Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tiểu luận tràng giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.7 KB, 15 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc

Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố Hồ Chí Minh Trung học phổ thông Lê Quý Đôn

<b>TIỂU LUẬN BÀI THƠ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>II. 3. Ý nghĩa nhan đề và lời đề tựa………. 6</b>

<b>II. 4. Giá trị nội dung……… 6</b>

<b>II. 5. Giá trị nghệ thuật………. 6</b>

<b>III. Phân tích……….. 6 </b>

<b>III. 1. (Khổ 1) Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận……….……….………… 6</b>

<b>III. 2. (Khổ 2) Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều……….……….……….… 6</b>

<b>III. 3. (Khổ 3) Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng……….……….……….……….…. 7</b>

<b>III. 4. (Khổ 4) Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.……….……….……….…… 7</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>ĐiểmNhận xét của Giáo viên hướng dẫn</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Huy Cận là một trí thức tiểu tư sản trẻ tuổi, trẻ lòng đang cảm nghiệm về những điều đã được cảm nghiệm từ nhiều thế kỉ. Trong khi cảm nghiệm, người thanh niên ấy khơng qn cái trẻ của mình, khơng qn gắn những điều mình đang cảm nghiệm trong thời đại mình đang sống.

Hồn thơ Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám là “ảo não bậc nhất” nhưng trên hết, nỗi buồn cá nhân nhà thơ là nỗi buồn thời thế, nỗi buồn thời đại, tất cả đồng vọng trong nỗi buồn rất nhân văn của con người. Hồn thơ Huy Cận là sự giao thoa của màu sắc thi ca cổ điển phương Đông với một cái Tôi sáng tạo độc đáo thể hiện trong những khám phá mới của nhà thơ từ trong nội dung – tư tưởng đến hình thức – nghệ thuật.

Thơ Huy Cận khắc khoải trong những nỗi buồn nhân thế, luôn hướng đến triết luận về thế thái nhân

<i>sinh. Một bài thơ tưởng như thuần biểu hiện cảm xúc như Tràng giang cũng gợi lên được nhiều ý niệm </i>

sâu xa về cuộc đời của riêng cái Tôi Huy Cận, cũng phần nào của cuộc đời của mỗi con người sống trong dòng chuyển lưu sinh hóa

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>B. NỘI DUNG CHÍNH I. Giới thiệu tác giả: </b>

<b>1. Cuộc đời: </b>

- Huy Cận ( 1919-2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận

- Huy Cận sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo ở tỉnh Hà Tĩnh.

- Lúc nhỏ, ông theo học ở quê. Đến khi học trung học, ơng học tại Huế, sau đó thi đậu tú tài Pháp rồi chuyển ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nơng.

- Ơng có thơ đăng báo từ năm 15 tuổi và trở nên nổi tiếng qua tập thơ “Lửa thiêng”. - Ông tham gia hoạt động cách mạng và giữ nhiều trọng trách khác nhau

- Giống như thanh niên thời đó, Huy Cận nhận thức được cuộc sống tù túng, tẻ nhạt, quẩn quanh nên thường có nỗi buồn cô đơn, điều này khắc họa khá rõ trong thơ ca.

<b>2. Sự nghiệp văn học: </b>

- Phong cách nghệ thuật: thơ Huy Cận hàm súc, giàu chất suy tưởng triết lí

- Trước Cách mạng, ơng được biết đến như một thi sĩ hàng đầu trong phong trào Thơ mới. Thơ của ơng có nỗi ám ảnh thường trực là nỗi buồn của nhân thế, nỗi sầu bi kéo dài.

- Sau Cách mạng, ông là nhà thơ tiêu biểu với tiếng thơ yêu đời, lạc quan, căng tràn sức sống Huy Cận là gương mặt tiêu biểu của thơ ca hiện đại

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

+ Bài thơ cuộc đời + Những năm sáu mươi - Văn xuôi:

<b>II. Giới thiệu tác phẩm:1. Hoàn cảnh sáng tác: </b>

Bài thơ được sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sơng Hồng ngắm cảnh. Chính cái khơng gian mênh mang của sông Hồng và suy nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định đã gợi lên cảm hứng sáng tác bài thơ này.

<b>2. Bố cục phân tích: </b>

Về bố cục, nội dung bài Tràng Giang được chia thành 4 phần: Phần 1 (khổ 1): Khung cảnh sông nước mênh mông, bất tận. Phần 2 (khổ 2): Cảnh cồn bến hoang vắng trong nắng chiều. Phần 3 (khổ 3): Cảnh bèo trôi, bờ xanh hoang vắng.

Phần 4 (khổ 4): Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ.

<b>3. Ý nghĩa nhan đề và lời đề tựa: </b>

- Nhan đề:

Ngay từ thi đề, Huy Cận đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp cổ điển mà hiện đại cho bài thơ. “Tràng Giang” là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm “ang” đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vơ cùng mà cịn rộng mênh mơng, bát ngát. Hai chữ “tràng giang” mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường Giang trong Đường thi, một dịng sơng của mn thuở vĩnh hằng, dịng sông của tâm tưởng.

- Lời đề tựa: Nhấn mạnh không gian mênh mơng và nỗi nhớ sâu thẳm trong lịng người.

<b>4. Giá trị nội dung:</b>

Bài thơ bộc lộ nỗi sầu của một cái tôi cơ đơn trước thiên nhiên rộng lớn, trong đó thấm đượm tình người, tình đời, lịng u nước thầm kín mà thiết tha.

<b>5. Giá trị nghệ thuật:</b>

- Bài thơ mang vẻ đẹp vừa cổ điển, vừa hiện đại - Thể thơ thất ngôn

- Vẻ đẹp cổ điển thể hiện trên nhiều phương diện:

+ mỗi dòng 7 chữ ngắt nhịp đều đặn, mỗi khổ 4 dòng, tách ra như bài thơ tứ tuyệt

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

+ cách thức miêu tả thiên nhiên theo bút pháp hội họa cổ điển: một vài nét đơn sơ nhưng ghi được hồn tạo vật

+ tả cảnh ngụ tình

+ sự trang nhã, thanh thốt từ hình ảnh, ngơn từ

- Chất hiện đại thể hiện trong cách cảm nhận sự việc, tâm trạng bơ vơ, buồn bã phổ biến của cái tôi lãng mạn đương thời.

<b>III. Phân tích:</b>

<b>1. Khổ thơ thứ nhất: Bức họa sơng nước mênh mơng, bất tận mà lịng buồn vời vợi, cám cảnhcho kiếp người nhỏ bé: </b>

Mở đầu tác phẩm là lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”, lời đề từ với bảy chữ thơi nhưng đã bao qt tồn bộ nội dung và tư tưởng nghệ thuật mà tác giả gửi gắm. Câu thơ gợi ra nỗi buồn thương, khắc khoải, nhớ nhung của con người trước cảnh bật bao la, sâu rộng.

Từ láy “bâng khuâng” càng gợi tâm trạng vương sầu và nỗi nhớ miên man nơi đáy lòng thi sĩ, gợi mở cho những câu thơ sau được giãi bày tự nhiên:

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khơ lạc mấy dịng.”

Câu thơ lặp lại nhan đề tác phẩm “tràng giang”, cách điệp vần “ang” được sử dụng đầy tinh tế đã gợi ra một không gian với dịng sơng dài rộng. Hai tiếng “tràng giang” cất lên càng gợi âm vang của nỗi buồn tha thiết. Những con sóng gợn nhẹ nơi dịng sơng, dịng sơng mang màu tâm trạng “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn của dòng sơng cũng chính là nỗi buồn sâu thẳm trong nhân vật trữ tình, cụm tính từ “buồn điệp điệp” càng làm cho nỗi buồn thêm khắc khoải, tầng tầng lớp lớp, nối tiếp nhau chẳng thể nào dứt. Tưởng chừng như nhẹ nhàng nhưng lại trĩu nặng vô bờ, thấm đẫm và lan tỏa trong từng thức cảnh. Nổi bật trong khơng gian dài rộng, mênh mơng là hình ảnh “con thuyền xuôi mái”, con thuyền nhỏ bé, đơn độc trơi theo dịng nước, mặc nhiên lênh đênh, phiêu dạt như chính người thi sĩ cũng đang trống vắng, lẻ loi phó mặc dịng đời xơ đẩy, chảy trơi.

“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả Củi một cành khô lạc mấy dịng.”

Hình ảnh đối lập “thuyền về - nước lại” được tả giả vận dụng tinh tế kết hợp cùng thi liệu đầy mới mẻ “củi một cành khơ lạc mấy dịng” khơng chỉ làm cho câu thơ thêm uyển chuyển linh hoạt mà con gợi ra được âm hưởng cổ kính. Nghệ thuật đảo ngữ “củi một cành khô ” được đưa lên đầu câu càng nhấn mạnh sự đơn độc, lẻ loi, vô định, nhỏ bé, tầm thường. Cành củi khô ấy phải chăng là hình ảnh ẩn dụ cho thi nhân với một cái tôi bơ vơ, lạc lõng trong chính đời sống của mình.

<b>2. Khổ thơ thứ hai: Khung cảnh cồn bến hoang vắng trong cái ánh nắng chiều.</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Tưởng như nỗi buồn đã dừng lại, nhường chỗ cho chút niềm vui ủi an. Nhưng sang khổ thơ thứ hai, nỗi sầu càng lớn thêm nhiều chút, thấm sâu vào cảnh vật:

“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu Đâu tiếng làng xa, vãn chợ chiều

Cặp từ láy tượng hình “lơ thơ” “đìu hiu” gợi bao buồn vắng, quạnh quẽ, cô đơn. Như tự nhiên vốn có, khơng gian chợ búa gợi sự đơng vui, tấp nập, nhưng trong đoạn thơ, hình ảnh chợ xuất hiện mà chẳng thấy chút hơi ấm của cuộc sống, tiếng cười nói, mua bán của con người. Vạn vật như nằm trong sự tĩnh lặng đến tuyệt đối, khơng gian cũng được mở rộng cả chiều kích sâu rộng:

“Nắng xuống trời lên, sâu chót vót Sơng dài trời rộng, bến cô liêu”

Nghệ thuật đối kết hợp với biện pháp tu từ nhân hố cho thấy được chiều kích vơ cùng của khơng gian. “Sâu chót vót” gợi sự thăm thẳm, hun hút khôn cùng. Càng rộng, càng cao, càng sâu bao nhiêu thì cảnh vật càng buồn vắng, lẻ loi bấy nhiêu. Sông tuy dài mà bến bờ cô lẻ, nỗi buồn như mở rộng theo chiều kích khơng gian, thấm sâu trong từng hơi thở. Phân tích bài thơ Tràng giang để thấy được tâm sự của nhà thơ Huy Cận về cuộc đời, thời cuộc.

<b>3. Khổ thơ thứ 3: Cảnh bèo trôi, bờ xa hoang vắng</b>

Nhà thơ nhìn về dịng sơng, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào hố sâu mà giá lạnh, nỗi cô đơn đang bủa vây. Nhưng cảnh sắc trước mặt lại khơng như lịng người mong đợi, thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng khung cảnh đìu hiu, hoang vắng khiến con người càng nhỏ bé, lênh đênh:

"Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,"

Từ “dạt” đã diễn tả tinh tế sự chuyển biến của vạn vật thiên nhiên. Tuy nhiên nó lại được gắn liền với hình ảnh “bèo” mà cánh bèo trơi bồng bềnh trên sơng là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh. Qua câu hỏi tu từ “dạt về đâu”, cánh bèo chẳng biết dạt về nơi nào, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Cánh bèo ấy cũng như kiếp người vơ định, buồn thương, khơng có nơi bấu víu mà cứ lặng lẽ nổi trơi trên dịng đời. Nhưng trong bài thơ này khơng chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trơi hàng hàng càng khiến lịng người rợn ngợp trước thiên nhiên rộng lớn, để từ đó cõi lịng càng đau đớn, cơ đơn bội phần. Nhìn sâu hơn vào vấn đề, ta thấy hình ảnh này đã gợi thân phận trôi nổi của cả một thế hệ thi nhân mất nước. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là tồn cảnh trời rộng sơng dài, một khơng gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường khơng có bóng dáng con người, khơng có chút sinh hoạt của con người, khơng có sự giao hồ, nối kết:

“Mênh mơng khơng một chuyến đị ngang Không cầu gợi chút niềm thân mật.

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.”

Điệp từ "không" như điểm nhấn cho sự vắng vẻ ở đây. Hai câu thơ với hai lần phủ định “khơng đị”, “không cầu” dường như càng tô đậm hơn cái mênh mông của sông nước và nhấn mạnh thực trạng không có sự giao lưu gặp gỡ giữa người với người. Chỉ có thiên nhiên với thiên nhiên “bờ xanh” với “bãi vàng” nối tiếp nhau âm thầm, lặng lẽ và tẻ nhạt. Cấu trúc “không… không” ấy kết hợp từ láy, nghệ thuật đảo đã phủ định hoàn toàn những kết nối của con người, tạo nên không gian cách biệt, vơ cảm. Cầu hay chuyến đị ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trơi đi nơi nào. Ở câu thơ cuối, nhà thơ Huy Cận đã sử dụng những gam màu tươi sáng xanh, vàng để chấm phá cho bức tranh. Tưởng như những sắc màu này sẽ phần nào xua đi cảm giác đơn độc, u tối cho bức tranh thơ, thế

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nhưng từ láy "lặng lẽ" đầu câu lại làm cho dòng cảm xúc chưa kịp thăng hoa đã trầm xuống. Câu thơ làm cho cảnh sơng nước càng trở nên đìu hiu, vắng lặng. Cảnh vật ở khổ 3 tuy có chút thay đổi nhưng đều cùng một dáng vẻ với cảnh ở các khổ trên: hiu quanh và làm nổi bật sự nổi trơi, vơ định, chia lìa. Trước sự thống trị tuyệt đối của khơng gian hoang vắng, thiếu tình người kia, khơng có chút gì gợi niềm thân mật để kéo một kẻ lữ thứ xa quê như ông ra khỏi cảm giác cơ đơn, chơi vơi lạc lồi đang bao trùm, vây kín. Nỗi buồn ở đây chẳng phải cho riêng bản thân Huy Cận mà còn là nỗi buồn trước cuộc đời vô định của cả thế hệ thi nhân mất nước lúc bấy giờ. Vì vậy, tác giả càng khát khao tình người, tình bạn để chia sẻ, cảm thông.

<b>4. Khổ thơ thứ tư: Tâm sự nhớ quê và nỗi niềm của nhà thơ</b>

Khơng nhìn dịng nước buồn hiu hắt nữa, nhà thơ dắt chúng ta nhìn đến cao hơn:

“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa.”

Tác giả đã mượn một số cách diễn đạt của thơ Đường nhưng vẫn giữ được nét riêng biệt của thơ mới và hồn thơ “ảo não” của mình. Trong thơ của Huy Cận cũng có cánh chim và đám mây như trong một số bài thơ cổ nói về buổi chiều, tuy nhiên, hai hình ảnh này khơng có tác dụng hơ ứng cho nhau như trong thơ cổ, mà chúng còn có ý nghĩa trái ngược nhau. Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra buổi chiều muộn khi từng lớp, từng lớp mây trên cao kia chất chồng lên nhau, tạo thành những núi bạc, nổi bật trên nền trời xanh trong. Đây là một cảnh vật hùng vĩ biết bao! Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

“Mặt đất mây đùn cửa ải xa.”

Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.

Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hồng hơn trong thơ ca cổ điển. Tuy nhiên, hình ảnh này trong thơ mới khơng chỉ tả cảnh mà cịn tượng trưng cho nỗi niềm Huy Cận: “cánh chim” đơn cơi giữa trời đất bao la chính là tâm hồn nhà thơ bơ vơ giữa vũ trụ vô hạn.

Nỗi buồn như thấm đượm, lan tỏa trong khắp cả khơng gian: “Lịng q dợn dợn vời con nước, Khơng khói hồng hơn cũng nhớ nhà.”

"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hơ ứng cùng cụm từ "vời con nước" tạo ra hình ảnh những dợn sóng trải rộng nối nhau lan xa, qua đó gợi sự tiếp nối điệp trùng của sóng lịng thi nhân. Từng đợt sóng lịng ấy tương ứng với nỗi buồn điệp điệp do không gian mênh mông và thân phận vô định của kiếp người đang đứng giữa q hương, nhưng q hương đã khơng cịn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lịng đau xót trước cảnh mất nước. Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là từ thơ cổ điện được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lịng ai" của Thơi Hiệu. Xưa Thơi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ. Tuy nhiên, Huy Cận sáng tạo

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

hơn: ông không cần ngoại cảnh mà vẫn rưng rưng nỗi nhớ q hương thiết tha sâu lắng. Vì lịng nhà thơ vốn sẵn nỗi “sầu vạn cổ” nên nỗi nhớ của tác giả thường trực, mãnh liệt vô cùng. Đọc những câu thơ vừa mang nét sáng tạo của thơ mới, vừa ẩn chứa khơng khí cổ kính, trầm mặc của Đường thi, ta thấy nỗi nhớ nhà dâng lên như tiếng gọi tự nhiên nhằm giúp nhà thơ vượt thốt cơ đơn của kẻ lữ thứ xa q. Và đây cũng là nỗi cơ đơn lạc lồi “thiếu quê hương” của cả thế hệ thi nhân trước cách mạng tháng Tám.

Nỗi buồn của hai thi sĩ có một số điểm khác nhau. Ở Thơi Hiệu do nhìn thấy khói sóng trên dịng sơng nên buồn và nhớ về q nhà, cịn ở Huy Cận, chẳng có làn khói nào hiện lên nhưng là khói cháy trong lịng khi kiếp người thật nhỏ bé, bơ vơ. Nỗi nhớ thương cũng xuất phát từ sự bất lực, ngán ngẩm của bản thân thi sĩ trước thời cuộc. Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,... cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.

<b>V. Một số nhận định </b>

- “Tràng giang là bài thơ ca hát non sông đất nước, do đó dọn đường cho lịng u Giang sơn Tổ quốc” (Xuân Diệu)

- “Bài thơ hầu như trở thành cổ điển, của một nhà “Thơ mới”. Vào một cách dõng dạc, đàng hồng, vì đây là “đại giang”, là sơng lớn, ví dụ như sơng Hồng; là tràng giang: rộng bao gồm cả trường giang: dài; sầu trăm ngả chứ khơng phải là ít ngả, vì là sơng lớn… Hơi thở cổ điển là đúng...duy câu thứ tư thì là hiện đại; thơ truyền thống của cha ơng ta không đưa cái nét hiện thực, thực tế, nôm na, chân thật đến sống sít, là củi một cành khô trôi đi trên sông” (Xuân Diệu)

- "Huy Cận như không ở trong thời gian mà chỉ ở trong không gian" (Xuân Diệu)

- Trong cuốn Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh, nhà phê bình thơ có tiếng thời tiền chiến, có nhận xét chung về Huy Cận: “Cái buồn “Lửa Thiêng” là cái buồn tỏa ra từ đáy hồn một người cơ hồ không biết đến ngoại cảnh.”

- "Người thấy lạc lồi giữa cái mênh mơng của khơng gian, cái xa vắng của thời gian, lời thơ vì thế mà buồn rười rượi" (Hoài Thanh).

</div>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×