Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

tiểu luận quan điểm của triết học mác lênin về con người và bản chất con người liên hệ với quá trình biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình nhà trường hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.84 MB, 25 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCMKHOA CHÍNH TRỊ LUẬT</b>

<b>MÔN HỌC: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNINTIỂU LUẬN</b>

<b>QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC- LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢNCHẤT CON NGƯỜI, LIÊN HỆ VỚI QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG</b>

<b>GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNG HIỆN NAY</b>

<b>GVHD: TS. NGUYỄN THỊ TRILÝ</b>

1. Đoàn Cao Thái 23133070 2. Lê Trần Tuấn Anh 23133003 3. Nguyễn Thị Kim Oanh 23133053 4. Nguyễn Tấn Thành 23133068 5. Nguyễn Lê Hoàng Kiệt 23133040

<b>Mã lớp học: LLCT130105_23_1_41</b>

Thành phố Hồ Chí Minh, Tháng 12 năm 2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BẢNG PHÂN CÔNG NHIỆM VỤST</b>

<b>NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU...1</b>

<b>1.1 Lý do chọn đề tài...1</b>

<b>1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...2</b>

<b>1.3 Phương pháp nghiên cứu...2</b>

<b>1.4 Kết cấu bài luận...2</b>

<b>PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI...4</b>

<b>2.1 Lý luận chung về vấn đề con người...4</b>

<b>2.1.1. Những quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử...4</b>

<b>2.1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người...5</b>

<b>2.2 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người...7</b>

<b>2.2.1 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội...7</b>

<b>2.2.2 Sự tác động qua lại giữa bản chất con người và các mối quan hệxã hội... 7</b>

<b>2.2.3 Vai trò quan trọng của việc giải phóng con người...8</b>

<b>PHẦN 3: KIẾN THỨC LIÊN HỆ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VỚI QUÁ TRÌNHBIẾN ĐỔI CHỨC NĂNG GIÁO DỤC TRONG GIA ĐÌNH, NHÀ TRƯỜNGHIỆN NAY... 10</b>

<b>3.1 Vai trò của việc giáo dục trong gia đình, nhà trường...10</b>

<b>3.1.1 Giáo dục trong gia đình, nhà trường có ý nghĩa rất lớn trongphát triển nhân cách đạo đức, cũng như tri thức cho con người...10</b>

<b>3.1.2 Đặc điểm của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của giađình, nhà trường việt nam hiện nay...11</b>

<b>3.2. Thực trạng của quá trình thực hiện chức năng giáo dục của gia đình,nhà trường việt nam hiện nay...12</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>3.2.1 Nguyên nhân tác động đến quá trình thực hiện chức năng giáodục của gia đình, nhà trường...123.2.2 Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện chức nănggiáo dục trong gia đình, nhà trường...143.2.3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của giáo dụctrong gia đình, nhà trường...14KẾT LUẬN... 17TÀI LIỆU THAM KHẢO...18</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>PHẦN 1: MỞ ĐẦU1.1 Lý do chọn đề tài.</b>

Con người luôn là một trong những chủ đề trung tâm của triết học, và tính phức tạp, sự đa dạng, phạm vi vô hạn, giá trị và tầm quan trọng thực tiễn toàn diện của chủ đề này khiến nó trở thành đối tượng nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học. Mọi thời đại. Mỗi triết gia và các trường phái triết học khác nhau đều có những quan điểm, nội dung, sắc thái riêng về con người, phản ánh những quan điểm, bối cảnh lịch sử, chính trị, văn hóa, xã hội khác nhau. Quan điểm của Hegel phát triển theo hướng chủ nghĩa duy tâm, siêu nhiên và phi vật chất. Quan điểm của Feuerbach tiến bộ hơn vì con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ đến khi triết học Mác - Lênin ra đời, quan điểm về con người và bản chất con người mới được thể hiện đầy đủ, hài hòa với chủ nghĩa duy vật.

Khi nhìn nhận một cách khách quan những thành tựu to lớn mà Đảng và dân tộc ta đã, đang và sẽ đạt được thì chủ nghĩa Mác - Lênin đã chứng tỏ tầm quan trọng và tiềm năng của nó đối với cơng cuộc xây dựng nhân loại. Những người theo chủ nghĩa xã hội mới ở Việt Nam ngày nay. Đối với một đất nước như Việt Nam, tích cực phát triển và bám sát con đường xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”, phát triển kinh tế - xã hội cuối cùng là vì con người và hướng tới con người. Xuất phát từ thực tế này, phát triển con người toàn diện là động lực thúc đẩy cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là đường lối cơ bản, lâu dài của Đảng và nước ta. Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng đã nêu rõ: “Nâng cao dân trí và phát huy, phát huy những nguồn lực to lớn của nhân dân Việt Nam là nhân tố quan trọng làm nên thành cơng của cơng nghiệp hóa ở đất nước vĩ đại hiện nay”.

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, phát triển con người cịn gặp nhiều khó khăn, trở ngại cần được quan tâm, xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau, dẫn đến chất lượng phát triển thấp, chưa phát huy đúng tiềm năng, vai trị. Vì vậy, việc xác định rõ những vấn đề, quan điểm lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực, nguồn lực cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là hết sức cấp thiết. Trên cơ sở đó, chúng tơi đề xuất một số giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả vai trị tích cực của yếu tố con người.

1

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người cùng với phương hướng phát triển con người Việt Nam trong thời đại mới, nhóm em lựa chọn đề tài “Vấn đề con người trong triết học Mác-Lênin. Vận dụng trong thực tiễn”.

<b>1.2 Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu </b>

Mục tiêu và nhiệm nghiên cứu của tiểu luận này là để làm sáng tỏ và giải thích các quan điểm cơ bản của triết học Mác - Lênin về con người. Mác - Lênin luôn coi con người là chủ thể của lịch sử và là nguồn gốc của mọi giá trị. Họ nhấn mạnh vai trò của con người trong xây dựng xã hội cộng sản và quá trình tiến bộ của xã hội. Từ đó liên hệ với q trình biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình, nhà trường hiện nay. Vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của nhân loại. Đề cập đến quan điểm Mác-Lênin về vai trị của giáo dục đối với sự hình thành và phát triển của lồi người. Giải thích ảnh hưởng của giáo dục đến nhận thức, ý thức và hành vi của con người. Ảnh hưởng của bản chất con người đến giáo dục tại gia đình và trường học. Phân tích bản chất con người ảnh hưởng như thế nào đến quá trình giáo dục . Làm rõ vai trị của gia đình và nhà trường trong việc phát triển nhân cách và giáo dục đạo đức. Ảnh hưởng của bản chất con người đến việc học. Nó mơ tả bản chất con người ảnh hưởng đến giáo dục ở trường như thế nào. Đánh giá vai trò của trường học trong việc phát triển kiến thức và kỹ năng.

<b>1.3 Phương pháp nghiên cứu</b>

Phương pháp tổng hợp thông tin, tài liệu: Từ những kiến thức đã được học, tham khảo các nguồn tài liệu từ các sách báo, từ những trang web, kênh chia sẻ thông tin trên Internet.

Phương pháp nghiên cứu phân tích và vận dụng: Từ những thơng tin, tài liệu tiến hành phân tích chọn lọc nhằm đưa ra những thơng tin về vai trị của Triết học chính xác và chi tiết nhất. Sau đó vận dụng đưa ra ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu.

<b>1.4 Kết cấu bài luận </b>

Bài tiểu luận được chia làm 4 phần gồm: Phần 1: Phần mở đầu

Phần 2: Phần kiến thức cơ bản: Lý luận của chủ nghĩa Marx-Lenin về con người

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Phần 3: Phần kiến thức liên hệ: Vấn đè nghiên cứu với quá trình biến đổi chức năng giáo dục trong gia đình, nhà trường hiện nay

Phần 4: Phần kết luận và tài liệu tham khảo

3

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>PHẦN 2: KIẾN THỨC CƠ BẢN: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN VỀ CON NGƯỜI VÀ BẢN CHẤT CON NGƯỜI</b>

<b>2.1 Lý luận chung về vấn đề con người</b>

<b>2.1.1. Những quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử</b>

Trong lịch sử, những quan điểm về con người đã trải qua những sự thay đổi đáng kể tùy thuộc vào giai đoạn lịch sử, văn hóa và triết học của mỗi thời kỳ. Dưới đây là một số quan điểm khác nhau về con người trong lịch sử:

1. Con người như Thượng đế:

Cổ Đại Hy Lạp (Thế kỷ 5 TCN): Trong triết học Hy Lạp cổ đại, con người thường được coi là hình mẫu của vẻ đẹp và đức hạnh. Các nhà tư tưởng như Plate và Aristotle thường đặt con người vào vị thế cao q như thượng đế vơ hình.

2. Con người như một phần của tự nhiên:

Triết Học Đạo Lý Trung Cổ (Thế kỷ 5-15): Trong thời kỳ Trung Cổ, đặc biệt là thời kỳ đạo lý Hồi giáo và Cơ đốc giáo, con người thường được coi là một phần của tự nhiên và phải sống theo quy luật của đạo lý tự nhiên.

3. Con người như một cá thể độc lập:

Thời Đại Khai Sáng (Thế kỷ 17 – 18): Trong thời kỳ Khai Sáng, những nhà tư tưởng như John Locke và Jean-Jacques Rousseau đã đề xuất quan điểm về con người như một cá thể độc lập, có quyền tự do và quyền tự do cá nhân.

4. Con người như lao động:

Thời Cơng Nghiệp Hóa ( Thế kỳ 19): Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp, quan điểm về con người thường được liên kết với lao động và sản xuất. Karl Marx, trong triết học Mác – Lênin, coi con người là một lao động viên, và bản chất con người được hình thành thơng qua mối quan hệ sản xuất.

5. Con người như thành viên của xã hội:

Những Năm 1900 – Hiện Đại: Với sự phát triển của xã hội công nghiệp và sự tăng trưởng của khoa học xã hội, những quan điểm về con người thường nhấn mạnh vai trị của xã hội trong việc hình thành bản chất và hành vi của con người. Các trường phát như học xã hội và cấu trúc xã hội thường coi con người như một thành viên của cộng đồng.

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

6. Con người như tâm linh:

Thời Kỳ Hậu Hiện Đại (Hiện Đại Muộn): Một số triết học và nhà tư tưởng hiện đại như Sigmund Freud và Carl Jung đã đề cập đến khía cạnh tâm linh và tiềm thức của con người, coi con người như một thực thể phức tạp với các chiều sâu tâm hồn.

Những quan điểm trên minh họa rằng nhận thức về con người luôn thay đổi theo thời kỳ và ngữ cảnh văn hóa, đề cập đến sự đa dạng và phong phú của triết lý con người trong lịch sử.

<b>2.1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người</b>

Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội có trình độ phát triển cao nhất của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thế của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người không bao giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật”. Điều đó có nghĩa rằng con người cũng như mọi động vật khác nhau phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh con đẻ cái, tồn tại và phát triển. Nhưng khơng được tuyệt đối hóa điều đó. Khơng phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể xác là cái duy nhất tạo nên bản chất con người, mà con người còn là một thực thể xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, không thể tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.

Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của tự nhiên. “Giới tự nhiên...là <b>thân thể vô cơ </b>của con người,.. đời sống thể xác và tinh thần của con người gắn liền với giới tự nhiên. Về phương diện thực thể sinh học, con người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di truyền, tiến hóa sinh học và các q trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khác quan. Đây chính là điểm khác biệt đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác, con người sống bằng những sản phẩm tú nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên liệu, áo quần, nhà ở, v.v.... Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận

5

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên, gắn bó với giới tự nhiên, hịa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển. Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.

Con người còn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội quan trọng của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có thể bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là loài vật”. Nếu con vật phải sống dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học, có thể trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có “bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết, cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương diện sinh học lẫn phương diện xã hội.

Trong hoạt động con người không chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng, là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của con người chỉ có trong “xã hội lồi người”, con người khơng thể tách khỏi xã hội và đó là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền với các quan hệ xã hội khơng chỉ phục vụ cho con người mà cịn cho xã hội, khác với hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>2.2 Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người2.2.1 Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội</b>

Con người vượt lên thế giới loài vật trên ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ này đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên

Trong sinh hoạt xã hội, khi hoạt động ở những điều kiện lịch sử nhất định con người có quan hệ với nhau để tồn tại và phát triển. “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con con người là tổng hòa các quan hệ xã hội. Bản chất của con người ln được hình thành và thể hiện ở những con người hiện thực, cụ thể những điều kiện lịch sử cụ thể. Các quan hệ xã hội tạo nên bản chất con người, nhưng không phải là sự kết hợp giản đơn hoặc là tổng cộng chúng lại với nhau mà là sự tổng hòa chúng; mối quan hệ xã hội có vị trí, vai trị khác nhau, có tác động qua lại, khơng tách rời nhau. Các quan hệ xã hội có nhiều loại: Quan hệ quá khứ, quan hệ hiện tại, quan hệ vật chất, quan hệ tinh thần, quan hệ trực tiếp, gián tiếp, tất nhiên hoặc ngẫu nhiên, bản chất hoặc hiện tượng, quan hệ kinh tế, v.v.. Tất cả các quan hệ đó đều góp phần hình thành nên bản chất của con người. Các quan hệ xã hội thay đổi thì ít hoặc nhiều, sớm hoặc muộn, bản chất con người cũng sẽ thay đổi theo. Trong các quan hệ xã hội cụ thể, xác định, con người mới có thể bộc lộ được bản chất thật sự của mình, và cũng trong những quan hệ xã hội đó thì bản chất người của con người mới được phát triển. Các quan hệ xã hội khi đã hình thành thì có vai trị chi phối và quyết định các phương diện khác của đời sống con người khiến cho con người khơng cịn thuần túy là một động vật mà là một động vật xã hội. Con người “bẩm sinh đã là sinh vật có tính xã hội”. Khía cạnh thực thể sinh vật là tiền đề trên đó thực thể xã hội tồn tại, phát triển và chi phối.

<b>2.2.2 Sự tác động qua lại giữa bản chất con người và các mối quan hệ xã hội</b>

Con người là một hệ thống chính thể thống nhất cá thể - lồi, mang những thuộc tính cá thể, đơn nhất, lẫn những thuộc tính chung, phổ biến của lồi, bản chất của nó là tổng hịa các quan hệ xã hội. Nó là đại diện cho loài, cho xã hội, cho nhân loại, cho

7

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

lịch sử loài người. Trong con người, do vậy, ln có những cái chung tồn nhân loại, như các giá trị chung., nhu cầu chung, lợi ích chung, v.v... Nó cũng là đại biểu của một xã hội cụ thể, một thời kỳ lịch sử xác định, có tính đặc thù, với các quan hệ xã hội nhất định. Các quan hệ xã hội kết tinh trong mỗi con người luôn là quan hệ xã hội cụ thể của một thời đại, một gia đình, một nhóm xã hội, một cộng đồng, một tập đồn, một giai cấp, một quốc gia - dân tộc xác định. Trong mỗi người cịn có cả những cái riêng, cái đơn nhất, đặc thù của cá thể, các nhân từ kinh nghiệm, tâm lý, trí tuệ, v.v... do những điều kiện sống, do đặc điểm sinh học quy định. Nhờ đó, mỗi con người là một cá thể, cá nhân riêng biệt, khác biệt nhau. “Con người là một thực thể xã hội mang tính cá nhân”.

Cá nhân và xã hội không tách rời nhau. Xã hội do các cá nhân cụ thể hợp thành, mỗi cá nhân là một phần tử của xã hội sống và hoạt động trong xã hội đó. Khi mới sinh ra, chưa có ý thức, chưa có các quan hệ xã hội thì con người mới chỉ là cá thể. Chỉ khi cá thể đó giao tiếp xã hội, có những quan hệ xã hội nhất định, có ý thức trở thành cá nhân. Cá nhân không thể tách rời xã hội. Quan hệ cá nhân - xã hội là tất yếu, là tiền đề và điều kiện tồn tại và phát triển của cá nhân lẫn xã hội. Đương nhiên, quan hệ ấy phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể, vào trình độ phát triễn xã hội. Sự thống nhất và mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội là một phạm trù lịch sử, phụ thuộc vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau.

<b>2.2.3 Vai trò quan trọng của việc giải phóng con người</b>

Triết học Mác - Lênin thực chất là học thuyết giải phóng con người, việc giải phóng những con người cụ thể là để đi đến giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và tiến tới giải phóng tồn thể nhân loại.

Các học thuyết triết học duy tâm và tôn giáo quan niệm giải phóng con người là giải thốt về mặt tâm linh để con người có thể đạt được cuộc sống cực lạc vĩnh cửu ở kiếp sau, hay nói cách khác chỉ là giải phóng ảo tưởng.

Triết học Mác - Lênin giải đáp một cách duy vật về vấn đề con người, bản chất con người, vị trí vai trị của con người trong tiến trình lịch sử nhân loại. Những quan niệm duy vật đó khơng chỉ nhằm mục đích xây dựng lý luận về con người mà còn nhằm mục đích giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giải phóng con người là xóa

8

</div>

×