổ chức quản lý kinh tế là quan trọng, khó khăn và phức tạp nhất.

Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước được đặt dưới sự điều chỉnh của pháp luật, cho nên nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay bao gồm hai chức năng chính đó là:

<small>9 V.I. Lê-nin: Sđd, t 37, tr 122</small>

<small>10 Trích Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng, Nhà nước ta về quyền lựcvà kiểm soát quyền lực</small>

12

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

Thứ nhất đó là chức năng đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an tịan xã hội. Một nhà nước mà ở đó tinh thần thượng tơn pháp luật được nâng cao, thì tất cả mọi người phải thực hiện và tuân theo các quy định của pháp luật, sẽ bị xử lý một cách nghiêm minh và công bằng khi đứng trước pháp luật. Theo đó thì nhà nước pháp quyền sẽ có chức năng đảm bảo chính trị, trật tự an tồn xã hội một cách tốt nhất có thể.

Thứ hai đó là chức năng tổ chức, xây dựng, đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà ở đó các quyền và nghĩa vụ của mỗi công dân được quy định một cách cụ thể trong các văn bản pháp luật. Pháp luật quy định những việc mà cơng dân nên làm.

Theo đó thì cả hai chức năng trên đều đóng vai trị quan trọng. Tuy nhiên, thì chức năng tổ chức và xây dựng, đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của cơng dân là có chức năng quan trọng nhất. Bởi, theo Hiến pháp năm 2013 thì nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Từ nguyên tắc này mà đảm bảo và thực hiện các quyền cơ bản của nhân dân là chức năng quan trọng nhất. Khi quyền và lợi ích của nhân dân được bảo vệ, được đảm bảo thì nhân dân mới tồn tâm xây dựng đất nước, mới có thể tuân thủ theo chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Từ đó đất nước mới có thể ngày một phát triển hơn. Hơn thế nữa thì Lê Nin từng khẳng định rằng chức năng đảm bảo an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội " mới chỉ là những cơng việc quét dọn trước khi xây dựng, chứ chưa phải là đích thân việc xây dựng" . Nhìn chung thì cả hai chức năng đều quan trọng nhưng chức năng tổ chức, xây dựng, đảm bảo thực hiện các quyền tự do, dân chủ và lợi ích hợp pháp của công dân vẫn là chức năng quan trọng nhất, tuân thủ theo tinh thần của Hiến pháp 2013.

<b>4. SO SÁNH VÀ LIÊN HỆ</b>

4.1 So sánh về đặc trưng của Nhà nước PQXHCN VN với các mơ hình nhà nước pháp quyền khác trên Thế giới

<i>4.1.1 Điểm tương đồng</i>

Mọi nhà nước pháp quyền đều có phương thức tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Nhà nước pháp quyền là một hình thứctổ chức nhà nước đặc biệt mà ở đó pháp luật có giá trị thực thi cao nhất với nội dung thực hiện

13

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quyền lực của nhân dân.Trong đất nước mang chế độ nhà nước pháp quyền, Nhà nước và mọi công dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật. Pháp luật khơng những được coi là công cụ chủ yếu để quản lí mọi hoạt động của xã hội cơng dân, mà cịn xác định ở vị trí cao nhất, tuyệt đối vượt qua mọi quyền lực của tổ chức chính trị, xã hội mà mỗi cơng dân trong xã hội đó. Nghĩa là pháp luật sẽ là một trật tự, là một khung hành lang pháp lý đảm bảo các chủ thể trong nhà nước đó, kể cả nhà cầm quyền phải tuân thủ theo và chấp hành nghiêm túc.

Quyền lực nhà nước bao gồm: Quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Có hệ thống pháp luật đầy đủ, rõ ràng, minh bạch, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân, từ đó nắm bắt và điều chỉnh những quan hệ pháp luật phát sinh trong xã hội. Nhà nước pháp quyền là một hình thức tổ chức nhà nước mà ở đó quyền lực nhà nước thể hiện được lợi ích và ý chí của đại đa số nhân dân, thực hiện chế độ dân chủ trongviệc thiết lập quyền lực nhà nước, thực hiện chế độ trưng cầu ý dân. Mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ, trách nhiệm quyền lợi theo quy định của pháp luật. Ví dụ như : Đan Mạch, một quốc gia ở bán đảo Scandinavia đứng đầu trong các vấn đề liên quan đến hạn chế quyền lực của chính phủ và sự vắng mặt của tham nhũng. 70% người dân Đan Mạch cho rằng các sĩ quan cấp cao chính phủ sẽ bị truy tố và trừng phạt thơng qua tiền phạt, thậm chí phải vào tù nếu có liên quan đến một vụ án tham những bất kỳ.

<i>4.1.2 Điểm khác biệt: Về mặt tư tưởng: </i>

Theo các học giả tư sản, nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các yếu tố sau: 1. Nguồn gốc của quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân với học thuyết khế ước xã hội.

2. Phải có hệ thống pháp luật thể hiện ý chí của nhân dân mà khơng thể hiện ý chí của nhà nước; hệ thống pháp luật về những quyền tự nhiên vốn có của con người. Trong đó quyền sở hữu là thiêng liêng và bất khả xâm phạm.

3. Nhà nước ban hành pháp luật (theo ý chí nhân dân) nhưng nhà nước cũng phải tuân thủ triệt để hệ thống pháp luật ấy.

14

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

4. Quyền lực nhà nước phải được kiểm soát thông qua các thiết chế và cơ chế phù hợp nhằm ngăn chặn xu hướng lạm quyền, độc tài cho dù đó là độc tài cá nhân hay quả đầu chế (độc tài của nhóm người).

Những tư tưởng cốt lõi về nhà nước pháp quyền trong học thuyết Mác- Lênin: Một là, bản chất dân chủ trong nhà nước. Theo chủ nghĩa Mác thì dân chủ là “nhân dân nắm chính quyền. Nghĩa là nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhân dân tạo nên nhà nước chứ không phải nhà nước tạo nên nhân dân. Mác viết: “Chế độ dân chủ xuất phát từ con người và biến nhà nước thành con người được khách thể hóa. Cũng giống như tơn giáo khơng tạo ra con người mà con người tạo ra tôn giáo, ở đây cũng vậy: Không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra nhà nước ”<small>11</small>

Hai là, chủ thể quyền lực nhà nước phải thuộc về đa số - Nhân dân. C.Mác chỉ ra sự khác biệt cơ bản giữa dân chủ vô sản và dân chủ tư sản, phê phán sự hạn chế của dân chủ trong nhà nước tư sản. Dân chủ tư sản dù có tiến bộ hơn rất nhiều so với các chế độ dân chủ trước nó nhưng dân chủ tư sản vẫn là dân chủ của số ít thuộc giai cấp tư sản để bóc lột đa số nhân dân là giai cấp công nhân và nhân dân lao động . Đó là<small>12</small>

dân chủ giả hiệu, chỉ có dân chủ xã hội chủ nghĩa mới thật sự là dân chủ cho số đông, cho nhân dân thật sự, quyền lực nhà nước phải thuộc về số đông ấy.

Ba là, bản chất giai cấp cơng nhân và tính nhân dân rộng rãi trong nhà nước pháp quyền. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac luôn khẳng định bản chất giai cấp của nhà nước và pháp luật, đồng thời thấy được tính xã hội của nhà nước và pháp luật. Vì vậy, trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, phải xây dựng một một nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nghĩa là phải xây dựng nhà nước để phục vụ cho số đơng, của tồn thể nhân dân dưới sự lãnh đạo bởi chính đảng của giai cấp công nhân - Đảng Cộng sản.

Bốn là, trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa phải xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước hiệu quả, sự kiểm soát ấy phải xuất phát từ nhân dân - chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph. Ăngghen đã kết luận: “Pháp quyền của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ơng được

<small>11 C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Sđd, tr. 350</small>

<small>12 Vì: “Nếu quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi phù hợp với quyền lợi của đa số, thì mớicó thể thực hiện việc điều khiển công việc quốc gia thực sự theo đúng nguyện vọng của đa số…</small>

15

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

đề lên thành pháp luật, cái ý chí mà nội dung là do những điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ơng quyết định”.

<i>Về mặt hình thức</i>

Hai kiểu nhà nước pháp quyền đều phải thừa nhận phương thức tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước do pháp luật quy định. Tuy nhiên, bản chất và nội dung pháp luật về tổ chức, xây dựng và vận hành bộ máy của hai nhà nước đó có nhiều điểm khác nhau. Cơ bản và rõ nhất, chính là sự khác nhau trong các quy phạm của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức, cơ cấu nhân và việc xây dựng, vận hành của bộ máy quyền lực nhà nước như: Quốc hội và Nghị viện, Tổng thống và Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Tịa án, Tịa án Hiến pháp,… Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thừa nhận tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, do dân bầu ra các cơ quan quyền lực (Quốc hội, Chính phủ,…) và chỉ có nhân dân trực tiếp hoặc thơng qua các đại biểu của mình là chủ thể duy nhất có quyền tuyên bố chấm dứt hoạt động của Quốc hội, Chính phủ hoặc tổ chức ra Quốc hội và Chính phủ nhiệm kì mới. Trong khi đó, Hiến pháp và pháp luật lại thừa nhận quyền lực của cá nhân Tổng thống hoặc cá nhân Thủ tướng có quyền giải tán Nghị viện (Quốc hội) hoặc giải tán Chính phủ,…

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhà nước và cơng dân đều phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, vì pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí nguyện vọng của tồn thể nhân dân. Vì vậy, pháp luật xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động . Trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước và công dân cũng phải thừa nhận tính tối cao của pháp luật, nhưng pháp luật tư sản khơng phải là pháp luật của tồn dân, khơng thể hiện chính xác và đầy đủ ý chí và nguyện vọng của toàn dân mà chỉ phản ánh ý chí, nguyện vọng của một bộ phận nhân dân, đó là những người giàu, là giai cấp tư sản. Nói cách khác, luật pháp của Nhà nước pháp quyền tư sản chỉ bảo vệ lợi ích của giai cấp tư sản và gạt ra ngoài lề quyền lợi của người lao động – những người bị áp bức bóc lột

Tư tưởng “tam quyền phân lập ” đã trở thành một trong những nội dung cơ bản<small>13</small>

của nhà nước pháp quyền tư sản. Đó là các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp hoạt động độc lập với nhau: quyền lập pháp giao cho nghị viện, quyền hành pháp giao cho chính phủ, quyền tư pháp giao cho tịa án; nhằm đảm bảo khơng có trường hợp

<small>13 là việc quyền lực của nhà nước được phân chia cho nhiều cơ quan khác nhau</small>

16

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

một cơ quan đứng lên hoặc nắm trọn cả 3 quyền. Còn nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thay vì có sự đối trọng các loại quyền lực như học thuyết “Tam quyền phân lập”mà coi quyền lực là thống nhất và thuộc về nhân dân; trong đó có sự phân công phối hợp để thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước thống nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Ví dụ: Hiến pháp 2013 của Việt Nam đã nêu rõ từng loại cơ quan nắm từng loại quyền lực cụ thể như theo Điều 69, Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp; Theo Điều 94, Chính phủ là cơ quan thực hiện quyền hành pháp; Theo Khoản 1 Điều 102, Tòa án thực hiện quyền tư pháp. Như vậy, các loại quyền lực được quy định cụ thể cho từng cơ quan nhà nước, đảm bảo sự thơng suốt, thống nhất và có sự phối hợp nhịp nhàng, mang lại hiệu quả cao. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất giai cấp cơng nhân, nhà nước là cơng cụ duy trì quyền lực của đa số nhân dân lao động, thực hiện dân chủ với nhân dân và chuyên chính đối với kẻ thù xã hội chủ nghĩa. Trong khi đó, nhà nước pháp quyền tư sản dựa trên cơ sở kinh tế là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và mang bản chất là giai cấp tư sản, nhà nước là công cụ bạo lực của giai cấp thống trị, và đó là những người giàu chiếm thiểu số trong xã hội – giai cấp tư sản. Bên cạnh sự khác nhau về giai cấp, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa công nhận các quy phạm pháp luật khi nó được xác lập và thơng qua theo một trình tự và thủ tục nhất định; trong khi đó, Nhà nước pháp quyền tư sản thường coi “án lệ” hoặc “tập quán” như một loại quy phạm pháp<small>14</small>

luật “bất thành văn”

4.2 Liên hệ về phát huy vai trò của nhà nước pháp quyền

Qua nhiều năm đổi mới, cùng với những thành tựu về kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại... việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN cũng đã đạt được những thành tựu quan trọng, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới - một Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cụ thể là:

<i>4.2.1 Những kết quả đạt được</i>

Trong việc thực hiện vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước

<small>14 Được sử dụng thay thế cho thông luật, là luật dựa trên tiền lệ, tức là các quyết định tư pháp từ các vụ án trướcđó, chứ khơng phải luật dựa trên hiến pháp, đạo luật hoặc quy định</small>

17

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Có thể nói, việc thay đổi mơ hình kinh tế đã làm thay đổi vai trị, vị trí và chức năng của Nhà nước nói chung, của bộ máy nhà nước nói riêng trong các mối quan hệ với đời sống kinh tế của đất nước. Các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ máy nhà nước đã dần được cơ cấu lại theo hướng mở rộng xã hội hóa, tăng cường vai trò, trách nhiệm của cộng đồng, Nhà nước chỉ đảm nhiệm những công việc thực sự cần thiết để đảm bảo lợi ích chung của tồn xã hội, vì sự phát triển của tồn xã hội hoặc những gì mà mỗi cá nhân cơng dân khơng thể tự mình giải quyết nếu thiếu sự can thiệp, điều tiết của Nhà nước. Trong mối quan hệ với công dân, bộ máy nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước đang dần chuyển từ tư duy lãnh đạo, quyền uy - phục tùng sang tư duy về nhà nước phục vụ, cán bộ, cơng chức có nghĩa vụ, trách nhiệm phục vụ nhân dân, thực sự trở thành “công bộc” của nhân dân.<small>15</small>

Chính những thay đổi trong tư duy về vai trò, chức năng của Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức trên đây đã góp phần đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của q trình đổi mới đất nước. Trong lĩnh vực kinh tế, đã phân định rõ nhiệm vụ quản lý, định hướng của Nhà nước với vai trò sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, thành phần kinh tế. Nhà nước không can thiệp mà tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh theo cơ chế thị trường, đồng thời kiểm soát chặt chẽ và xử lý các vi phạm pháp luật trong hoạt động kinh tế, bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Trong lĩnh vực xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ và môi trường, với việc phát huy nhân tố con người, coi con người là trung tâm của sự phát triển, Nhà nước đã xây dựng và thực hiện chính sách về các lĩnh vực này phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Trong lĩnh vực đối ngoại, nước ta tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với các nước trên thế giới. Đồng thời, mở rộng quan hệ hữu

<small>15 Làm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh về người “cơng bộc của dân”</small>

18

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

nghị và hợp tác với các nước theo ngun tắc bình đẳng, cùng có lợi, cùng tồn tại hịa bình, tơn trọng độc lập, chủ quyền, tồn vẹn lãnh thổ của nhau, bảo đảm ổn định và phát triển.

<i>Về tổ chức bộ máy nhà nước:</i>

Quốc hội với tư cách là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của Nhà nước, đã trở thành yếu tố cơ bản của Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, yếu tố quy định mối quan hệ quyền lực và pháp luật, yếu tố bảo đảm để ý chí của nhân dân trở thành ý chí của Nhà nước, thành các quy phạm pháp luật có hiệu lực cao là Hiến pháp và luật. Quốc hội được giao quyền lập hiến, lập pháp, giám sát tối cao và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước. Trong đó, lập pháp là một trong những chức năng cơ bản nhất của Quốc hội, nhằm thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành các quy định của Nhà nước để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động này ngày càng được đổi mới, tăng cường cả về số lượng lẫn chất lượng. Từ sau đổi mới đến nay, nước ta đã có Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và Hiến pháp năm 2013; Quốc hội đã thông qua hơn 300 luật, bộ luật và nhiều nghị quyết có chứa quy phạm pháp luật, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua 186 pháp lệnh đã tạo nên cơ sở pháp lý quan trọng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội đã đạt được những kết quả đáng kể, góp phần bảo đảm cho bộ máy nhà nước và các cơ quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ của mình, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm Hiến pháp, pháp luật được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Vai trò của Quốc hội còn được thể hiện thông qua việc thực hiện chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như quyết định kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách nhà nước, phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán ngân sách nhà nước; quyết định chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, chính sách dân tộc, chính sách tơn giáo của Nhà nước; điều chỉnh địa giới hành chính và thành lập các cơ quan cấp cao nhà nước; bầu, phê chuẩn các chức danh cấp cao trong bộ máy nhà nước và quyết định các chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại của nước ta... Có thể nói, hoạt động của Quốc hội ngày càng được đổi mới, dân chủ, hiệu quả hơn. Quốc hội ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu và mong mỏi của các tầng lớp nhân dân.

19

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa XHCN Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Hiến pháp năm 1992 đánh dấu một bước tiến quan trọng do việc thay đổi chế định người đứng đầu Nhà nước từ cơ chế Chủ tịch tập thể của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (Hội đồng Nhà nước) sang cơ chế người đứng đầu Nhà nước là cá nhân, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại , có thẩm quyền<small>16</small>

liên quan đến việc thực hiện cả ba quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Trên cơ sở các nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật có liên quan, Chủ tịch nước trong các nhiệm kỳ qua đã phát huy tốt vị trí, vai trị của mình trên các lĩnh vực, đóng góp quan trọng vào thành tựu chung của đất nước. Trong công tác đối nội, Chủ tịch nước đã giữ được mối quan hệ chặt chẽ với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể xã hội, thống lĩnh lực lượng vũ trang, là Chủ tịch Hội đồng quốc phịng và an ninh. Trong cơng tác đối ngoại, Chủ tịch nước đã thể hiện rõ vai trò của người đại diện cho quốc gia, góp phần thúc đẩy mối quan hệ hợp tác về nhiều mặt giữa Việt Nam với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Chính phủ đã có một bước đổi mới căn bản cả về tổ chức và phương thức hoạt động, từ Chính phủ tập thể (Hội đồng Chính phủ trong Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Bộ trưởng trong Hiến pháp năm 1980) sang kết hợp giữa chế độ trách nhiệm của tập thể Chính phủ và vai trị cá nhân của Thủ tướng Chính phủ. Hiến pháp 2013 đã xác định Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền hành pháp, là cơ quan chấp hành của Quốc hội.

Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, Chính phủ tập trung và chủ động hơn trong việc xây dựng và điều hành chính sách, tổ chức thi hành pháp luật và lãnh đạo hệ thống hành chính quốc gia; thực hiện cải cách hành chính theo hướng xây dựng nền hành chính phục vụ. Vì vậy, trong thời gian qua, chức năng của Chính phủ và các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước từng bước được đổi mới, điều chỉnh, bảo đảm sự phù hợp với yêu cầu quản lý nhà nước trong điều kiện cơ chế kinh tế mới và chủ động hội nhập kinh tế và mở rộng hợp tác quốc tế. Chính phủ tập trung nhiều hơn vào thực hiện chức năng quản lý nhà nước, điều hành vĩ mô trên các lĩnh vực đời sống kinh tế -xã hội theo pháp luật trong phạm vi cả nước. Bên cạnh đó, cơ cấu tổ chức bộ máy

<small>16 Điều 1 chương 7 Hiến Pháp 1992</small>

20

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Chính phủ và các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến địa phương luôn được cải tiến, từng bước khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, nhiều tầng nấc trung gian. Phương thức hoạt động của Chính phủ có nhiều đổi mới quan trọng, cơ chế quản lý bằng mệnh lệnh hành chính được thay thế bởi cơ chế quản lý bằng pháp luật. Thủ tục hành chính trong giải quyết cơng việc của cá nhân, tổ chức được chú trọng cải cách và được xác định là khâu đột phá trong cải cách hành chính; vị trí và vai trị của cơ quan hành chính nhà nước trong mối quan hệ với người dân và doanh nghiệp đã được đổi mới theo hướng phục vụ và quản lý. Có thể nói, hoạt động của Chính phủ, các bộ ngày càng chuyên nghiệp hơn, công khai, minh bạch hơn, đáp ứng tốt hơn các nhiệm vụ quản lý và điều hành đất nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa , góp phần đưa đất nước vượt qua những giai đoạn khó khăn, vượt qua khủng hoảng kinh tế để đạt được nhiều thành công trong phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn vừa qua.

Tòa án nhân dân được xác định là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án trong thời gian qua đang được nghiên cứu để đổi mới, cải cách hơn nữa theo hướng “tổ chức hệ thống Tịa án theo thẩm quyền xét xử, khơng phụ thuộc vào đơn vị hành chính” , mở rộng thẩm quyền xét xử của Toà án, đặc biệt là thẩm quyền xét xử các vụ án hành chính, qua đó, tăng cường khả năng kiểm sốt của tư pháp đối với hệ thống cơ quan hành chính. Việc xét xử các vụ án hình sự, giải quyết các vụ việc dân sự và các vụ án hành chính của Tòa án bảo đảm đúng pháp luật, cơ bản bảo đảm đúng người, đúng tội trong vụ án hình sự và bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích chính đáng của các bên trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính; yêu cầu tranh tụng đã bước đầu được thực hiện trong hoạt động tố tụng, qua đó các quyền con người, quyền công dân ngày càng được đề cao, tôn trọng và đảm bảo. Trách nhiệm của Tòa án, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng được xác định rõ ràng, cụ thể hơn. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán tiếp tục được thực hiện có kết quả. Những<small>17</small>

kết quả này đã góp phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN.

<small>17 Đọc và tham khảo: Tổ chức tòa án nhân dân theo cấp xét xử phải đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp</small>

21

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Viện kiểm sát nhân dân với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ngày càng được đổi mới cả về nhận thức và tổ chức thực hiện. Kết quả thực hiện chức năng của Viện kiểm sát đã góp phần bảo đảm các mục tiêu, yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, góp phần vào việc hình thành và thực hiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tránh sự lạm quyền, xâm phạm các quyền dân chủ của công dân, bảo đảm sự tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án, vụ việc.

Kiểm toán nhà nước với địa vị là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, là công cụ phục vụ cho sự minh bạch về tài chính ngân sách thơng qua việc cơng khai kết quả kiểm tốn báo cáo tài chính của các tổ chức, các cấp ngân sách. Hoạt động kiểm toán nhà nước là cơ sở cho việc giám sát của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, của các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và của công dân đối với cơng tác quản lý tài chính ngân sách, đặc biệt là các nguồn lực tài chính nhà nước. Thơng qua hoạt động kiểm tốn, có thế phát hiện những hiện tượng, những dấu hiệu tham ơ, lãng phí, khơng tn thủ pháp luật trong quản lý kinh tế, tài chính, sử dụng kém hiệu quả các nguồn lực tài chính, tài sản nhà nước để có những biện pháp phịng ngừa, ngăn chặn, xử lý kịp thời các hành vi vi phạm. Trong những năm vừa qua, Kiểm toán nhà nước đã góp phần tích cực vào việc phát hiện, xử lý vi phạm đối với nhiều vụ việc xảy ra thất thoát, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản, quản lý đất đai, thu - chi ngân sách, quản lý tài sản công và hệ thống ngân hàng thương mại... Chính vì vậy, để nâng cao vị trí, vai trị của cơ quan này, Hiến pháp năm 2013 đã có một điều quy định về chức năng, nhiệm vụ của Kiểm toán nhà nước.

Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân là những cơ quan chính quyền địa phương. Qua quá trình đổi mới, thể chế về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ngày càng được chú trọng. Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân (năm 2003), các luật chuyên ngành đã được xây dựng theo tinh thần kiện toàn tổ chức, tăng cường chức năng giám sát của Hội đồng nhân dân; phân định thẩm quyền giữa Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân cùng cấp, giữa mỗi cấp chính quyền địa phương tỉnh - huyện - xã, giữa tập thể Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân. Vì vậy, trong thời gian qua, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp đã từng

22

</div>

×