Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.13 MB, 41 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Môn học : Tác phẩm kinh điển về kinh tế chính trị
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Phần I: Lý luận về tái sản xuất và lưu thông tư bản của C.Mác 6
II. Chương XIX: Những quan niệm trước C.Mác về tái sản xuất: 10
2. Hai khu vực của sản xuất xã hội 15
4. Trao đổi trong nội bộ khu vực II 18
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">IV. Chương XXI: Tích lũy và tái sản xuất mở rộng 20
3. Trình bày tích lũy bằng sơ đồ 24 4. Sự trao đổi của IIc trong trường hợp tích lũy 25
Phần II: Vận dụng lý luận tái sản xuất vào Việt Nam 26 1. Định hướng vận dụng vào xây dựng mơ hình tăng trưởng
2. Những gợi ý chính sách trong tăng trưởng kinh tế ở VN hiện nay 28 Kết luận
Tài liệu tham khảo
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4"><b>MỞ ĐẦU</b>
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Bộ “Tư bản” của C.Mác trình bày lý luận về chủ nghĩa tư bản (CNTB) trong thời kỳ tự do cạnh tranh dựa trên sự tổng kết tư liệu thực tiễn của nước Anh, trình bày sự phát sinh, phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) và vạch rõ những mâu thuẫn vốn có trong lịng CNTB( mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vụ sản…) tất yếu CNTB sẽ bị diệt vong, xây dựng xã hội mới đó là xã hội chủ nghĩa (CNXH) trên phạm vi tồn thế giới.
Trong đó lý luận của C.Mac về: tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội, đưcọ ông đè cập đến ở bộ Tư bản, Quyển II, Phần thứ ba “Tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội” gồm 4 chương, từ chương XVIII đến chương XXI Ở phần này. nội dung chủ yếu nghiên cứu về mặt là một q trình tuần hồn, vì thế ở đây gạt bỏ tất cả những nhân tố hồn tồn khơng liên quan gì đến bản thân sự thay đổi và cấu thành các hình thái tư bản.
2.Mục đích nghiên cứu:
Qua bài nghiên cứu ta thấy được những quan điểm của Mác về quá trình tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội không chỉ giúp chúng ta củng cố kiến thức về kinh tế chính trị mà cịn có vai trị quan trọng trong việc xây dựng các chính sách kinh tế - xã hội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: q trình tái sản xuất và lưu thơng của tổng tư bản xã hội
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Phạm vị nghiên cứu: quan điểm của Mác về tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội trong bộ Tư bản
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong việc nghiên cứu tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội, C. Mác đã dùng phương pháp trừu tượng khoa học để phân tích, sử dụng những phương pháp luận của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta trong nhận thức và giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội trong xã hội hiện đại.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>NỘI DUNG</b>
<b>PHẦN I: LÝ LUẬN VỀ TÁI SẢN XUẤT VÀ LƯU THÔNGTƯ BẢN CỦA C.MÁC</b>
Nghiên cứu Bộ Tư Bản Phần thứ ba “Tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội” gồm 4 chương, từ chương XVIII đến chương XXI.
I. Chương XVIII: Lời nói đầu:
Trong chương XVIII C.Mác xác định đối tượng nghiên cứu của phần này đồng thời bàn về vai trò của tư bản tiền tệ. Đối tượng nghiên cứu của phần này là “Tái sản xuất và lưu thông của tổng tư bản xã hội”. Nhưng phải đề cập đến vai trò của tư bản tiền tệ là vì có sản xuất hàng hố thì ắt phải có lưu thơng hàng hố và lưu thơng tiền tệ. Sự vận động của tư bản từ đầu đến cuối đều lấy tư bản dưới hình thái tiền tệ làm tiền đề. Bên cạnh tư bản đang hoạt động ln phải có tư bản “tiềm tàng” tồn tại dưới hình thái tiền tệ, bởi vì mua bán hàng hố - sức lao động bao giờ cũng phải trả bằng tiền mặt và lượng tư bản tiền tệ đó phụ thuộc vào độ dài của thời kỳ lao động và thời kỳ lưu thông. Không thể đánh giá quá cao vai trò tiền tệ như phái trọng thương nhưng cũng không thể coi tiền tệ chỉ là phương tiện lưu thơng đơn thuần như A.Smith. Việc bố trí cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư liên quan mật thiết đến khối lượng tiền tệ cần thiết trong lưu thông, liên quan đến cung cầu trên thị trường tiền tệ. Đầu tư vào những cơng trình quy mơ lớn, dài hạn thường phải ứng vào lưu thông một khối lượng tiền lớn để hút sức lao động và tư liệu sản xuất mà trong thời gian dài không cung ứng hàng hố vào lưu thơng, nên khơng thu được tiền về. Bởi vậy những sự rối loạn trên thị trường tiền tệ sẽ làm cho những doanh nghiệp ấy bị đình chỉ hoạt động, cịn về phía mình thì chính những doanh nghiệp ấy lại cũng gây ra những rối loạn thêm trên thị trường tiền tệ.
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">1. Đối tượng nghiên cứu:
Quá trình sản xuất trực tiếp của tư bản là quá trình lao động và quá trình tăng thêm giá trọ của tư bản, nghĩa là một quá trình mà kết quả là sản phấm hàng hóa và động cơ quyết định của nó là sản xuất ra giá trị thặng dư.
Quá trình tái sản xuất của tư bản bao gồm cả quá trình sản xuất trực tiếp đó lẫn cả hai giai đoạn của q trình lưu thơng theo đúng nghĩa của danh từ, nghĩa là bao gồm tồn bộ vịng tuần hồn, tuần hồn này, với tư cách là một q trình chu kì – nghĩa là một quá trình lặp đi lặp lại sau từng thời kỳ nhất định, - hình thành nên sự chu chuyêrn của tư bản. Dù chúng ta xét tuần hồn dưới hình thái T…T’, hay dưới hình thái Sx…Sx, thì quá trình sản xuất trực tiếp, Sx, bao giờ cũng vẫn chỉ là một mắt xích của tuần hồn đó thơi. Dưới hình thái này, q trình sản xuất làm mơi giới cho q trình lưu thơng, dưới hình thái kia thì q trình lưu thơng lại làm mơi giới cho q trình sản xuất. Điều kiện để q trình sản xuất đó khơng ngừng đổi mới, để tư bản khơng ngừng tái hiện dưới hình thái tư bản sản xuất, trong cả hai trường hợp, là những sự chuyển hóa của tư bản trong quá ttofnh lưu thơng. Mặt khác, q trình sản xuất khơng ngừng đổi mới là điều kiện cho những sự chuyển hóa mà tư bản cứ không ngừng trai qua trong lĩnh vực lưu thông, nghĩa là điều kiện để cho tư bản lần lượt xuất hiện khi thì dưới hình thái tư bản tiền tệ khi thì dưới hình thái tuư bản hàng hóa.
Tồn bộ q trình đó bao gồm cả sự tiêu dùng sản xuất ( quá trình sản xuất trực tiếp) với những sự chuyển hóa hình thái ( tức là những sự trao đổi, nếu xét sự việc về mặt vật chất) làm môi giới cho sự tiêu dùng sản xuất đo, lẫn sự tiêu dùng cá nhân với những ự chuyeẻn hóa hình thái, hay những sự trao đổi, làm môi giới cho sự tiêu dùng này. Một mặt, q trình đó bao gồm sự chuyển hóa cuả tư bản khả biến thành sức lao động, và vì vậy, bao gồm việc kết hợp sức lao động vào quá trình sản xuất tư bản chủ nghĩa. Ở đây, người công nhân thể hiện ra là người bán hàng hóa của mình, tức là sức lao động, cịn nhà tư bản thì thể hiện ra là người mua sức lao động. Nhưng mặt khác, việc bán hàng
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">hóa bao hàm
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">việc giai cấp cơng nhân mua hàng hóa đó, do đó bao hàm sự tiêu dùng cá nhân của giai cấp công nhân. Ở đây, giai cấp công nhân thể hiện ra là người mua, cịn những nhà tư bản thì lại thể hiện ra là người bán hàng hóa cho cơng nhân.
Mác nêu rõ quan niệm của mình về tư bản xã hội. Ông viết:
“ Sự vận động của một tư bản xã hội gồm toàn bộ những sự vận động cưr những phân số đã tách riêng ra của nó, tức là gồm tồn những chu chuyển của các tư bản cá biệt. Giống như sự biến hóa hình thái của từng hàng hóa cá biệt là một mắt xích trong cái chuỗi biến hóa hình thái của thế giới hàng hóa,- tức là của sự lưu thơng hàng hóa, - sự biến hóa hình thái của một mắt xích trong tuần hồn của tư bản xã hội”
Ở chỗ khác ông viết: “Nhưng những tuần hòa của những tư bản cá biệt chằng chịt lấy nhau, tuần hoàn nọ là tiền đề và điều kiện của tuần hồn kia, và chính nhờ sự chằng chịt đó mà chúng hình thành nên sự vận động của tổng tư bản xã hội. Trong lưu thông hàng hóa giản đơn, tồn bộ sự biến hóa hình thái của một hàng hóa là một khâu trong cái chuỗi những biến hóa hình thái của tư bản xã hội. Nhưng nếu lưu thơng hàng hố giản đơn hồn tồn khơng nhất thiết phải bao hàm lưu thơng của tư bản vì lưu thơng hàng hóa giản đơn có thể diễn ra trên cơ sở một nền sản xuất không phải là tư bản xã hội lại bao hàm cả lưu thơng hàng hóa khơng nằm trong tuần hốn của tư bản cá biệt, tức là cũng bao hàm cả lưu thơng của những hàng hóa khơng phải là tư bản”.
Đối tượng nghiên cứu của phaàn này được Mác xác định chính là “q trình lưu thơng của những tư bản cá biệt (xét về tồn thể thì q trình lưu thơng này là một hình thái của q trình tái sản xuất) với tư cách là những bộ phận cấu thành của tổng tư bản xã hội, tức là xét q trình lưu thơng của tư bản xã hội đó”
2. Vai trị của tư bản tiền tệ:
Trong phần này, Mác nhắc lại một số quan điểm về tư bản tiền tệ đã được nghiên cứu
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">từ trước. Ơng nói rằng, khi nghiên cứu chu chuyển của tư bản cá biệt, chúng ta đã tìm ra 2 mặt của tư bản tiền tệ sau đây:
Thứ nhất, nó là cái hình thái trong đó mọi tư bản cá biệt xuất hiện và mở đầu quá trình của nó với tư cách là tư bản. Vì vậy, nó là primus motor thúc đẩy tồn bộ q trình.
Thứ hai, tùy theo độ dài khác nhau của thời kỳ chu chuyển và tùy theo tỷ lệ khác nhau giữa hai bộ phận cấu thành của thời kỳ chu chuyển đó – thời kỳ lao động và thời kỳ lưu thông – mà đại lượng tương đối của cái bộ phận cấu thành gía trị tư bản ứng trước phải ln ln được ứng ra và đổi mới dưới hình thái tiền, cũng biến đổi so với một quy mô sản xuất khơng thể thay đổi. Nhưng dù tỷ lệ đó là như thế nào chăng nữa, thì mọi trường hợp, cái bộ phận giá trị tư bản sản xuất vẫn bị giới hạn bởi bộ phận giá trị tư bản ứng trước ln ln phải tồn tại dưới hình thái tiền bên cạnh tư bản sản xuất.
Về điểm thứ nhất, có sản xuất hàng hóa thì ắt có lưu thơng hàng hóa, và lưu thơng hàng hóa giả định rằng hàng hóa biểu hiện dưới hình thái tiền, nghĩa là giả định có lưu thơng tiền tệ: việc hàng hóa phân thành hàng hóa và tiền là một quy luật biểu hiện sản phẩm với tư cách là hàng hóa. Sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa cũng vậy, chúng ta xét nó về mặt xã hội cũng như về cả mặt cá biệt thì cũng khơng quan trọng – nó cũng đều giả định phải có tư bản dưới hình thái tiền, hay phải có tư bản tiền tệ với tư cách là primus motor đối với mọi kinh doanh mới bắt đầu và với tư cách là động cơ thường xuyên của nó. Đặc biệt, tư bản lưu thông giả định sự xuất hiện luôn luôn lặp đi lặp lại, trong từng khoảng thời gian ngắn, của tư bản tiền tệ với tư cách là động cơ. Toàn bộ giá trị tư bản ứng ra, tức là tất vả những bộ phận cấu thành của tư bản do hàng hóa hợp thành, - sức lao động, tư liệu lao động và vật liệu sản xuất đều phải được thường xuyên không ngừng.
Về điểm thứ hai, bộ phận lao động xã hội và tư liệu sản xuất hàng năm phải bỏ ra để sản xuất hay mua tiền nhằm bù lại những đồng tiền đức đã hao mòn, lẽ dĩ nhiên bộ phận đó là một số sự khấu trừ pro tanto vào quy mô của sản xuất xã hội. Còn về giá trọ tiền tệ đang hoạt động một phần làm phương tiện lưu thông, một phần làm tiền tích trữ,
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">thì một
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">khi đã có được, đã kiếm được, giá trị đó sẽ tồn tạo bên cạnh sức lao động, bên cạnh các tư liệu sản xuất đã được tạo ra và những nguồn của cải tự nhiên. Không nên coi giá trị đó là một cái gì hạn chế những thứ kể trên. Nhờ chuyển hóa giá trị đó thành những yếu tố của sản xuất, nhờ trao đổi với các nước khác, người ta có thể mở rộng quy mơ sản xuất. Nhưng điều đó địi hỏi là tiền phải đóng vai trị tiền thế giới.
Mác cũng khẳng định rằng trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, những cơng việc kinh doanh tương đối lớn có tính chất lâu dài hơn đòi hỏi phải ứng ra một số tư bản tiền tệ lớn hơn cho một thời gian dài hơn. Điều đó làm cho sản xuất phụ thuộc vào những giới hạn mà nhà tư bản cá biệt chi phối được tư bản tiền tệ. Tuy nhiên, chế độ tín dụng và việc hình hành các hộ tín dụng hay các cơng ty cổ phần đã phá vỡ những giới hạn này, gây ra những rối loạn trên thị trường tiền tệ có thể dẫn đến việc đình chỉ hoạt động của các doanh nghiệp, mặt khác chính các doanh nghiệp này cũng có thể gây rối loạn thêm cho thị trường tiền tệ. Mác dự kiến rằng, những căn bệnh trên đây của sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể khắc phục được trong một nền sản xuất có tính chất xã hội, khi mà tuư bản tiefn tệ khơng cịn nữa và xã hội phân phối sức lao động và tư liệu sản xuất giữa các ngành sản xuất khác nhau, còn người sản xuất sẽ dùng những giấy chứng nhận để đến các kho công lĩnh sản phẩm tiêu dùng tương ứng với thời gian lao động của mình. Những giấy chứng nhận đó khơng phải là tiền và khơng thể lưu thơng được.
II. Chương XIX: Những quan niệm trước C.Mác về tái sản xuất:
Ở chương này nghiên cưú các quan điểm khác nhau của một số nhà kinh tế về vấn đề tái sản xuất cuar tư bản xã hội, bao gồm phái trọng nông, A.Smith, Ri-các-đô và những người khác,… trong đó sự phê phán chủ yếu dành cho A.Smith. Chính sự phê phán này mà Mác dần dần trình bày lý luận riêng của mình về vấn đề lưu thơng tổng sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">1. Về phái trọng nơng:
Mác đánh giá cao đóng góp của phái trọng nông cho vấn đề nghiên cứu tái sản xuất trên quy mô xã hội. Đặc biệt, thành tựu nổi bật của những người trong nông tập trung ở Biểu kinh tês của F.Quesnay được Mác coi là cố gắng đầu tiên trong lịch sử phân tích xem sản phârm hàng năm của nền sản xuất quốc dân được phân phối qua lưu thông như thế nào để có thể tiến hành được tái sản xuất giản đơn sản phẩm đó.
Mặc dù bị giới hạn bởi tầm mắt của người trọng nông, những người coi nông nghiệp là lĩnh vực duy nhất đầu tư lao động của con người, lĩnh vực tạo ra giá trị thặng dư, tức là lĩnh vực duy nhất thực sự có tính chất sản xuất của lao động, phân tích của những người trọng nơng đối với lưu thông sản phẩm hàng năm của nền sản xuất xã hội lại đạt được những ưu thế hơn hẳn so với nhiều người đương thời. Về điểm này, Mác viết như sau: “ Những điều kiệ rõ rafng của quá trình tái sản xuất tự nhiên này làm sáng tỏ những điều liện của quá trình tái sản xuất kinh tế và không cho phép rơi vào những sự lẫn lộn do những ảo ảnh của lưu thông gây nên” . Hơn nữa, vẫn theo Mác, hệ thống của phái trọng nơng là quan niệm đầu tiên có hệ thống về nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, coi đại biểu của tư bản công nghiệp – giai cấp những người Fesc -mi -ê là những người chỉ đạo tồn bộ sự vận động kinh tế, coi nơng nghiệp là ngành sản xuất duy nhất hoạt động theo phương thức tư bản chủ nghĩa với động cơ duy nhất là thu được giá trị thặng dư. Những người trọng nơng coi lưu thơng chỉ có vai trị mơi giới trong việc thực hiên giá trị thặng dư do lĩnh vực sản xuất ( nông nghiệp ) tạo ra, dứt khoát phân biết người sản xuất giá trị thặng dư với người chỉ biết chiếm hữu giá trị thặng dư…
Sự phê phán của Mác đối với những người trọng nông chủ yếu chỉ là ở tầm mắt hạn hẹp của họ khi nhìn nhận chỉ có nơng nghiệp mới là lĩnh vực sản xuất thực sự. Tất nhiên, đó là giới hạn lịch sử mà việc vượt qua nó đòi hỏi căn bản trong điều kiện lịch sử mà trung tâm là những thay đổi căn bản trong sự vận động của các quan hệ kinh tế - xã hội của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">2. Về A. Xmít:
Rất tiếc là trong lĩnh vực tái sản xuất tư bản xã hội và lý luận về thực hiện tổng sản phẩm xã hội, Xmít lại làm những bước thụt lùi so với những người trọng nông. Điều này đã được Mác chỉ rõ trong hàng loạt vấn đề. Nhìn một cách khái quát, Mác viết: “Bước thụt lùi của A. Xmít trong sự phân tích q trình tái sản xuất lại càng nổi bật khi ông ta không phải chỉ phát triển những sự phân tích đúng đắn của Kê-ne..., mà thậm chí đơi chỗ ơng ta cịn hồn tồn rơi vào những sai lầm của phái trọng nông" (trang 528).
Những hạn chế của Xmít được Mác tóm tắt như sau:
• Xmít chỉ nói đến tái sản xuất giản đơn, chứ khơng nói đến tái sản xuất mở rộng hay tích lũy, chỉ nói đến những chi phí “bảo tồn” tư bản đang hoạt động.
• Xmít đã trốn thốt khỏi bản thân học thuyết của ông bằng cách chơi chữ, bằng cách phân biệt tổng thu nhập với thu nhập ròng (gross và net revenue), gạt bỏ ra khỏi thu nhập ròng toàn bộ tư bản cố định cũng như toàn bộ phần tư bản lưu động cần thiết để bảo tồn và sửa chữa tư bản cố định cũng như để đổi mới nó,... nói chung là mọi tư bản khơng tồn tại dưới hình thái hiện vật khiến người ta có thể sử dụng làm quỹ tiêu dùng. Ở một chỗ khác, Mác cịn nói rằng Xmít đã qn mất chức năng của tư bản cố định.
• Nhân phê phán Xmít, Mác cũng trình bày ln quan điểm của mình về tư bản cố định và tự bản lưu động. Ở trang 537 ta đọc thấy những quan điểm sau đây của ông:
+) "Cũng giống như tư bản cố định và tư bản lưu động cần thiết để tái sản xuất và bảo tồn tư bản cố định..., tư bản lưu động của mỗi một nhà tư bản cá biệt hoạt động trong lĩnh vực sản xuất vật phẩm tiêu dùng cũng hoàn toàn bị gạt ra ngoài thu nhập rịng của hắn là thu nhập chỉ có thể gồm có lợi nhuận của hắn thơi. Vậy trong sản phẩm hàng hóa của hắn, bộ phận thay thế tư bản của hắn không thể phân giải thành những bộ phận cấu thành giá trị hình thành thu nhập của hắn được.
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">+) Tư bản lưu động của mỗi nhà tư bản cá biệt cấu thành một bộ phận của tư bản lưu động của xã hội, hoàn toàn giống như mọi tư bản cố định cá biệt.
+) Tư bản lưu động của xã hội, tuy chỉ là tổng số các tư bản lưu động cá biệt, nhưng lại có một tính chất khác với tư bản lưu động của mỗi nhà tư bản cá biệt. Tư bản lưu động của mỗi nhà tư bản cá biệt không bao giờ có thể là một phần thu nhập của nhà tư bản cá biệt; trái lại, một bộ phận của tư bản lưu động xã hội (cụ thể là bộ phận gồm vật phẩm tiêu dùng có thể đồng thời là một bộ phận thu nhập của xã hội...”.
• Cuối cùng, Mác cũng dành nhiều trang (từ 541 đến 570) để phê phán sai lầm của Xmít liên quan đến cái mà ơng gọi là “Giáo điều Xmít”, theo đó, giá trị được phân giải thành các thu nhập, bộ phận tư bản bất biến bị gạt khỏi toàn bộ tổng sản phẩm xã hội và tích lũy tư bản chủ nghĩa bị phủ nhận trên thực tế. Điều thú vị là Mác lại nhận định rằng, “Nhưng sự sai lầm này của A. X mít, ở đây lại dựa trên một cơ sở sâu hơn, đúng đắn hơn. Nền sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa vào việc người công nhân sản xuất bán cho nhà tư bản sức lao động của bản thân với tư cách là hàng hóa của anh ta, và sau đó trong tay nhà tư bản, sức lao động chỉ hoạt động với tư cách là một yếu tố của tư bản sản xuất của hắn. Cái công việc giao dịch thuộc phạm vi lưu thơng đó tức là bán và mua sức lao động -khơng những chỉ mở đầu q trình sản xuất mà cịn quyết định… tính chất đặc thù của q trình đó nữa" (trang 563).
3. Về những nhà kinh tế học sau:
Trong mục này, Mác điểm lại quan điểm của một số nhà kinh tế học như Ri-các-đô, Ram - xây, Xây (J. B. Say)1, Mắc Cu-lốc, Pru-đông (PJ Proudhon)2, Stooc-xơ (A. C. Storch)3, Giôn Xtiu-át Min... Theo Mác, những người này, có người thì hầu như lặp lại ngun xi các quan điểm của Xmít, có người thì cố gắng khắc phục những sai lầm của Xmít, song tất cả đều khơng thành cơng. Ngun nhân chủ yếu là vì họ vẫn khơng phân biệt được sự khác nhau giữa giá trị của tư bản bất biến và giá trị tư bản khả biến với sự khác nhau giữa tư bản cố định và tư bản lưu động, một điểm yếu mấu chốt của chính
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Xmít.
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Và ông khái quát: “Kết quả, sự lẫn lộn khái niệm của Xmít vẫn tiếp tục tồn tại cho đến ngày nay, và giáo điều của ông là biểu tượng của tín điều chính thống của khoa kinh tế chính trị” (trang 573).
1 B Say (767 - 1832) nhà kinh tế Pháp, được Mác xếp vào trường phải tầm thường, nổi tiếng với quy luật Cung tự tạo ra các PI Primalhan ( 1809 - 1868 1 nhà chính luận người Pháp, nhà kinh tế học và tư tưởng.
III. Chương XX: Tái sản xuất giản đơn: 1. Đặt vấn đề:
Đây là một trong những chương dài nhất của quyển II nói riêng cũng như của tồn bộ Tư bản nói chung, bắt đầu từ trang 574 và kết thúc ở trang 714. Như Mác đã viết trong khi đặt vấn đề, "... nếu chúng ta xét sản phẩm hàng hóa mà xã hội cung cấp trong một năm, thì chúng ta sẽ thấy rõ quá trình tái sản xuất của tư bản xã hội diễn ra như thế nào, những đặc trưng nào phân biệt quá trình tái sản xuất đó với q trình tái sản xuất của một tư bản cá biệt, và những đặc điểm nào là chung cho cả hai”, đối tượng nghiên cứu của ông ở đây chính là xem xét q trình tái sản xuất về mặt hoàn lại giá trị cũng như về mặt thay thế hình thái hiện vật của các bộ phận cấu thành của hàng hóa trên phạm vi tồn xã hội.
Điểm xuất phát của tái sản xuất trên quy mô xã hội bao giờ cũng là tái sản xuất giản đơn, tức là tái sản theo quy mô như cũ, là một sự trừu tượng trong chừng mực”, tức là phải có những giả định có vẻ lạ lùng rằng “một mặt, trên cơ sở sản xuất tư bản chủ nghĩa, việc khơng có tích lũy hay khơng có tái sản xuất mở rộng” và “mắt khác... năm nay cũng như năm ngoái, một tư bản xã hội có một giá trị nhất định vẫn chỉ cung cấp có một khối lượng giá trị hàng hóa như cũ, và cũng vẫn thỏa mãn một số lượng nhu cầu như
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">trước thôi” (trang 578).
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">Nhiệm vụ nghiên cứu tái sản xuất giản đơn trong chương này được Mác vạch rõ ở trang 576.
"Vấn đề trực tiếp đặt ra ở đây là như sau: tư bản đã tiêu dùng trong sản xuất được hoàn lại như thế nào về mặt giá trị từ trong số sản phẩm hàng năm, và q trình hồn lại đó quyện chặt như thế nào với việc nhà tư bản tiêu dùng giá trị thặng dư và việc công nhân tiêu dùng tiền công? Vậy trước hết, đây là nói đến vấn đề tái sản xuất giản đơn”.
2. Hai khu vực của sản xuất xã hội
Trước hết, cần chú ý là trong chương này và các chương về sau của bản dịch tiếng Việt, khái niệm về những sản phẩm sản xuất ra nhằm đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng trực tiếp cho cá nhân có thể mang những tên gọi khác nhau như tư liệu tiêu dùng, tư liệu sinh hoạt, vật phẩm tiêu dùng hay hàng hóa tiêu dùng... (điều này chắc chắn là do chính Mác cũng thường sử dụng nhiều cách diễn đạt khác nhau cho một khái niệm như ta vẫn thấy). Để thống nhất, chúng tôi sẽ chỉ sử dụng tên gọi tư liệu tiêu dùng hoặc tư liệu sinh hoạt trong khi trình bày, trừ những chỗ phải trích dẫn nguyên văn quan điểm của Mác theo bản dịch. Chúng tôi cũng sử dụng các ký hiệu trong những công thức của Mác đúng như bản dịch đã sử dụng để người đọc dễ theo dõi và tránh việc phải suy diễn một cách khó khăn,
- Theo quan niệm của Mác, để nghiên cứu lưu thông của tư bản trên phạm vi xã hội, cần phân chia toàn bộ sản phẩm xã hội, do đó cả tồn bộ sản xuất xã hội, thành hai khu vực lớn:
“1 Tư liệu sản xuất, tức là những hàng hóa có một hình thái khiến
Xuất phát từ tính hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa. C.Mác coi hai mặt giá trị và hiện vật của tổng sản phẩm xã hội là hai tiền đề lý luận quan trọng để nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">Nếu trong tái sản xuất ở các doanh nghiệp cá biệt, mặt giá trị có vai trị quan trọng thì trong tái sản xuất tư bản xã hội, với tư cách tổng hòa hành vi tái sản xuất của các doanh nghiệp cá biệt, mặt hiện vật của tổng sản phẩm xã hội lại có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Là hiện vật của tổng sản phẩm xã hội được C.Mác phân chia thành hai loại: tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, do đó nền sản xuất xã hội được chia thành hai khu vực:
Khu vực I: Sản xuất tư liệu sản xuất, tức là những hàng hóa có moọt hình thái khiến cho chúng phải – hay ít ra cũng có thể - đi vào tiêu dùng sản xuất
Khu vực II: Sản xuất tư liệu tiêu dùng, tức là những hàng hóa có một hình thái khiến cho chúng đi vào tiêu dùng cá nhân của giai cấp các nhà tư bản và của giai cấp công nhân
Trên thực tế, ranh giới giữa khu vực I và II không phải lúc nào cũng rõ ràng. Có thể một số ngành vừa thuộc khu vực I, vừa thuộc khu vực II, than vừa sản xuất ra để luyện thép, vừa sản xuất để làm chất đốt cho tiêu dùng hàng ngày của nhân dân: hay là ngành nông nghiệp, xét về mặt sản xuất ra lúa, gạo, thịt, sữa, v.v. trực tiếp phục vụ cho tiêu dùng của con người thì thuộc khu vực II, nhưng nếu xét về mặt sản xuất ra nguyên liệu, phục vụ cho cơng nghiệp chế biến thì nó lại thuộc khu vực I.
- Tư bản xã hội
Tư bản xã hội là tổng hợp cảc tư bản cá biệt của xã hội vận động đan xen nhau, liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau. Tham gia vận động của tư bản xã hội có cả tư bản cơng nghiệp, tư bản thương nghiệp, tư bản ngân hàng... Nhưng ở đây nghiên cứu trừu tượng về tái sản xuất và lưu thông của tư bản xã hội, nên C.Mác đã khẳng định tư bản công nghiệp vẫn là một thể thống nhất, chưa xét từng loại tư bản cụ thể.
- Những giá định của C. Mác khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội.
Khi nghiên cứu tái sản xuất tư bản xã hội, C.Mác đã nêu ra năm giả định sau đây: (1) Toàn bộ nền kinh tế trong nước là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa thuần túy, nghĩa
</div>