Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Báo cáo bài tập thảo luận tuần thứ sáu – quy định về di chúc môn học những quy định chung về dân sự, tài sản, thừa kế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (314.41 KB, 36 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINHKHOA LUẬT HÌNH SỰ</b>

<b>BÁO CÁO BÀI TẬP THẢO LUẬN TUẦN THỨ SÁU –QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC</b>

<b>Môn học: Những quy định chung về dân sự, tài sản, thừa kếGiảng viên: ThS. Đặng Lê Phương Uyên</b>

<b>Nhóm: 6</b>

Nguyễn Thị Tuyết NhiHS48A22353801013154

Phạm Nguyễn Huỳnh NhưHS48A22353801013163

<b>Thành phố Hồ Chí Minh – Năm 2024</b>

<b>MỤC LỤC</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<i>Nội dung...Trang</i>

<b>MỤC LỤC...1VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC...4</b>

<b>Câu 1.1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý?</b>

Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...6

<b>Câu 1.2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì</b>

những người đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...8

<b>Câu 1.3: Di chúc của ơng Này có là di chúc do ơng Này tự viết tay khơng?</b>

Vì sao?...9

<b>Câu 1.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án</b>

liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay...9

<b>Câu 1.5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?...10Câu 1.6: Cụ Hựu có biết chữ không? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho</b>

câu trả lời?...10

<b>Câu 1.7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào</b>

để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?...10

<b>Câu 1.8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của</b>

ông Hựu?...11

<b>Câu 1.9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc</b>

của ông Hựu?...11

<b>Câu 1.10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức</b>

khơng? Vì sao?...12

<b>Câu 1.11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong Bộ luật Dân sự liên</b>

quan đến hình thức di chúc của người không biết chữ...13

<b>VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC...15Câu 2.1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số</b>

359 cho câu trả lời?...16

<b>Câu 2.2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định</b>

đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?...17

<b>Câu 2.3: Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết</b>

định số 359 cho câu trả lời?...17

<b>Câu 2.4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc</b>

thẩm...17

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>Câu 2.5: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị</b>

pháp lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...18

<b>Câu 2.6: Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ</b>

Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý khơng? Vì sao?...19

<b>Câu 2.7: Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C</b>

và cụ D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?...21

<b>Câu 2.8: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác</b>

định di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?...22

<b>Câu 2.9: Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo</b>

hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm...23

<b>VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG...24Câu 3.1: Đoạn nào của Bản án số 14 cho thấy di chúc có tranh chấp là di</b>

chúc chung của vợ chồng?...24

<b>Câu 3.2: Theo Tịa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp</b>

dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 không? Đoạn nào của Bản án số 14 cho câu trả lời?...25

<b>Câu 3.3: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án</b>

về di chúc chung của vợ chồng trong mối quan hệ với Bộ luật Dân sự năm 2015...25

<b>VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG...27Câu 4.1: Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp</b>

lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...27

<b>Câu 4.2: Đối với phần đất có diện tích 4.582,3m</b><small>2</small>, Tịa án có coi đây là di sản dùng vào việc thờ cúng hay không? Đoạn nào của Bản án số 222 cho câu trả lời?...28

<b>Câu 4.3: Các điều kiện để xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng có được</b>

thỏa mãn hay không trong vụ việc đang nghiên cứu tại Bản án số 222? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...29

<b>Câu 4.4: Tòa án không chấp nhận yêu cầu chia phần đất có diện tích</b>

4.582,3m<small>2</small> có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...30

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Câu 4.5: Tịa án xác định phần đất có diện tích 4.582,3m</b><small>2</small> trở thành tài sản chung của những người thừa kế có thuyết phục khơng? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...30

<b>Câu 4.6: Tòa án xác định “mọi giao dịch chuyển nhượng, thế chấp… liên</b>

quan đến phần đất này phải có sự đồng ý của các đồng thừa kế” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời...31

<b>Câu 4.7: Tịa án xác định “Nếu bà L khơng thực hiện tốt trách nhiệm thờ</b>

cúng thì các đồng thừa kế có thể giao cho người khác quản lý, sử dụng phần đất này để thờ cúng” có thuyết phục không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời ...32

<b>Câu 4.8: Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng</b>

trong Bộ luật Dân sự...32

<b>DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO, NGHIÊN CỨU...34</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Bà Trọng và ông Này là vợ chồng, kết hôn từ năm 1970 và được Tịa nhận định là hơn nhân hợp pháp. Trong thời gian đó, ơng Này có quan hệ trai gái với bà Nguyễn Thị Tâm sinh ra ông Hiếu, Việt, Trung nên gia đình bắt đầu mâu thuẫn. Từ năm 1993, bà Trọng làm ăn, sinh sống tại nhà con là Nguyễn Thị Thu Sương ở Ealâm, sơng Hinh. Cịn ơng Này sống chung với ơng Hiếu, ông Trung, ông Việt, làm nghề gara nương tựa nhau, bà Trọng chỉ thỉnh thoảng đến chơi rồi về chứ không ở chung nhà, tuy nhiên bà Trọng vẫn phụ nuôi con riêng của chồng học chữ, học nghề và tạo điều kiện mở tiệm tại nhà làm ăn cho đến bây giờ.

Ngày 16/11/2008, ông Này qua đời. Trước khi qua đời, vào ngày 19/12/2007, ơng Này có lập giấy giao quyền thừa kế toàn bộ nhà đất thuộc quyền sở hữu chung của ông với bà Trọng cho Nguyễn Thanh hiếu là con riêng của ông Này, được cha, em gái, em trai ông Này điểm chỉ và ký tên làm chứng. Bà Trọng đuổi cả 3 anh em Trung, Hiếu, Việt ra khỏi nhà và không cho hành nghề vì khi u cầu ơng Hùng (con riêng của bà Tâm) đưa lại sổ đỏ thì Hiếu có thái độ hỗn láo. Ngồi ra, bà cịn đề nghị bác bỏ di chúc vì khơng hợp pháp, phải chia di sản theo pháp luật vì bà cho rằng ơng Này đột ngột qua đời nên khơng có di chúc viết sẵn để giao lô đất cho Hiếu, bà xin nhận nhà, đất và có trách nhiệm thối lại chênh lệch cho các thừa kế. Vì thế nên ơng Hiếu đâm đơn kiện bà Trọng, đề nghị Tòa giải quyết theo ý chí của ơng Này để ơng Hiếu có chỗ sinh sống và hành nghề, ơng Hiếu xin nhận ½ lơ đất mà ơng Này đã có giấy giao lại cho ông Hiếu sử dụng thuộc tờ bản đồ số 08, thửa số 83 do UBND huyện sông Hinh cấp ngày 2/5/2007, xin nhận nhà, thối lại chênh lệch tài sản cho bà Trọng và rút yêu cầu chia lô đất ở Bn Bai, xã Ealâm vì chưa đủ căn cứ.

Cuối cùng, Tòa án nhân dân tỉnh Phú Yên đã quyết định: bà Đặng Thị Trọng được quyền sở hữu tồn bộ tài sản, nhà và đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 677357, diện tích 255m<small>2</small> thuộc tờ bản đồ số 08, thửa số 83 do UBND huyện sơng Hinh cấp ngày 2/5/2007 có tứ cận: đông giáp đường Lê Lợi, tây giáp

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

rãnh thoát nước và tường rào trường Tiểu học Hai Riêng số 1, nam giáp đất ông Võ Kim Thành, bắc giáp đất ông Nguyễn Việt Nhi, tọa lạc tại 27 Lê Lợi, khu phố 6, thị trấn Hai Riêng, sông Hinh do ông Này và bà Trọng đứng tên; bà Trọng phải thanh tốn cho ơng Hiếu 78.795.000đ là phần thừa kế được nhận theo di chúc của ông Này; ông Hiếu, Trung, Việt có nghĩa vụ phải chuyển toàn bộ phụ tùng, đồ nghề sửa chữa xe máy khỏi nhà 27 Lê Lợi, thị trấn Hai Riêng, sơng Hinh; nếu chưa thi hành xong khoản tiền nói trên thì hàng tháng bà Trọng phải chịu thêm lãi suất theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

<i><b>Tóm tắt Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòadân sự Tòa án nhân dân tối cao.</b></i>

Nguyên đơn: ông Đỗ Văn Quang. Bị đơn: bà Hồng Thị Ngâm.

Ơng Quang là con của cụ Đỗ Thị Hựu. Cụ Hựu kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng và có 2 người con chung là bà Đỗ Thị Lựu và ông Đỗ Văn Hồng (đã hi sinh trong kháng chiến chống Mỹ năm 1968, có vợ là bà Hồng Thị Ngâm và có con chung là chị Hạnh). Năm 1950, cụ Hằng chết không để lại di chúc. Đến năm 1954, cụ Hựu chung sống với cụ Lương Văn Sách có 1 người con là ơng Quang.

Cụ Hựu chết ngày 6/2/2005, di sản cụ để lại gồm thửa đất 56 diện tích 210m<small>2</small>, thửa đất 54 diện tích 462m<small>2</small> và thửa đất 57 diện tích 526m<small>2</small> tại thôn Lê Xá, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội, trên thửa đất 57 có 1 ngơi nhà cấp 4 năm gian và 1 giếng nước, nguồn gốc nhà và đất này là của cụ Hằng và cụ Hựu được thừa hưởng của tổ tiên cụ Hằng để lại.

Bà Ngâm là người đang quản lý số di sản nêu trên. Cụ thể, năm 2006, bà đã chuyển nhượng 80m<small>2</small> thuộc thửa 54 cho ông Phạm Văn Xanh để lấy tiền san lấp ao, vườn bằng phẳng, diện tích đất thuộc thửa 56 và 57 có rộng hơn so với trước đây vì bà có tơn tạo và lấn bờ rộng thêm.

Khi kê khai đăng ký quyền sử dụng đất, bà Ngâm đã xuất trình 1 bản di chúc của cụ Hựu lập năm 1998 với nội dung cụ Hựu để lại tài sản nhà và đất cho bà Ngâm và bà Lựu. Ông Quang khởi kiện yêu cầu hủy di chúc nêu trên của cụ Hựu vì ơng cho rằng bản di chúc này không hợp pháp và yêu cầu chia thừa kế theo pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

luật. Ông Quang xin được nhận một phần đất để sử dụng, đối với diện tích đất mà bà Ngâm đã chuyển nhượng cho ơng Xanh thì ơng Quang cũng đưa vào chia thừa kế nhưng không yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng đất giữa bà Ngâm và ông Xanh, phần đất này sẽ thuộc vào phần của bà Ngâm và chị Hạnh khi được chia thừa kế. Bà Ngâm thì khơng đồng ý chia thừa kế theo u cầu của ông Quang, nếu phải chia thừa kế, bà u cầu Tịa án cơng nhận di chúc của cụ Hựu, phải tính thêm cho bà cơng sức bảo quản, duy trì, quản lý di sản cũng như cơng sức chăm sóc khi cụ Hựu ốm đau và mai táng khi cụ Hựu chết.

Tòa án sơ thẩm đã quyết định: chấp nhận yêu cầu của ông Quang về việc mở thừa kế di sản của cụ Hựu, hủy một phần di chúc của cụ phán quyết quá quyền của cụ là tài sản chung của dòng họ Đỗ, bác yêu cầu chia di sản cụ Hựu để lại theo pháp luật của ơng Quang. Tịa án phúc thẩm đã quyết định: bác yêu cầu kháng cáo của ông Quang, giữ nguyên bản án sơ thẩm và bác tất cả các yêu cầu khác của đương sự. Cuối cùng, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định: hủy cả bản án sơ thẩm và phúc thẩm, giao hồ sơ cho Tòa án sơ thẩm xét xử lại.

<i><b>Câu 1.1: Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháplý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b></i>

<b>Căn cứ Khoản 1, Khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015: </b>

<i>“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:</i>

<i>a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừadối, đe doạ, cưỡng ép;</i>

<i>b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đứcxã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.</i>

<i>4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi làhợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.</i>

<b>Căn cứ Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về nội dung của di</b>

<i>“1. Di chúc gồm các nội dung chủ yếu sau: a) Ngày, tháng, năm lập di chúc; </i>

<i>b) Họ, tên và nơi cư trú của người lập di chúc; </i>

<i>c) Họ, tên người, cơ quan, tổ chức được hưởng di sản; d) Di sản để lại và nơi có di sản. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i>2. Ngồi các nội dung quy định tại khoản 1 Điều này, di chúc có thể có cácnội dung khác. </i>

<i>3. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng ký hiệu, nếu di chúc gồm nhiềutrang thì mỗi trang phải được ghi số thứ tự và có chữ ký hoặc điểm chỉ của ngườilập di chúc. </i>

<i>Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa, sửa chữa thì người tự viết di chúc hoặcngười làm chứng di chúc phải ký tên bên cạnh chỗ tẩy xóa, sửa chữa”.</i>

<b>Căn cứ Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về người làm chứng</b>

cho việc lập di chúc:

<i>“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sauđây:</i>

<i>1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. 2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc. </i>

<i>3. Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người có khókhăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”.</i>

<i><b>Căn cứ Điều 633 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Người lập di chúc phải tự viết</b></i>

<i>và ký vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứngphải tn theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này”.</i>

Đối với hình thức di chúc do người để lại di sản lập bằng chữ viết tay, người lập di chúc phải có năng lực lập di chúc và phải minh mẫn, sáng suốt vào thời điểm lập di chúc, người lập di chúc phải là người bình thường, khơng bị khiếm khuyết thể chất liên quan đến chức năng đọc, viết, nghe nói, ký tên, điểm chỉ (như câm, điếc, mù, cụt hai tay, mù chữ,…). Di chúc phải do chính người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay và tự mình ký tên, điểm chỉ vào tờ di chúc. Người lập di chúc không được đánh máy chữ, in vi tính hoặc bằng các cách thức tương tự. Một di chúc được lập ra bằng chữ viết tay mà không phải do người lập di chúc trực tiếp viết ra thì khơng được coi là di chúc hợp pháp. Trường hợp người lập di chúc

<b>đánh máy hoặc nhờ người khác viết hộ thì phải tuân theo quy định tại Điều 634 Bộ</b>

<i><b>luật Dân sự năm 2015: “Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản di</b></i>

<i>chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản dichúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải kýhoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những ngườilàm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<i>Việc lập di chúc bằng văn bản có người làm chứng phải tuân theo quy định tạiĐiều 631 và Điều 632 của Bộ luật này”. Riêng những trường hợp đặc biệt như di</i>

chúc do chính người lập di chúc viết ra, nhưng viết bằng chân (hoặc các bộ phận khác của cơ thể có giữ được bút để viết chữ, ví dụ: cắn bút bằng miệng, bằng răng để viết, kẹp cẳng hai tay…), thì về ngun tắc là khơng được công nhận, trừ khi người lập di chúc viết chữ bằng cách này đã thuần thục; chữ viết, phong cách viết đã theo một quy luật ổn định. Trên thực tế, có nhiều cá nhân đã quen viết chữ bằng chân, chữ viết đã trở nên ổn định, thuần thục và chữ viết có quy luật rõ ràng, có phong cách riêng thì có thể được xem xét, cơng nhận. Các trường hợp viết chữ bằng các bộ phận khác của cơ thể một cách ngẫu nhiên, không phải là thói quen và chưa thuần thục thì áp dụng quy định chung là khơng cơng nhận.

Nhìn chung, để một bản di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý thì cần tuân thủ

<b>trước nhất về mặt nội dung theo quy định tại Điều 631 Bộ luật Dân sự năm 2015</b>

vì di chúc có đặc điểm rất trọng hình thức. Người lập di chúc phải tuân theo các

<b>quy định tại Khoản 1, Khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng như các</b>

quy định khác về việc viết và xác nhận chữ viết trong bản di chúc, đối với vấn đề

<b>người làm chứng thì phải tuân theo các quy định tại Điều 632, Điều 633 Bộ luật</b>

<b>Dân sự năm 2015.</b>

<i><b>Câu 1.2: Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làmchứng thì những người đã làm chứng di chúc của ơng Này có làngười làm chứng hợp pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.</b></i>

Những người đã làm chứng di chúc của ông Này bao gồm cha, em gái và em trai. Nếu di chúc của ơng Này là di chúc phải có người làm chứng thì cha của ơng Này khơng phải là người làm chứng hợp pháp nhưng em gái và em trai của ông Này là những người làm chứng hợp pháp.

<b>Căn cứ Điểm a, Điểm b Khoản 1, Khoản 3 Điều 651 Bộ luật Dân sự năm</b>

<b>2015 (tương ứng với Điểm a, Điểm b Khoản 1, Khoản 3 Điều 676 Bộ luật Dânsự năm 2005):</b>

<i>1. Những người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự sau đây:a) Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi,con đẻ, con nuôi của người chết;</i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<i>b) Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ôngnội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.</i>

<i>3. Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu khơng cịnai ở hàng thừa kế trước do đã chết, khơng có quyền hưởng di sản, bị truất quyềnhưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản”.</i>

<b>Căn cứ Khoản 1, Khoản 2 Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng</b>

<b>với Khoản 1, Khoản 2 Điều 654 Bộ luật Dân sự năm 2005) quy định về người</b>

làm chứng cho việc lập di chúc như sau:

<i>“Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc, trừ những người sauđây:</i>

<i>1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc.2. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung di chúc”.</i>

Dựa trên cơ sở pháp lý nêu trên, cha của ông Này là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất nên không thể là người làm chứng cho việc lập di

<b>chúc theo quy định tại Khoản 1 Điều 632 Bộ luật Dân sự năm 2015. Đối với em</b>

gái và em trai của ơng Này thì thuộc hàng thừa kế thứ hai thì sẽ khơng được xem là người thừa kế theo di chúc vì cha của ơng Này vẫn còn sống nên em gái và em trai vẫn được xem là người làm chứng hợp pháp cho việc lập di chúc của ông Này.

<i><b>Câu 1.3: Di chúc của ơng Này có là di chúc do ơng Này tự viết taykhơng? Vì sao?</b></i>

Di chúc của ơng Này là di chúc do ơng Này tự viết tay.

Vì dẫn chứng trong Bản án số 83 ghi rõ: “Xét thấy, giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết không được chính quyền địa phương cơng chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ơng này cịn minh mẫn, sáng suốt không bị lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép và có nhiều người làm chứng nên được coi là hợp pháp”.

<i><b>Câu 1.4: Cho biết suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên củaTịa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là dichúc do ông Này tự viết tay.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến hình thức di chúc của ông Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay là hợp lý và thuyết phục.

<b>Căn cứ Khoản 1, Khoản 4 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng</b>

<b>với Khoản 1, Khoản 4 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005): </b>

<i>“1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:</i>

<i>a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừadối, đe doạ, cưỡng ép;</i>

<i>b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo đứcxã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.</i>

<i>4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi làhợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này”.</i>

Tuy di chúc của ơng Này khơng được chính quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ông Này cịn minh mẫn, sáng suốt khơng bị

<b>lừa dối, đe doạ hoặc cưỡng ép nên phù hợp với quy định của pháp luật tại Khoản 1</b>

<b>Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng với Khoản 1 Điều 652 Bộ luậtDân sự năm 2005). Vì thế, việc Tịa án công nhận di chúc của ông Này là di chúc</b>

hợp pháp là hợp lý và đúng đắn.

<i><b>Câu 1.5: Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?</b></i>

Di chúc của cụ Hựu đã được lập theo các trình tự sau:

Ngày 25/11/2998, cụ Hưu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng.

Ngày 04/01/1999, bà Lựu mang di chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là trưởng thôn) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận.

<i><b>Câu 1.6: Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số874 cho câu trả lời?</b></i>

Cụ Hựu là người không biết chữ.

Dẫn chứng trong Quyết định số 874 cho thấy câu trả lời là: “Đối với di chúc ngày 25-11-1998 của cụ Hựu do bà Ngâm xuất trình, bà Ngâm, bà Đỗ Thị Lựu và ơng Vũ khai di chúc do cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ của ông Vũ) ký tên làm chứng, sau đó ngày 04-01-1999 bà

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Lựu mang di chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận. Ông Quang xác định cụ Hựu là người không biết chữ”.

<i><b>Câu 1.7: Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điềukiện nào để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?</b></i>

<b>Căn cứ Khoản 3 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng với</b>

<i><b>Khoản 3 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005): “Di chúc của người bị hạn chế về</b></i>

<i>thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành vănbản và có cơng chứng hoặc chứng thực”.</i>

<b>Căn cứ Điều 634 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng với Điều 656 Bộ</b>

<i><b>luật Dân sự năm 2005): “Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản</b></i>

<i>di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bảndi chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải kýhoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những ngườilàm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản dichúc”.</i>

Dựa trên cơ sở pháp lý nêu trên, di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện sau đây để có hình thức phù hợp với quy định của pháp luật: di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản; q trình lập di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng; di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực; người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

<i><b>Câu 1.8: Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúccủa ông Hựu?</b></i>

Di chúc của ông Hựu đã đáp ứng được hai điều kiện là di chúc phải được người làm chứng lập thành văn bản và quá trình lập di chúc phải có ít nhất hai người làm chứng.

Với điều kiện đầu tiên, ông Hựu đã đọc cho ông Vũ viết di chúc, điều này chứng tỏ di chúc đã được người làm chứng là ông Vũ lập thành văn bản.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Với điều kiện thứ hai, ông Vũ và bà Q đã có mặt trong q trình lập di chúc, điều này chứng tỏ việc lập di chúc của ơng Hựu đã có ít nhất hai người làm chứng.

<i><b>Câu 1.9: Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối vớidi chúc của ông Hựu?</b></i>

Di chúc của ông Hựu đã không đáp ứng được ba điều kiện là di chúc phải được công chứng hoặc chứng thực; người lập di chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào bản di chúc.

Với điều kiện đầu tiên, Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm mới chỉ xác nhận chữ ký của trưởng thôn là ông Thưởng chứ không xác định lại nội dung của bản di chúc, điều này chứng tỏ di chúc của ông Hựu chưa được công chứng hoặc chứng thực.

Với điều kiện thứ hai, việc giám định dấu vân tay của cụ Hựu trên bản di chúc thông qua Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát đã kết luận “dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định” nên khơng có căn cứ xác định di chúc đã được người lập nên điểm chỉ theo đúng quy định hay chưa, và cũng chứng tỏ không thể xác minh được là ơng Hựu có thực sự ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng hay không.

Với điều kiện cuối cùng, ông Vũ và bà Quý đã ký vào bản di chúc nhưng ông Hữu đã điểm chỉ nhưng dấu vân tay lại mờ nên cũng khơng có căn cứ cho thấy những người làm chứng có thực sự đã xác nhận chữ ký và điểm chỉ hay chưa, điều này cũng khiến cho điều kiện những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc không được đảm bảo và khơng có cơ sở xác minh.

<i><b>Câu 1.10: Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện vềhình thức khơng? Vì sao?</b></i>

Theo em, di chúc nêu trên chưa thỏa mãn các điều kiện về hình thức.

Di chúc của cụ Hựu thuộc trường hợp người không biết chữ hoặc hạn chế về thể chất nên điều kiện để di chúc được lập thành văn bản một cách hợp pháp là

<b>phải có cơng chứng, chứng thực qua Khoản 3 Điều 630 Bộ luật Dân sự năm 2015</b>

<i><b>(tương ứng với Khoản 3 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005): “Di chúc của</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<i>người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làmchứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”. Trong đó việc cơng</i>

chứng, chứng thực là quan trọng nhất bởi nó thể hiện tính cơng bằng và khách quan của bản di chúc đối với ý chí của người lập di chúc. Ở di chúc của cụ Hựu, cụ Hựu chỉ đọc cho ông Vũ viết và bà Lựu mang di chúc đến để xin sự xác nhận của trưởng thôn là ông Thưởng và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm, điều này chưa thoả

<b>mãn theo Khoản 2 Điều 636 Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng với Khoản 2</b>

<i><b>Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2005) “Trong trường hợp người lập di chúc không</b></i>

<i>đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc khơng điểm chỉ đượcthì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt côngchứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của ủy ban nhân dân xã,phường, thị trấn. Cơng chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của ủy bannhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập dichúc và người làm chứng”. Như vậy, người làm chứng là ông Vũ và cụ Quý không</i>

ký xác nhận trước người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, đồng thời việc chứng nhận bản di chúc khi đó cũng khơng có mặt người lập di chúc là cụ Hựu và người làm chứng là ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý. Điều này không phù hợp với luật quy định. Mặt khác, kết quả giám định dấu vân tay của cụ Hựu trên bản di chúc cho biết dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để xác định di chúc nêu trên có đúng ý của cụ Hựu hay khơng. Từ các ngun nhân nêu trên, có thể nói bản di chúc của cụ Hựu đã không thoả mãn các điều kiện về hình thức.

<i><b>Câu 1.11: Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong Bộ luật Dân sựliên quan đến hình thức di chúc của người khơng biết chữ.</b></i>

Theo em, các quy định trong Bộ luật Dân sự liên quan đến hình thức di chúc của người khơng biết chữ là tương đối hợp lý. Trường hợp một người muốn lập di chúc nhưng khơng biết chữ thì ngồi việc có cơng chứng hoặc chứng thực thì bản

<b>di chúc này phải được người làm chứng lập thành văn bản theo Khoản 3 Điều 630</b>

<b>Bộ luật Dân sự năm 2015 (tương ứng với Khoản 3 Điều 652 Bộ luật Dân sựnăm 2005). Và cũng theo quy định tại Khoản 2 Điều 636 Bộ luật Dân sự năm2015 (tương ứng với Khoản 2 Điều 658 Bộ luật Dân sự năm 2005) về việc</b>

người khiếm khuyết thể chất liên quan đến chức năng đọc, viết, nghe nói, ký tên, điểm chỉ (như câm, điếc, mù, cụt hai tay, mù chữ,…) lập di chúc thì người làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

chứng của họ khi lập di chúc thành văn bản phải ký xác nhận trước cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Việc chứng nhận bản di chúc của công chứng viên hoặc những người có thẩm quyền chứng thực cũng phải có sự hiện diện của chính bản thân người lập di chúc và người làm chứng chứng kiến. Điều này sẽ tạo nên tính minh bạch cũng như bảo vệ ý chí của người để lại di sản, tránh sự gian dối hoặc sự lợi dụng những khiếm khuyết của người lập di chúc để giả mạo, đe doạ, cưỡng ép đến từ những người đồng thừa kế.

Tuy nhiên, nhìn một cách khái quát hơn, các điều luật quy định tuy chặt chẽ nhưng vẫn khơng thể xóa bỏ trường hợp di chúc được lập ra khơng hồn tồn truyền tải được ý niệm của người chết. Việc phải thông qua nhiều chủ thể để cho ra đời bản di chúc cuối cùng suy cho cùng là khá tốn thời gian, nhân lực. Hơn nữa, các chủ thể này chưa chắc đã nắm được toàn bộ mong muốn của người lập di chúc nên có thể dẫn đến sơ suất. Các nhà làm luật nên cân nhắc đến những hình thức mới cho di chúc của người không biết chữ như dùng băng ghi hình. Việc lắng nghe trực tiếp tâm tư, nguyện vọng của chính người lập di chúc sẽ đảm bảo tính xác thực cũng như tiết kiệm thời gian cho quá trình lập di chúc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC</b>

<i><b>Tóm tắt Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dânsự Tòa án nhân dân tối cao.</b></i>

Nguyên đơn: cụ Lê Thanh Quý.

Bị đơn: ông Nguyễn Hữu Dũng và ông Nguyễn Hữu Lộc.

Cụ Quý và cụ Hương kết hôn năm 1955 và có 12 con chung, tạo lập được bất động sản bao gồm nhà và đất tại số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận. Ngày 06/04/2009, cụ Hương chết có để lại di chúc có nội dung chia toàn bộ căn nhà và đất số 302 cho 5 người con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng và Quảng Thị Kiều, di chúc đã được cơng chứng tại phịng cơng chứng số 4 TP. HCM. Nay cụ Quý khởi kiện yêu cầu chia tài sản chung của vợ chồng cụ ra làm 2 phần, được hưởng ½ giá trị căn nhà bằng hiện vật, <sup>2</sup><sub>3</sub> suất thừa kế theo pháp luật đối với di sản của cụ Hương để lại. Ơng Lộc và Ơng Dũng khơng có ý kiến gì đối với yêu cầu của cụ Quý về phần tài sản chung của 2 cụ. Tuy nhiên, căn nhà hiện nay do hai ông quản lý và sử dụng nên có xin cụ Q được hưởng một phần vì khơng còn chỗ ở khác.

Tòa án sơ thẩm đã quyết định công nhận căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền là tài sản chung của cụ Hương và cụ Quý. Cụ Quý được hưởng ½ căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, ½ giá trị tiền xây dựng nhà, ngồi ra còn được hưởng thừa kế của cụ Hương 18,8m<small>2</small> diện tích đất, giá trị tiền xây dựng nhà 5 người con được đề cập trong di chúc của cụ Hương, với 2 con là Minh Trí và Kiều Nga mỗi người được hưởng 64,3m<small>2</small> đất và giá trị tiền xây dựng nhà của căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền. Cuối cùng, Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao đã quyết định: chấp nhận kháng nghị của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 1162/2010/DS- ST ngày 11/08/2010 của Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về vụ án “Tranh chấp thừa kế” giữa nguyên đơn cụ Lê Thanh Quý với bị đơn ông Nguyễn Hữu Dũng và Nguyễn Hữu Lộc, giao hồ sơ cho Tịa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

<i><b>Tóm tắt Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tịa ánnhân dân cấp cao tại Hà Nội.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

Ngun đơn: ơng Trần Văn Y. Bị đơn: Văn phịng công chứng M.

Cụ D và cụ C kết hôn với nhau từ năm 1957 nhưng không đăng ký kết hôn. Năm 1959, trong thời kỳ hôn nhân giữa cụ D và cụ C, cụ D mua thửa đất ở xứ M của ông Đ, nay là thửa đất số 38 tại khu M. Do cụ C không sinh nở được nên đã đồng ý cụ D lấy cụ N và sinh ra ông D1. Năm 1987, ông Y nhận chuyển nhượng của cụ C thửa đất số 38, tuy khơng viết giấy biên nhận nhưng có sự chứng kiến của bà B và bà K. Từ năm 2006, cụ C quay về Hưng Yên, ông D1 và cụ D đến để quản lý thửa đất ở khu M nhưng ông Y không đồng ý. Năm 2009, giữa ông Y và gia đình cụ D xảy ra tranh chấp đối với thửa đất số 38. Ngày 16-12-2009, cụ C lập di chúc với nội dung để lại thửa đất số 38 cho ông D1. Ngày 15-01-2011, cụ D lập di chúc tại phịng cơng chứng M để lại phần tài sản của cụ tại thửa đất số 38 cho ông D1. Sau khi cụ D mất, phịng cơng chứng đã tiến hành việc công chứng theo quy định của pháp luật. Năm 2013, ơng Y được biết phịng cơng chứng M đã công chứng di chúc của cụ D và cụ C, ông cho rằng việc công chứng này không đúng với quy định của pháp luật và ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của gia đình ơng nên ơng đề nghị Tịa án tun bố hai văn bản cơng chứng vơ hiệu.

Tịa án sơ thẩm đã quyết định tuyên bố văn bản công chứng di chúc của phịng cơng chứng M đối với di chúc của cụ D và cụ C vơ hiệu. Tịa án phúc thẩm đã quyết định giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm. Cuối cùng, Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã quyết định hủy bỏ Bản án dân sự sơ thẩm và phúc thẩm, giao lại cho Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm lại theo đúng yêu cầu của pháp luật.

<i><b>Câu 2.1: Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyếtđịnh số 359 cho câu trả lời?</b></i>

Cụ Hương đã định đoạt nhà đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí).

Dẫn chứng trong Quyết định số 359 cho thấy câu trả lời là: “Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện nguồn gốc nhà đất tại địa chỉ 25D/19 Nguyễn Văn Đậu (nay là 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận) được Ủy ban nhân dân quận Phú Nhuận cấp giấy chứng nhận cho cụ Nguyễn Văn

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

hương vào năm 1994. Ngày 16/01/2009, cụ Hương di chúc toàn bộ nhà đất cho các con là Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu Trí). Bản di chúc này về hình thức có cơng chứng của Phịng cơng chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh”.

<i><b>Câu 2.2: Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hươngđịnh đoạt trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?</b></i>

Dẫn chứng trong Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di chúc là tài sản chung vợ chồng cụ Hương là: “Bản di chúc này về hình thức có cơng chứng của Phịng cơng chứng số 4, thành phố Hồ Chí Minh. Tại thời điểm lập di chúc, cụ Hương có giấy chứng nhận sức khỏe của Bệnh viện Phú Nhuận xác nhận cụ Hương minh mẫ. Do đó, theo quy định tại khoản 1 Điều 652 Bộ luật dân sự năm 2005 thì di chúc trên là hợp pháp. Tuy nhiên, về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di chúc cho toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi khơng có sự đồng ý của cụ Q là khơng đúng”.

<i><b>Câu 2.3: Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào củaQuyết định số 359 cho câu trả lời?</b></i>

Tịa án đã cơng nhận hiệu lực đối với một phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) đối với 5 người con sau khi đã chia cho cụ Quý <sup>2</sup><sub>3</sub> suất thừa kế theo pháp luật.

Dẫn chứng trong Quyết định số 359 cho thấy câu trả lời là: “…Vì vậy, Tịa án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (½ nhà đất) nên được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Qng Thị Kiều (vợ ơng Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý

<small>3</small> suất thừa kế theo pháp luật; cịn ½ diện tích đất cịn lại được chia cho cụ Quý; phần giá trị căn nhà theo kết quả định giá của hội đồng định giá thì được chia cho cụ Q ½ và thêm <sup>2</sup><sub>3</sub> suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là có căn cứ”.

</div>

×