Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Quan điểm nghệ thuật trong tập tiểu luận trang giấy trước đèn của nguyễn minh châu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.72 KB, 52 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn phòng Đào tạo, các phòng ban của trường Đại học
Tây Bắc, các quý thầy cô trong khoa Ngữ văn, đặc biệt là các thầy, cô giáo bộ môn
Văn học Việt Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình nghiên cứu.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới cô giáo - Tiến sĩ Ngô Thị Phượng đã tận
tình giúp đỡ, chỉ bảo trong quá trình thực hiện khóa luận.
Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô công tác tại bộ phận thư viện
nhà trường, đã giúp đỡ trong quá trình sưu tầm tài liệu để hoàn thành khóa luận.
Cuối cùng, em xin gửi lời cảm ơn tới tập thể lớp K52 Đại học Sư phạm Ngữ
văn đã cổ vũ, động viên tinh thần giúp em hoàn thành khóa luận.
Sơn La, tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Mùng Thị Tuyết


MỤC LỤC
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................5
6. Những đóng góp của khóa luận ...................................................................................5
7. Cấu trúc của khóa luận ................................................................................................6
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...........................................................................7
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ..................................................................7
1.1. Đôi nét về Nguyễn Minh Châu và hoa ̣t đô ̣ng lý luâ ̣n phê bình ................................7
1.1.1. Tiể u sử và con người và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu ..................7
1.1.2. Hoạt động lý luận phê bình của Nguyễn Minh Châu ............................................9
1.2. Quan điểm nghệ thuật và công lao đổi mới văn học của Nguyễn Minh Châu ..10


1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu ..................................................10
1.2.2. Công lao đổi mới văn học của Nguyễn Minh Châu ............................................12
1.3. Tâ ̣p tiể u luâ ̣n Trang giấ y trước đèn ........................................................................17
CHƢƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦ A NGUYỄN MINH CHÂU VỀ VĂN HỌC
VÀ NHÀ VĂN QUA TẬP TIỂU LUẬN TRANG GIẤY TRƯỚC ĐÈN ..................20
2.1. Quan điể m của Nguyễn Minh Châu về văn ho ̣c .....................................................20
2.1.1. Quan điểm về tính thời sự của văn học ...............................................................20
2.1.2. Tính trường tồn của văn học ...............................................................................22
2.1.3. Đặc thù của văn học: cảm xúc thẩm mĩ và tính chân thực .................................24
2.2. Quan điểm của Nguyễn Minh Châu về nghề văn và nhà văn ................................26
2.2.1. Quan điểm về nghề văn .......................................................................................26
2.2.2. Quan điểm về nhà văn .........................................................................................27
2.2.3. Yêu cầu đối với nhà văn ......................................................................................29
CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM CỦA NGUYỄN MINH CHÂU VỀ HIỆN THỰC VÀ
NHÂN VẬT TRONG TÁC PHẨM VĂN HỌC ........................................................33
3.1. Quan điể m về hiện thực trong văn ho ̣c ...................................................................33
3.1.1. Quan hệ giữa hiện thực và văn học .....................................................................33
3.1.2. Hiện thực trong văn học của Nguyễn Minh Châu ...............................................35
3.1.3. Yêu cầu đổi mới văn học khi phản ánh hiện thực ................................................39


3.2. Quan điể m về nhân vâ ̣t trong văn ho ̣c ....................................................................40
3.2.1. Nhân vật trong văn học của Nguyễn Minh Châu ................................................40
3.2.2. Yêu cầ u khi xây dựng nhân vật ............................................................................42
KẾT LUẬN ..................................................................................................................46
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................48


PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

1.1. Trước 1975, Nguyễn Minh Châu là nhà văn của những trang viết đầy chất
thơ - hào sảng của một thời kỳ lịch sử hào hùng. Thế nhưng sau đó, người ta lại tìm
đến ông với một sự ngưỡng vọng và kinh ngạc bởi những trang văn “xác thực, đa
dạng và cận nhân tình”, đưa văn chương trở về với đời sống. Điều này được phản
ánh rất rõ không chỉ thông qua những sáng tác mà còn qua cả những trang tiểu luận
- phê bình. Nguyễn Minh Châu tham gia viết tiểu luận - phê bình, chân dung văn
học từ rất sớm. Cuốn sách Trang giấy trước đèn là tập hợp những bài viết được
đăng rải rác trên các báo, những ghi chép tản mạn và những bài trả lời phỏng vấn từ
năm 1969 đến tận khi ông qua đời. Tôn Phương Lan đã tập hợp lại với ý định làm
một cuốn sách riêng về mảng phê bình - tiểu luận và Nguyễn Minh Châu tự đặt tên
cho tập sách. Chứng tỏ ông đã ý thức rất rõ về trách nhiệm của nhà văn, của ngòi
bút mình trước nhân dân, đất nước, trước cuộc sống. Những quan niệm về nghệ
thuật trong tập tiểu luận đã góp phần không nhỏ vào tiến trình đổi mới tư duy nghệ
thuật, đổi mới, phát triển văn học Việt Nam sau chiến tranh.
Nguyễn Minh Châu là một trong số ít những nhà văn hiện đại Việt Nam đã thu
hút được sự chú ý mạnh mẽ, đa chiều của giới nghiên cứu, phê bình, sáng tác cũng
như công chúng yêu văn học trong và ngoài nước. Sẽ là không đầy đủ đối với công
việc nghiên cứu văn học đương đại nói chung, sự nghiệp văn học của nhà văn
Nguyễn Minh Châu nói riêng nếu không nghiên cứu chuyên sâu tiểu luận - phê
bình Trang giấy trước đèn của ông. Bởi những quan niệm nghệ thuật của nhà văn
tập trung rất đầy đủ và sâu sắc qua phê bình - tiểu luận này. Như thế, nghiên cứu
tiểu luận - phê bình Trang giấy trước đèn, chúng ta sẽ có được một cái nhìn đầy đủ,
toàn diện hơn về cuộc đời, văn nghiệp của một nhà văn tâm huyết, tài năng trong
văn học hiện đại Việt Nam.
1.2. Là cây bút trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ và phát triển trong
thời kỳ đổi mới, các sáng tác của Nguyễn Minh Châu luôn được đưa vào giới thiệu
và giảng dạy ở bậc phổ thông và đại học như: Bến quê (chương trình Trung học cơ
sở), Chiếc thuyền ngoài xa (chương triǹ h Trung học phổ thông)… Đó là những tác
phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của nhà văn ở hai giai đoạn khác nhau và
1



đều là những tác phẩm ghi nhận sự biến chuyển trong tư duy nghệ thuật của tác giả.
Vì thế viê ̣c tìm hiể u về tác giả là mô ̣t viê ̣c làm cầ n thiế t .
Cho nên khóa luận này giúp chúng ta có một cách nhìn hệ thống toàn diện đầy
đủ về quan niệm nghệ thuật thống nhất trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu
trong nền văn học Việt Nam hiện đại.
1.3. Với vị trí và tài năng của Nguyễn Minh Châu thì số lượng công trình
nghiên cứu về ông khá nhiều, tuy nhiên trong môi trường Đa ̣i ho ̣c

Tây Bắ c thì

những bài viế t nghiên cứu ch uyên sâu về vấ n đề này chưa thực sự thỏa đáng . Do
đó, với tư cách là một sinh viên còn tập dượt bước đầu nghiên cứu một đề tài khoa
học, việc nghiên cứu quan điểm nghệ thuật trong tập tiểu luận Trang giấy trước
đèn của Nguyễn Minh Châu, vừa là niềm say mê cá nhân và đồng thời khi tiến hành
làm khóa luận này, chúng tôi xin tiếp thu những ý kiến đánh giá của các nhà văn,
các nhà nghiên cứu về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu và chúng tôi
cũng tiếp tục suy nghĩ về những cái mới để chỉ ra được những đặc điểm thuộc về
quan điểm nghệ thuật của ông.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài: Quan điểm nghệ
thuật trong tập tiểu luận Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giới nghiên cứu tìm hiểu tiểu luận - phê bình của Nguyễn Minh Châu diễn ra
khá muộn so với quá trình nghiên cứu về sáng tác của ông. Bảy năm sau ngày ông
qua đời, năm 1994, những trang tiểu luận - phê bình của ông mới được nhà nghiên
cứu Tôn Phương Lan tập hợp và cho ra mắt bạn đọc một cách đầy đủ trong tập
Trang giấy trước đèn.
Khi giới thiệu Trang giấy trước đèn, Tôn Phương Lan đã viết bài Nguyễn
Minh Châu qua phê bình - tiểu luận (tháng 9 - 1993) thay cho lời tựa cuốn sách.

Tôn Phương Lan khẳng định: “Lịch sử lý luận phê bình đương đại sẽ nhớ đến ông
với tư cách là người đầu tiên khuấy động sự tĩnh lặng hàng bao nhiêu năm của một
nền văn học thời chiến bằng tiểu luận viết về chiến tranh” [3, tr6].
Cũng tác giả Tôn Phương Lan, trong Hành trình dẻo dai của một ngòi bút đã
nhận thấy: “Và cũng không nên quên rằng ở lĩnh vực lý luận phê bình văn học,
chúng ta bắt gặp vẫn Nguyễn Minh Châu ấy: trăn trở, dằn vặt, hao tâm, tổn trí để
2


khám phá, tìm tòi cho ra cái lẽ của nghề, của nghiệp, của thiên chức người nghệ sĩ
và văn chương” [14, tr42]. Như thế, Tôn Phương Lan là người đầu tiên không chỉ
có công biên soạn, giới thiệu phê bình tiểu luận của Nguyễn Minh Châu mà còn là
người đầu tiên phát hiện ra sự vận động trong ý thức nghệ thuật của Nguyễn Minh
Châu ở mảng phê bình tiểu luận.
Tác giả Hồng Diệu trong Nguyễn Minh Châu nghĩ và viết về việc viết văn
(tháng 1 - 1994) cho rằng: “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh
họa của Nguyễn Minh Châu là biểu hiện của một nhà văn có tinh thần trách nhiệm
cao - tuy bài báo còn những điều cần được làm rõ, để hiểu có lý, có tình, tránh khen
chê theo cảm tính” [4, tr 427]. Cách tiếp cận phê bình tiểu luận của Nguyễn Minh
Châu trong bài viết của Hồng Diệu là cách tiếp cận dưới góc độ sản phẩm của một
nhà văn chứ không phải là của một nhà lý luận phê bình.
Mai Hương trong bài Nguyễn Minh Châu và di sản văn học của ông (mùa
thu năm 2000) đã hiểu rằng nơi bộc lộ trực tiếp, rõ nhất ý thức nghệ thuật của
Nguyễn Minh Châu chính là phần phê bình tiểu luận nên nhà nghiên cứu đã
dùng chính phần này để soi chiếu vào sáng tác của nhà văn, từ đó có cơ sở
khẳng định những đóng góp to lớn của ông đối với nền văn học cách mạng nước
nhà bằng cả “thực tiễn sáng tác và tiểu luận phê bình, bằng cả ý thức nghệ thuật
và phương thức biểu đạt”.
Tác giả Nguyễn Trọng Hoàn (tháng 1 - 2002) trong bài Tiếp tục hành trình
đọc Nguyễn Minh Châu đã nhận xét: “Cùng với sáng tác là công việc được xem

như chính yếu trong sự nghiệp sáng tác của mình, Nguyễn Minh Châu còn viết khá
nhiều trang tiểu luận phê bình có giá trị thể hiện suy nghĩ của ông về những
phương diện khác nhau của quá trình văn học” [9, tr27].
Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đã nhận xét về phê bình lý luận của Nguyễn
Minh Châu trong cuốn Văn học Việt Nam thế kỷ XX (tháng 9 - 2004): “Giá trị của
ngòi bút phê bình của nhà văn là ở tính tư tưởng rõ ràng, chân thật, mạch lạc của
nó… nhưng vị trí cao nhất của ông là người thổi bùng ngọn lửa đổi mới văn học
của giai đoạn mới” [25, tr788].
Gần đây, một luận văn thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam của tác giả Vũ
Kim Loan (2003) có tên Tiểu luận phê bình của Nguyễn Minh Châu. Tác giả luận
3


văn khai thác, khảo sát toàn bộ tập Trang giấy trước đèn ở 3 nội dung tư tưởng,
quan niệm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu, vấn đề nghề văn và chân dung đồng
nghiệp. Tuy nhiên đây là một đề tài nghiên cứu thiên về phân tích toàn diện theo
cấu trúc tác phẩm phê bình tiểu luận của Nguyễn Minh Châu.
Nhìn chung, các bài viết tiêu biểu nghiên cứu về tiểu luận Trang giấy trước
đèn của Nguyễn Minh Châu còn rất ít so với loạt bài nghiên cứu về sáng tác của
ông. Các bài viết điểm trên mặc dù đã đánh giá được một số đóng góp của Nguyễn
Minh Châu trong và qua tập Trang giấy trước đèn nhưng mới chỉ dừng ở mức độ
riêng lẻ. Tuy nhiên, đó vẫn là những gợi ý và là nguồn tham khảo rất thiết thực, bổ
ích đối với chúng tôi trong việc lựa chọn đề tài nghiên cứu và quá trình thực hiện
khóa luận này. Một công trình chuyên biệt về quan niệm nghệ thuật của Nguyễn
Minh Châu qua tập tiểu luận Trang giấy trước đèn từ góc độ Lý luận văn học thì
chưa có. Vì thế chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài này nhằm đi sâu hơn một số vấn đề
lý luận mà Nguyễn Minh Châu đặt ra.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận này được viết ra với mục đích khẳng định những đóng góp của
Nguyễn Minh Châu trong lĩnh vực phê bình lý luận một cách toàn diện, xác đáng

hơn về giá trị của văn nghiệp và vị trí của Nguyễn Minh Châu trong tiến trình văn
học Việt Nam đương đại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong khóa luận này chúng tôi hướng tới đối tượng nghiên cứu là những quan
điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu đặt ra trong cuốn phê bình - tiểu luận
Trang giấy trước đèn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Tập phê bình - tiểu luận Trang giấy trước đèn gồm gồm 36 bài viết, chia làm
ba phầ n chin
́ h - ba lĩnh vực mà sinh thời Nguyễn Minh Châu rấ t tâm huyế t phê biǹ h
- tiể u luâ ̣n , chân dung văn ho ̣c và kinh nghiê ̣m sáng tác , tuy nhiên trong giới hạn
của đề tài chúng tôi chủ yếu tập chung nghiên cứu những vấn đề lý luận đặt ra ở
phần một - Phê bình và tiểu luận.

4


Ngoài ra, khóa luận này còn đi vào nghiên cứu một số vấn đề lý luận đặt ra
trong một vài sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu.
Cuối cùng, khóa luận còn tìm hiểu một vài tác giả, tác phẩm cùng thời với nhà
văn cũng viết về những vấn đề mà Nguyễn Minh Châu quan tâm, hướng ngòi bút
của mình vào đó.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khóa luận chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Người nghiên cứu sẽ kết hợp hai hình thức
tư duy phân tích và tổng hợp. Người viết chủ yếu phân tích lí thuyết về quan điểm
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu kèm theo dẫn chứng để nắm vững bản chất của
từng đơn vị kiến thức và toàn bộ vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở phân tích đó tác giả
sẽ tổng hợp lại để tạo ra hệ thống, thấy được mối quan hệ giữa các đơn vị kiến thức

để hiểu vấn đề một cách toàn diện và sâu sắc.
- Phương pháp nghiên cứu hệ thống: quan niệm nghệ thuật trong tập tiểu luận
Trang giấy trước đèn của Nguyễn Minh Châu nằm trong hệ thống những quan
điểm nghệ thuật của ông do đó khi nghiên cứu những quan điểm nghệ thuật trong
tập tiểu luận phải đặt nó trong một hệ thống chỉnh thể.
- Phương pháp so sánh: Để đề tài thêm phong phú, chúng tôi sẽ tạo ra một cái
nhìn đối sánh về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tập tiểu luận
Trang giấy trước đèn với quan điểm nghệ thuật của ông trong các sáng tác khác
cũng như so sánh với những ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu từ đó có cái
nhìn khái quát về quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu trong tập tiểu luận
Trang giấy trước đèn.
6. Những đóng góp của khóa luận
Hoàn thành khóa luận này, chúng tôi mong muốn góp phần vào thư viện nhà
trường một cuốn tài liệu hữu ích cho các bạn sinh viên về quan điểm nghệ thuật
của nhà văn Nguyễn Minh Châu. Những kết quả mà chúng tôi đạt được sẽ giúp các
bạn sinh viên chuyên ngành Ngữ văn có thêm tài liệu để tìm hiểu về những tác
phẩm của ông.

5


7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm ba chương.
Chƣơng 1: Những vấn đề chung
Chƣơng 2: Quan điể m của Nguyễn Minh Châu về văn học và nhà văn
Chƣơng 3: Quan niệm của Nguyễn Minh Châu về hiện thực và nhân vật trong
tác phẩm văn học

6



PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Đôi nét về Nguyễn Minh Châu và hoa ̣t đô ̣ng lý luâ ̣n phê bin
̀ h
1.1.1. Tiểu sử và con người và sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Minh Châu
Nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 – 1989), xuất thân trong một gia đình
nông dân, thuộc làng Thơi, xã Quỳnh Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Trước
cách mạng tháng Tám năm 1945, Nguyễn Minh Châu theo học trường Kỹ nghệ
Huế. Đến năm 1945, ông tốt nghiệp với bằng Thành chung. Năm (1948 – 1949),
Nguyễn Minh Châu học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng (Hà Tĩnh – Nghệ
An). Tháng 1 – 1950, ông nhập ngũ và cùng năm này ông được kết nạp vào Đảng
Cộng sản Việt Nam. Sau đó, Nguyễn Minh Châu được học ở trường sĩ quan lục
quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến năm 1956, ông công tác tại Ban tham
mưu tiểu đoàn 722 và 706, thuộc sư đoàn 320. Năm 1958, Nguyễn Minh Châu đi
học bổ túc quân sự khóa II. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Từ
năm 1962, ông về công tác tại phòng Văn nghệ Quân đội, sau chuyển sang tạp chí
Văn nghệ Quân đội. Với những đóng góp đó, ông được Hội Nhà văn kết nạp làm
hội viên vào năm 1972. Ông là đại biểu chính thức dự Đại hội Nhà văn Việt Nam
lần thứ ba tại Hà Nội vào năm 1983. Ngoài ra, ông còn được trao tặng một số giải
thưởng: Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng 1984 - 1989 cho toàn bộ sáng tác của
Nguyễn Minh Châu viết về chiến tranh và người lính, tác phẩm Cỏ lau đạt giải
thưởng Hội Nhà văn Việt Nam vào năm 1990. Ngoài ra ông được phong tặng giải
thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật vào năm 2000.
Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam hiện
đại trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và thời kỳ đầu đổi mới. Nhưng số mệnh
nghiệt ngã với căn bệnh hiểm nghèo ung thư máu đã khiến hành trình sáng tạo của
Nguyễn Minh Châu phải đột ngột dừng lại khi vừa đạt tới độ chín của tài năng.
Ngày 23 tháng 1 năm 1989 Nguyễn Minh Châu trút hơi thở cuối cùng tại viện quân

y 108 Hà Nội, sau gần một năm chống chọi với bạo bệnh, để lại nhiều dự định sáng
tác còn đang ấp ủ. Tác phẩm cuối cùng - truyện vừa Phiên chợ Giát - được hoàn
thành ngay trên giường bệnh trước đó không lâu.

7


Về con người Nguyễn Minh Châu, những bạn bè quen biết ông đều thấy dưới
cái bề ngoài không có gì nổi bật, thậm chí hơi dè dặt, ngần ngại nói trước đám
đông. Nhưng ở bên trong là một con người nhiều ưu tư trăn trở, có niềm tin vững
chắc vào sự lựa chọn của mình và một ý chí kiên định con đường đã lựa chọn, dám
chấp nhận mọi sự khó khăn, thách thức, mà có người gọi đó là “sự dũng cảm rất
điềm đạm”. Nguyễn Minh Châu cũng là một nhà văn luôn suy nghĩ về chính công
việc viết văn của mình, với ý thức trách nhiệm của ngòi bút trước thời đại, trước
dân tộc và trước bạn đọc. Con đường đến với nghề văn của Nguyễn Minh Châu
cũng giống với con đường của nhiều cây bút cùng thế hệ ông như: Nguyễn Khải,
Nguyên Ngọc, Nguyễn Thi, Hồ Phương, Xuân Thiều, Lê Khâm… Đó là một thế hệ
đã cầm súng trước khi cầm bút và chính sự trải nghiệm cuộc đời người lính trong
sự gắn bó với nhân dân qua những năm tháng chiến tranh đã dẫn họ đến với con
đường nghệ thuật. Nguyễn Minh Châu đến với văn học khá muộn, truyện ngắn đầu
tay được in lúc đã 30 tuổi và đã có 10 năm trong quân ngũ. Nhưng chính chặng
đường 10 năm trước đó là sự chuẩn bị cần thiết cho việc bắt đầu con đường sáng
tác của nhà văn.
Về sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Minh Châu là một người suốt đời cống hiến
cho nghệ thuật. Cho nên gần ba mươi năm cầm bút ông đã để lại một sự nghiệp văn
chương đồ sộ:
- Cửa sông (tiểu thuyết), Nxb Văn học,1967.
- Những vùng trời khác nhau (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, 1970.
- Dấu chân người lính (tiểu thuyết), Nxb Thanh Niên, 1972.
- Giã từ tuổi thơ (tiểu thuyết), Nxb Kim Đồng, 1974.

- Miền cháy (tiểu thuyết), Nxb Quân đội Nhân dân, 1977.
- Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết), Nxb Văn học, 1977.
- Những ngày lưu lạc (tiểu thuyết), Nxb Kim Đồng, 1981.
- Những người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết), Nxb Quân đội nhân dân, 1982.
- Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (tập truyện ngắn), Nxb Tác Phẩm
Mới, 1983.
- Mảnh trăng cuối rừng (tập truyện ngắn), Nxb Văn học, 1984.
- Trang giấy trước đèn (Phê bình – tiểu luận), Nxb Khoa học xã hội, 2002.
8


- Ngoài ra còn có Núi rừng yên tĩnh (tập bút ký) in chung với Hồ Phương, Nxb
Quân đội nhân dân, 1981.
1.1.2. Hoạt động lý luận phê bình của Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn đồng thời còn xuất hiện với tư cách là
người viết phê bình với tập Trang giấy trước đèn. Hành động ông đứng vào hàng
ngũ những người làm phê bình văn học đã thể hiện tinh thần trách nhiệm rất cao
của ông đối với nền văn học nước nhà. Ông đối diện với nền lý luận phê bình văn
học đương đại, nhìn thẳng, nhìn sâu vào nó với tư cách là một chủ thể sáng tạo.
Các nhà phê bình sau chiến tranh giờ đây bắt đầu biết “chê” như một cảnh tỉnh
cho giới sáng tác. Việc làm này buộc người cầm bút phải có trách nhiệm hơn với
những cái họ viết ra, chấm dứt kiểu phê bình đã cổ xưa quen “dĩ hòa vi quý”.
Những nhà phê bình chỉ biết khen – chê, theo Nguyễn Minh Châu là “công việc của
một người đi sau sáng tác chờ anh ta làm được cái gì rồi hạ bút xuống bình phán”
[3, tr301]. Như thế, mối quan hệ lý luận – phê bình – sáng tác nước ta đã đặt ra rất
bức thiết và yêu cầu được giải quyết. Trước thực tế của văn học, Nguyễn Minh
Châu yêu cầu đổi mới lý luận phê bình tức là yêu cầu lý luận “phải đi trước sáng
tác một bước, để dẫn dắt, để tác thành, chứ không phải ngồi chờ đợi và “hành
nghề” căn cứ trên những thành phẩm của người sáng tác” [3, tr302]. Đã đến lúc lý
luận phê bình phải nhìn lại mình để xem mình có đưa ra rào cản cho sáng tác

không, có góp được phần nào vào sự phát triển của văn học nước nhà không. Lý
luận phê bình cũng cần phải xác định cho mình một lập trường vững vàng, một
quan điểm đúng đắn. Phải có một tầm nhìn xa rộng để xác định được con đường,
được chân lý mà văn học cần phải đi đến. Chứng tỏ rằng nhiệm vụ của lý luận phê
bình là rất quan trọng và nặng nề nhất là khi hiện nay trong lý luận phê bình còn
nhiều vấn đề cần giải quyết.
Nguyễn Minh Châu đã tìm ra một giải pháp cho lý luận phê bình nước nhà là
học tập tiếp thu của nước ngoài. Nguyễn Minh Châu còn mong muốn lý luận phê
bình là nơi sáng tác tìm về với sự đồng cảm, sẻ chia, là nguồn động viên lớn. Nếu
như thế, Nguyễn Minh Châu khẳng định sẽ tránh được tình trạng “lý luận phê bình
và sáng tác ngồi quay lưng lại với nhau hay gần như thế” [3, tr304] và văn học mới
sản sinh ra những tác phẩm có giá trị nghệ thuật đích thực. Cuối cùng, để đổi mới
9


lý luận phê bình văn học, Nguyễn Minh Châu đòi hỏi “một không khí trao đổi
tranh luận trong văn học thật cởi mở và bổ ích” [3, tr311]. Bởi theo nhà văn, sự
thật chỉ nảy sinh trong quá trình trao đổi, tranh luận.
Như thế, từ tư cách một người cầm bút, Nguyễn Minh Châu đã đứng vào vị trí
của nhà phê bình để thấy được “cái khó” của họ, đòi hỏi người sáng tác hãy cảm
thông, chia sẻ.
1.2. Quan điểm nghệ thuật và công lao đổi mới văn học của Nguyễn
Minh Châu
1.2.1. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu
Là một nhà văn chân chính, sống giữa khói lửa chiến tranh, trong lúc kẻ thù
đang giày xéo dân tộc, Nguyễn Minh Châu không cho phép mình đi khỏi giới hạn
cho phép mà phải sống hết mình cho ngày hôm nay, phải dùng ngòi bút của mình
để chống lại kẻ thù. Hành động đó nhằm làm theo lời dạy của Bác: “Văn hóa nghệ
thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy” (Hồ Chí
Minh). Nghĩa là mỗi khi sáng tác, người nghệ sĩ không được mơ hồ mà phải xác

định mình đang viết gì? Viết cho ai? Sáng tác đó có nằm trong cái mạch chính của
cuộc sống hay không?
Trong con người Nguyễn Minh Châu, ý thức nghệ thuật hình thành và
phát triển rất sớm. Ngay từ thời đầu cầm bút, Nguyễn Minh Châu tự đặt ra câu hỏi:
Văn học có ý nghĩa gì đối với đời sống và thời đại ngày hôm nay? Nhà văn quan
niệm: “Văn học bao giờ cũng trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ
cũng phải đối mặt với những người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời
sống” (Nhà văn, đất nước, dân tộc mình). Với ông, văn chương thực sự có ý nghĩa
khi viết về cuộc sống và phản ánh cuộc sống. Vì thế, trong lúc này, khi đất nước có
chiến tranh, ông đã dùng ngòi bút của mình để ca ngợi, cỗ vũ, động viên tinh thần
của nhân dân, đồng thời đả kích và phê phán kẻ thù xâm lược. Một nhà văn thành
công là khi anh ta biết nhận ra khuyết điểm và sửa chữa để hoàn thiện chứ không
phải ôm khư khư ý kiến của mình. Ngay từ năm 1971, trong bài Trang sổ tay viết
văn, khi nhìn lại chặng đầu của con đường sáng tác, Nguyễn Minh Châu đã nhận ra
một hạn chế của nhiều tác phẩm: “Hình như cuộc chiến đấu anh hùng sôi nổi hiện
nay đang được văn xuôi và thơ ca tráng lên một lớp men “trữ tình” hơi dày, cho
10


nên ngắm nó thấy mỏng manh, bé bỏng óng suốt quá khiến người ta phải ngờ vực”
[3, tr33]. Nên sau năm 1975, ông là người tiên phong cho phong trào đổi mới văn
học thời kỳ sau chiến tranh. Ngòi bút của nhà văn lúc này không còn bị gò
trong khuôn khổ, trong những định hướng có sẵn nữa mà như trải rộng ra để khám
phá toàn bộ đời sống xã hội và con người với những mặt tốt và mặt xấu của nó.
Đồng thời, ông còn quan điểm: “Văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm
- mà tâm điểm là con người” [3, tr111]. Về vấn đề con người trong sáng tác của
Nguyễn Minh Châu trước năm 1975, ông cho rằng các sự kiện thường lấn át con
người, nhân vật nhiều khi chỉ là phương tiện để nhà văn tái hiện, xâu chuỗi các biến
cố lịch sử. Vì thế, con người trở nên mờ nhạt trước cuộc sống. Từ đó ông rút ra
kinh nghiệm phải viết về con người nhưng con người ở đây không tách rời sự kiện

chiến tranh. Từ trong chiến tranh, ông đã khám phá ra những vẻ đẹp ẩn sâu bên
trong con người. Nếu trước năm 1975, Nguyễn Minh Châu “gắng đi tìm những hạt
ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người” hay bao bọc các nhân vật của mình
trong “bầu không khí vô trùng”, thì sau năm 1975, khi đã có điều kiện tiếp cận con
người trong tính vẹn toàn của nó, ông đã xây dựng con người với những nét chìm
nổi “rất người”. Nhà văn thấy bên trong mỗi con người “đang sống lẫn lộn người
tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” (Bức tranh).
Một nhà văn, ngoài việc đam mê văn chương còn phải có trái tim biết
yêu thương - yêu thương con người. Ông tâm sự: “Tôi không thể nào tưởng tượng
nổi một nhà văn mà lại không mang nặng trong mình tình yêu cuộc sống và nhất là
tình yêu thương con người. Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân
hoan say mê, vừa là một nỗi đau đớn, khoắc khoải, một mối quan hoài thường trực
về số phận, hạnh phúc của những người chung quanh mình. Cần giữ cái tình yêu
ấy trong mình, nhà văn mới có khả năng cảm thông sâu sắc với những nỗi đau khổ,
bất hạnh của người đời, giúp họ có thể vượt qua những khủng hoảng tinh thần và
đứng vững được trước cuộc sống” [3, tr111].
Những quan niệm, nhận thức của Nguyễn Minh Châu cùng với tác phẩm luôn
có sự thống nhất. Quá trình sáng tác cũng là quá trình nhà văn tự trau dồi và hoàn
thiện một cách sâu sắc quan niệm nghệ thuật của mình.

11


1.2.2. Công lao đổi mới văn học của Nguyễn Minh Châu
Với hai chặng đường sáng tác ở hai giai đoạn văn học trước và sau 1975,
Nguyễn Minh Châu có những đóng góp to lớn cho nền văn học hiện đại. Các tiểu
thuyết và truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu trước 1975 khá tiêu biểu cho thành
tựu, đặc điểm và giới hạn của nền văn học sử thi thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.
Đặc biệt, sau 1975 Nguyễn Minh Châu là một trong những “người mở đường tinh
anh và tài năng nhất” (Nguyên Ngọc) của công cuộc đổi mới văn học. Ở Nguyễn

Minh Châu, sự đổi mới mạnh mẽ trong ý thức nghệ thuật luôn đi liền với những tìm
tòi đổi mới trong sáng tác của nhà văn. Người đi tiên phong ấy không tránh khỏi
những khó khăn nguy hiểm, thiệt thòi và sự đơn độc trong những bước khởi đầu
của hành trình tìm kiếm mở đường. Điều quan trọng là Nguyễn Minh Châu “với sự
dũng cảm rất điềm đạm” (Vương Trí Nhàn) đã kiên trì dẫn bước trên con đường đã
chọn của mình. Và ông xứng đáng là “người kế tục xuất sắc những bậc thầy của
nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ
sau này” (Nguyễn Khải). Những đóng góp của Nguyễn Minh Châu trong vai trò
người mở đường cho công cuộc đổi mới văn học được thể hiện chủ yếu ở các
phương diện sau:
Đổi mới ý thức nghệ thuật:
Sự đổi mới văn học phải được bắt đầu từ sự đổi mới các quan niệm về văn
chương, về mối quan hệ của nhà văn với hiện thực và với công chúng. Ngay trong
những năm chiến tranh, khi sáng tác những tác phẩm mang đậm không khí sử thi
hào sảng của thời đại, Nguyễn Minh Châu đã thầm lặng suy nghĩ về những bước
đi sắp tới của nền văn học khi cuộc chiến đấu giành độc lập tự do của dân tộc đã
hoàn thành.
Mở rộng quan niệm về hiện thực và mối quan hệ giữa văn học với đời sống:
Trong bài báo gây tiếng vang sâu rộng đương thời - Hãy đọc lời ai điếu cho
một giai đoạn văn nghệ minh hoạ, Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra giới hạn chật hẹp
của quan niệm về hiện thực trong văn học của ta suốt một thời kỳ dài, mà nhà văn
dùng hình ảnh “Cái hành lang hẹp và thấp” khiến cho mỗi người viết phải tự mình
“bạt bớt chiều cao, thu hẹp bớt chiều ngang để có thể đi lại dễ dàng”. Đó là “thứ
văn nghệ minh hoạ”. Cái nhìn hiện thực không còn bị bó hẹp trong những khuôn
12


khổ có sẵn mà mở ra trong một thực tại đa chiều, luôn biến động và đầy bất ngờ,
như lời Nguyễn Minh Châu: “Cuộc đời vốn đa sự con người thì đa đoan”, mỗi
tác phẩm phải lá sự khám phá những quy luật của đời sống, với ý thức ấy, nhiều

tác phẩm của Nguyễn Minh Châu sau 1975 là những cuộc đối chứng với những
quan niệm, nhận thức hạn hẹp, chủ quan của một thời trong cách nhìn cuộc đời
và con người.
Quan niệm về mối quan hệ giữa văn học và đời sống của Nguyễn Minh Châu
là một quan niệm đặt trên nền tảng tinh thần nhân bản: “Văn học và đời sống là
những vòng tròn đồng tâm mà tâm điểm là con người” [3, tr111], “Nhà văn tồn tại
ở trên đời có lẽ trước hết là vì thế: để làm công việc giống như kẻ nâng giấc cho
những người cùng đường, tuyệt lộ, bị cái ác hoặc số phận đen đủi dồn con người ta
đến chân tường, những con người cả tâm hồn và thể xác bị hắt hủi và đoạ đầy đến
ê chề, hoàn toàn mất hết lòng tin vào con người và cuộc đời để bênh vực cho
những con người không có ai để bênh vực” [3, tr165].
Ý thức cao độ về bản lĩnh và trách nhiệm của nhà văn:
Cùng với việc phê phán mạnh mẽ để từ bỏ thứ “Văn nghệ minh hoạ” Nguyễn
Minh Châu cũng chỉ rõ sự hạn chế của việc nhà văn “chỉ được giao phó nhiệm vụ
truyền đạt của chủ trương chính sách bằng hình tượng sinh động”. Điều đó dẫn
đến hậu quả là “nhà văn đánh mất cái đầu và tác phẩm đánh mất tính tư tưởng”.
Với một tinh thần nghiêm khắc tự nhìn lại mình và đội ngũ nhà văn, Nguyễn Minh
Châu đã thẳng thắn chỉ ra sự thiếu hụt về bản lĩnh, thói quen che chắn, rào đón do
một cái sợ cố hữu luôn ám ảnh, đến nỗi không ít người tự đánh mất mình. Cùng với
việc thức tỉnh ý thức về bản thân và tự do sáng tạo của người cầm bút, Nguyễn
Minh Châu luôn tự nhắc nhở về trách nhiệm cao cả của nhà văn. Nhà văn phải là
người thức tỉnh xã hội và cảnh báo trước những nguy cơ đến với nhân loại. Nhưng
trước hết, người cầm bút phải là người có tình yêu tha thiết với cuộc sống, nhất là
với con người.“ Tình yêu này của người nghệ sĩ vừa là một niềm hân hoan say mê,
vừa là một nỗi đau đớn khắc khoải, một mối quan hoài thường trực về số phận,
hạnh phúc của những người chung quanh mình…” [3, tr111]. Nhà văn có trọng
trách của nhà văn hoá: “Chúng ta có nhiệm vụ chăm chút, gìn giữ cho đất nước
những cái gì thật lâu đời, bền chặt, mà cũng thật là mỏng manh: tính thật thà,
13



hồn hậu, niềm tin nền phong hoá nhân bản, tính bẽn lẽn cả thẹn của người phụ nữ,
ý thức cộng đồng dân tộc tạo nên khí phách anh hùng, lòng trung thực và tính giản
dị ...” [3, tr112].
Ý thức về tự do sáng tạo của người nghệ sĩ:
Nguyễn Minh Châu là người sớm nói lên khát vọng dân chủ trong đời sống
văn nghệ và tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, điều mà nhà văn trăn trở từ lâu,
nhưng chỉ có thể bộc lộ khi có công cuộc đổi mới. Ông đã nhận thấy, suốt một thời
gian dài nhà văn của ta “chỉ được giao phó công việc như một cán bộ truyền đạt
đường lối, chính sách bằng hình tượng văn học sinh động”, đội ngũ cầm bút được
“chăm sóc, chăn dắt quá kỹ lưỡng” để không đi chệch khỏi định hướng nhiệm vụ
đó. Ông cũng nói thẳng về tình trạng mất dân chủ đã tồn tại quá lâu trong đời sống
văn nghệ: sự áp đặt của lãnh đạo văn nghệ, sự “cảnh giác” quá mẫn cán của giới
phê bình. Tất cả điều đó đã dẫn đến nền văn nghệ minh họa và sự mai một tài năng
và cá tính của nhà văn. Ông tha thiết kêu gọi “…khuyến khích cá tính, khuyến khích
sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp nhận sáng tối, hoàn toàn đặt long tin vào
lương tri của các nhà văn, không nửa tin nửa nghi ngờ và đề phòng, để cho văn
nghệ một khoảng đất rộng rãi hơn” [3, tr138].
Đổi mới cách nhìn và sự khám phá về con người:
Từng quan niệm “văn học và đời sống là những vòng tròn đồng tâm mà tâm
điểm là con người ”, Nguyễn Minh Châu trước sau đều hướng ngòi bút của mình
vào việc khám phá và thể hiện con người. Nhưng sự nhận thức của nhà văn về con
người cũng là một quá trình mở rộng và đào sâu trên cả hành trình sáng tác. Trong
những năm chiến tranh, khi hướng tới sự khái quát bức tranh lịch sử với cảm hứng
sử thi lãng mạn, Nguyễn Minh Châu đã tập trung thể hiện những vẻ đẹp cao cả
cùng với “những hạt ngọc ẩn giấu trong bề sâu tâm hồn con người”. Những nhân
vật thành công của Nguyễn Minh Châu, dù ít nhiều có nét riêng, nhưng vẫn nằm
trong khuôn mẫu chung của nhân vật sử thi mà tính loại hình nổi trội hơn tính cá
biệt. Sau chiến tranh, Nguyễn Minh Châu đã dần đi tới quan niệm toàn vẹn và đa
chiều về con người. Vượt qua quan niệm còn phiến diện và một chiều của văn học

sử thi, nhà văn tiếp cận con người trên nhiều bình diện và nhiều tầng bậc: con
người thế sự, đời tồn tại cùng với con người xã hội - lịch sử, con người trong tính
14


cá thể riêng biệt và tính nhân loại phổ quát… Hứng thú nhất với ngòi bút Nguyễn
Minh Châu là khám phá cái thế giới bên trong, đầy bí ẩn của con người, lật xới vào
những tầng đáy sâu của tâm lí, tư tưởng, cả tiềm thức và tâm linh của con người.
Với cái nhìn mới của nhà văn, con người hiện ra không còn thuần nhất mà là
trong tính lưỡng diện, đa diện và luôn biến động không ngừng. Dù vậy, nhà văn
vẫn đặt niềm tin ở con người, muốn dùng ngòi bút tham gia trợ lực cho con người
trong cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, thức tỉnh ở con người ý thức tự vấn để
hướng tới hoàn thiện.
Từ sự đổi mới cách nhìn con người, Nguyễn Minh Châu đã đạt đến nhiều
thành công trong sự khám phá và thể hiện con người. Thế giới nhân vật trong sáng
tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975, mà chủ yếu ở các truyện ngắn, gồm ba kiểu
loại chính: nhân vật tư tưởng, nhân vật thế sự và nhân vật tính cách - số phận. Mỗi
kiểu loại nhân vật ấy đều có khả năng và giá trị riêng trong việc khám phá và thể
hiện con người. Các nhân vật tư tưởng (như người hoạ sĩ trong Bức tranh, nhà văn
T trong Sắm vai, Nhĩ trong Bến quê) không phải là đại diện cho một loại người,
một giai tầng xã hội, cũng không được chú trọng làm nổi bật tính cách, mà là
phương tiện để nhà văn trình bày phát hiện của mình về một vấn đề tư tưởng, đạo
đức hay để chiêm nghiệm về quy luật của đời sống. Những nhân vật này thường
xuất hiện trong các truyện mang tính luận đề và dễ có nguy cơ trở thành cái loa
phát ngôn cho tư tưởng của tác giả. Nhưng may mắn là các nhân vật tư tưởng của
Nguyễn Minh Châu nhờ sự hiểu biết lẽ đời và khả năng phân tích tâm lý con người
của tác giả mà khôngt bị trở thành khô cứng, thiếu sức sống. Quan sát những con
người xung quanh mình trong dòng đời tưởng như bình lặng, nhà văn qua các nhân
vật thế sự đã nhắc nhở mọi người về các quan hệ ứng xử, về các thói quen và cách
sống đang tiềm ẩn trong đó những điều bất ổn cả những nguy cơ về đạo đức và lối

sống. Đó có thể là sự vô tâm đến thành bạc bẽo vô ơn của đứa con gái đối với
người mẹ - Mẹ con Chị Hằng, là sự nhiệt tình tốt bụng, nhưng nông nổi, hấp tấp
của Cô Hoằng đã gây ra không ít sự phiền nhiễu cho mọi người trong khu tập
thể (Người đàn bà tốt bụng). Đó còn là những người đàn bà trong một khu tập thể
vốn không phải là những người xấu, nhưng do hành động theo thói tục, cả thói
“ngồi lê đôi mách của họ” đã gián tiếp dẫn đến cái chết thương tâm của Cô
15


Thoan “Đứa ăn cắp”. Những nhân vật thế sự ấy hầu như không có thói quen tự
nhìn lại mình, họ không nghĩ đến hậu quả của lối sống và cách ứng xử của mình.
Nhà văn muốn cảnh tỉnh người đời về hậu quả của thói tục đời thường của sự thờ ơ
vô trách nhiệm với người khác. Nhân vật thế sự còn là phương tiện để nhà văn
khám phá những quy luật nhân sinh trong đó bao gồm cả không ít những nghịch
lý (Hương và Phai, Chiếc thuyền ngoài xa).
Nền tảng của mọi cách tân là tinh thần nhân bản:
Với quan điểm nhân bản, Nguyễn Minh Châu thể hiện sự cảm thông sâu sắc
với những con người bị số phận dồn đẩy vào những bi kịch không thể nào thoát ra
được. Chiến tranh chẳng những đã phạt ngang cuộc đời của Lực và Thai ra làm hai
nửa, mà còn đem đến số phận bi kịch cho hầu khắp mọi nhân vật trong Cỏ lau. Tất
cả họ đều là nạn nhân của chiến tranh với những mất mát không thể nào bù đắp
được những cuộc đời dang dở và không có gì chờ đợi họ ở phía trước. Nếu Hạnh
(Bên đường chiến tranh) là biểu tượng cho tình yêu và niềm tin ở người phụ nữ vẫn
cất giữ vẹn nguyên qua bao nhiêu biến động, của chiến tranh và thời gian thì Quỳ
(Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) lại là một tính cách, có vẻ dị biệt nhưng
thật độc đáo và đầy sức ám ảnh. Người phụ nữ ấy với rất nhiều khả năng và cũng
rất nhiều ham hố, luôn khát khao đi tìm cái tuyệt đối, luôn hành động một cách
khác thường, để rồi phải dành cả đời mình để sửa chữa những lầm lạc, cực đoan
của chính mình. Nếu lão Khúng trong Khách ở quê ra mới chỉ xuất hiện như 1 tính
cách nông dân độc đáo có phần dị biệt, thì trong thiên tuyệt bút Phiên chợ Giát lại

là cả một cuộc đời, một số phận hay “một giả thuyết về thân phận người nông dân”
(Hoàng Ngọc Hiến). Hiện ra qua dòng độc thoại, hồi tưởng của nhân vật đặt trên
nền cảnh của bao nhiêu sự kiện, biến động xã hội, lịch sử. Trong lão chứa đựng rất
nhiều mặt trái ngược, mâu thuẫn nhưng vẫn là một “thực thể tự nó”, vừa mạnh mẽ
vừa yếu đuối, tỉnh táo sáng suốt mà lại u tối hoang dại, mang thân phận “người bò”. Vừa gắng vùng vẫy để giải thoát lại vừa bất lực, chấp nhận. Sau Chí Phèo, Lão
Hạc của Nam Cao và một số hình tượng nông dân đặc sắc khác trong văn học hiện
thực trước 1945, lão Khúng của Nguyễn Minh Châu nổi bật lên như một hình
tượng độc đáo, có sức khái quát lớn về người nông dân Việt Nam, đồng thời đặt ra
một cách da diết nhiều vấn đề về nhân sinh và lịch sử.
16


Những tìm tòi đổi mới trong nghệ thuật tự sự:
Cùng với những đổi mới trong quan niệm và cách tiếp cận hiện thực và con
người, ngòi bút Nguyễn Minh Châu đã có nhiều tìm tòi, thể nghiệm để đổi mới
cách viết, mà nổi lên là nghệ thuật xây dựng nhân vật và nghệ thuật trần thuật.
Tương ứng với sự mở rộng các loại hình nhân vật trong sáng tác sau 1975,
Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nhiều thủ pháp khắc họa
nhân vật, mà đặc sắc hơn cả là miêu tả tâm lý, sử dụng độc thoại nội tâm. Từ những
nhân vật được định hình, luôn “trùng khít với chính” nó trong những tác phẩm
mang âm hưởng sử thi, nhà văn đã đi tới khám phá “Con người bên trong con
người”, phát hiện ra “Con người không trùng khít với bản thân mình” và những quy
luật rất phức tạp của đời sống tâm lý bên trong con người. Nếu như trước đây, diễn
biến tâm lý của các nhân vật thường theo một chiều thuận, ít nhiều còn đơn giản,
thì nay tâm lý nhân vật thường được hiện ra trong những sung đột bên trong, thầm
lặng mà gay gắt, với những diễn biến quanh co, những bất ngờ khó đoán định được.
Các yếu tố, sự kiện bên ngoài: chỉ là những tác nhân để kích thích, khêu gợi các
trạng thái tâm lí với những hồi tưởng, suy tư của nhân vật. Độc thoại nội tâm được
khai thác như một thủ pháp quan trọng nhất để các nhân vật tự hiện diện đời sống
bên trong của nó, đặc biệt là loại nhân vật tư tưởng, nhưng cũng không thiếu ở các

nhân vật tính cách, các thân phận đời tư. Thủ pháp này đạt đến sự thuần thục,
nhuần nhuyễn và hiệu quả cao trong Phiên chợ Giát.
Nghệ thuật trần thuật của Nguyễn Minh Châu cũng có nhiều tìm tòi. Đáng chú
ý là sự nới lỏng cốt truyện, tạo tình huống, việc thay đổi linh hoạt điểm nhìn trần
thuật, sử dụng thường xuyên các biểu tượng và đổi mới giọng điệu trần thuật.
Những đổi mới nói trên của Nguyễn Minh Châu đã được thể hiện ngay từ nửa
đầu những năm 80, khi công cuộc đổi mới văn học chưa chính thức bắt đầu. Điều
đó đã khiến Nguyễn Minh Châu có được vai trò của người mở đường đầy khó khăn
nhưng cũng rất vinh dự.
1.3. Tâ ̣p tiể u luâ ̣n Trang giấ y trước đèn
Tâ ̣p tiể u luâ ̣n Trang giấ y trước đèn là tập hợp những trang tiểu luận, những bài
viế t và đánh giá của Nguyễn Minh Châu về văn ho ̣c Viê ̣t Nam thời kỳ đổ i mới đươ ̣c
Tôn Phương Lan tâ ̣p hơ ̣p và cho ra mắ t ba ̣n đo ̣c năm
qua đời).
17

1996 (bảy năm sau khi ông


Những bài viế t đươ ̣c in trong tâ ̣p tiể u luâ ̣n là những bài chưa từng đươ ̣c in vào
tâ ̣p sách riêng nào trước đây của Ng uyễn Minh Châu . Tâ ̣p tiể u luâ ̣n gồm 36 bài
viết, chia làm ba phầ n chin
́ h – ba khu vực mà sinh thời Ngu yễn Minh Châu rấ t tâm
huyế t phê bin
̀ h – tiể u luâ ̣n, chân dung văn ho ̣c và kinh nghiê ̣m sáng tác qua đó bô ̣c
lô ̣ tài năng , tâm huyế t cũng như những quan điể m , đánh giá của ông đố i với văn
chương và nghê ̣ thuâ ̣t đương thời.
Tiể u luâ ̣n – phê bình là phầ n đươ ̣c tác giả đă ̣c biê ̣t quan tâm với

18 bài viết,


sáng tác chủ yếu trong thời gian từ 1971 đến 1989, tiêu biể u như Trang giấ y trước
đèn (1976); Nhà văn, nhân vật, bạn đọc (1980); Tác dụng kỳ diệu của tác phẩm văn
học (1983); Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghê ̣ minh họa (1987); Tản
mạn về văn học (1989)… Những vấ n đề mà Nguyễn Minh Châu đă ̣t ra là những
vấ n đề cơ bản và thường viế t với tinh thầ n nghiêm túc . Ông chỉ viế t tiể u luâ ̣n phê
bình khi đã có một bề dày về thời gian cầm bút, mô ̣t sự từng trải trong nghề nghiê ̣p.
Nét nổi bật nhất trong loạ t bài chân dung văn ho ̣c là từ lơ ̣i thế của mô ̣t người
sáng tác có tâm huyết , có tay nghề , có thói quen nghiền ngẫm cân nhắc khi xử lý
các loại nhân vật , từ sự giao cảm sâu sắ c với đồ ng nghiê ̣p , ông biế t soi thấ u , chọn
lựa, biế t nắ m bắ t lấ y cái thầ n của đố tươ ̣ng để dựng lấ y chân dung văn ho ̣c của
riêng mình . Trong tâ ̣p tiể u luâ ̣n này tâ ̣p hơ ̣p 9 bài viết về chân dung văn học của
ông. Viế t về chân dng đồ ng nghiê ̣p, Nguyễn Minh Châu đã tự bô ̣c lô ̣ chân dung của
mình: mô ̣t cây bút linh hoa ̣t, tinh tế và rấ t giàu năng lực quan sát, cảm thụ.
Phầ n cuố i của tâ ̣p tiể u luâ ̣n là những bài viế t về kinh nghiê ̣m sáng tác của
Nguyễn Minh Châu (Tôn Phương Lan tâ ̣p hơ ̣p đươ ̣c 9 bài viết).
Tập tiểu luận Trang giấ y trước đèn đươ ̣c Tôn Phương Lan tâ ̣p hơ ̣p trong hoàn
cảnh những cơn bạo bệnh đến đột ngột khiến cho nhiều dự định của Nguyễn Minh
Châu, trong đó có viê ̣c viế t thêm bài ở liñ h vực này đã không thực hiê ̣n đươ ̣c. Cũng
trong thời gian này chin
́ h Nguyễn Minh Châu đã đề nghi ̣đă ̣t tên cho tâ ̣p tiể u luâ ̣n –
phê bin
̀ h: Trang giấ y trươc đèn.
Tiể u kế t: Nguyễn Minh Châu là nhà văn có ảnh hưởng quan tro ̣ng đố i với văn
học Việt Nam trong giai đoạn chiế n tranh và thời kỳ đầ u của đổ i mới . Không chỉ là
mô ̣t nhà văn , đồ ng thời ông còn xuấ t hiê ̣n với tư cách của mô ̣t nhà phê bình văn
học, có đóng góp to lớn cho nèn văn học nước nhà.
18



Lô ̣ trình nghê ̣ thuâ ̣t của Nguyễn Minh Châu là lô ̣ trình của mô ̣t nghê ̣ si ̃ cách
mạng với ý nghĩa đích thực của nó bởi cả cuộc đời , ông đã vươ ̣t lên mo ̣i hoàn cảnh
để lao động , để kiếm tìm . Thành quả của ông trong tác phẩm văn chương , trong
tiể u luâ ̣n phê bin
̀ h cầ n đươ ̣c ghi nhâ ̣n như mô ̣t đóng góp xuấ t sắ c , đă ̣c biê ̣t, ở thời
kỳ đổi mới, và ông, với tư cách là người mở đường.
Nguyễn Minh Châu đươ ̣c coi là người mở đường xuấ t sắ c cho văn ho ̣c Viê ̣t
Nam thời kỳ đổ i mới . Nói như Nguyễn K hải, sau này đã có người đứng trên vai
ông để mà to lớn hơn nhưng vi tri
̣ ́ tiên phong và những cố ng hiế n có tiń h chấ t khai
phá của ông là không thể phủ nhận . Tìm ra hướng đi mới cho văn học cả trên bình
diê ̣n nô ̣i dung phản ánh lẫn bút pháp thể hiê ̣n nhà văn đã công khai với ba ̣n đo ̣c mô ̣t
cách viết mới : hiê ̣n đa ̣i mà vẫn đâ ̣m đà truyề n thố ng . Ông đã đi đươ ̣c mô ̣t chă ̣ng
đường xa, dù nhọc nhằn nhưng thật nhiều ý nghĩa . Từ Nguyễn Minh Châu vấ n đề
con người với số phâ ̣n riêng cùng vô vàn trăn trở lo âu đã đươ ̣c văn ho ̣c quan tâm
khai thác ở cách nhin
̀ mới . Hình như ông tự mình bức phá và giúp một thế hệ nhà
văn dám “bước qua lời nguyề n”, từ giã “cái thời lañ g ma ̣n” để đế n với mô ̣t thứ văn
chương chân thành hơn. Ở đó con người được sống thật, không phải cố tỏ ra “trùng
khít với chính mình, với bộ áo xã hội củ nó một cách đau đớn, giả dối” (Bakhtin).
Tâ ̣p tiể u luâ ̣n Trang giấ y trước đèn – đúng như cái tên của nó cho thấy – người
nghê ̣ si ̃ này đã rấ t ý thức về trách nhiê ̣m của ngòi bút mình trước nhân dân
cuô ̣c số ng.

19

, trước


CHƢƠNG 2: QUAN ĐIỂM CỦ A NGUYỄN MINH CHÂU VỀ VĂN HỌC VÀ

NHÀ VĂN QUA TẬP TIỂU LUẬN TRANG GIẤY TRƯỚC ĐÈN
2.1. Quan điể m của Nguyễn Minh Châu về văn ho ̣c
2.1.1. Quan điểm về tính thời sự của văn học
Nguyễn Minh Châu nhấn mạnh tới tính thời sự vì đó là điều nhà văn tâm đắc
nhất, vì nhà văn nhận thấy thực trạng văn học sau chiến tranh của ta đang đi sau
cuộc sống. Ông đã khẳng định: “Tác phẩm văn học phải là một thứ vũ khí trên mặt
trận tư tưởng và ít nhiều mang tính thời sự” [3, tr43]. “Văn học bao giờ cũng phải
trả lời những câu hỏi của ngày hôm nay, bao giờ cũng phải đối thoại với những
người đương thời về những câu hỏi cấp bách của đời sống.” [3, tr78].
Chính vì thế, thời sự trong văn học phải được hiểu như cái hiện thời, cái đang
có của hôm nay, cái mà toàn xã hội đang quan tâm, dõi theo.Tính thời sự trong văn
học mà Nguyễn Minh Châu nhắc tới phải gắn với không gian, thời gian lịch sử
đang diễn ra. “Ngày” được hiểu rộng ra là thời đại, là năm tháng. Ngày hôm nay,
tức cái khoảng thời gian hiện thời, cái nhất thời mà người dân đang quan tâm nóng
bỏng chứ không phải là những điều đã xảy ra “ngày hôm qua”.
Tính thời sự cũng chỉ được hiểu một cách tương đối. Bởi có trường hợp chính
những vấn đề của quá khứ xa xưa nếu cho tới hôm nay vẫn là những vấn đề mà
người dân còn quan tâm, còn có ý nghĩa với cuộc sống thì nó vẫn còn nguyên tính
thời sự. Tính thời sự cần được hiểu một cách không cứng nhắc, không phải chỉ cái
hiện tại mà mà có khi là cả cái quá khứ, cái tương lai. Chính vì thế, mỗi khi cầm
bút, Nguyễn Minh Châu luôn thận trọng lựa chọn viết cái gì thật cần thiết và cấp
bách, kịp thời nhất đưa đến độc giả hôm nay.
 Tính thời sự là một yêu cầu của đối tượng độc giả
Đổi mới trong suy nghĩ, quan niệm của Nguyễn Minh Châu không chỉ ở đề tài,
chất liệu, cách thức viết văn… mà theo nhà văn, muốn thành công phải đổi mới cả
trong suy nghĩ của chính người cầm bút khi xác định đối tượng của văn học. Nhà
văn đã nhận thấy đối tượng của văn học phải bao gồm đối tượng phục vụ của văn
học (người đọc) và đối tượng phản ánh của văn học (hiện thực cuộc sống). Qua
những sáng tác của mình, ông đã thể hiện rất rõ sự đổi mới trên.
20



Đối tượng thưởng thức của văn học cũng mang tính thời sự . Nó cần phải thay
đổi theo thị hiếu của người đọc mỗi thời. Nguyễn Minh Châu đã nói với những
người cùng cầm bút rằng: “ Đừng bao giờ nên coi nhẹ tầm quan trọng của thị hiếu
người đọc, vì chính đó là cái nôi để cho tác phẩm thế này hoặc thế khác ra đời và
sống được.” [3, tr58]. Thị hiếu người đọc cho chúng ta biết đối tượng thưởng thức
của văn học mỗi thời kỳ là những ai? Họ mong muốn được đọc những tác phẩm
như thế nào?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12.1986 thực sự mở ra một chặng
đường mới cho cách mạng Việt Nam. Từ đây, đổi mới văn học bắt đầu vươn rộng
không chỉ ở phía người cầm bút mà cả ở phía người thưởng thức. Đối tượng thưởng
thức văn học đã khác trước. Không còn chỉ là người lính viết về mình và cho mình
nữa mà đã đủ mọi tầng lớp trong xã hội. Với những đòi hỏi phức tạp hơn, yêu cầu
cao hơn. Họ “…là những người hết sức từng trải về chính trị và đời sống, là những
người đang xây dựng chủ nghĩa xã hội và cầm súng đánh Mỹ. Họ là những người
đã làm chủ đất nước và cuộc đời mình” [3, tr290].
Chính đối tượng tiếp nhận mới, phong phú, đông đảo, rộng khắp, có trình độ
đã khiến cho văn học Việt Nam dấy lên một không khí đổi mới chưa từng có xưa
nay. Người đọc cũng như những người cầm bút đều hiểu rằng, chính họ chứ không
phải là một nguyên do nào khác đã khiến cho văn học buộc phải đổi mới. Đổi mới
là vấn đề sống còn lúc này để tìm lại chính mình. Đổi mới bắt nguồn từ chính nhu
cầu của đối tượng thưởng thức văn học.
 Tính thời sự trong nội dung của tác phẩm văn học
Trong công cuộc đổi mới văn học, khi mà đối tượng thưởng thức đã không
còn đơn điệu như trước nữa, khi mà người đọc đòi hỏi phải có những sáng tác
mang hơi thở, sức sống của đời thường, thì buộc những người cầm bút phải đổi mới
về nội dung trong sáng tác của mình.
Nguyễn Minh Châu cho chúng ta hiểu rằng nội dung phản ánh của văn học
cũng phải mang tính thời sự, có ý nghĩa thời sự. Vấn đề toàn dân tộc quan tâm bây

giờ là đổi mới đất nước, văn học phải viết về những điều đó. Vấn đề mà độc giả
vẫn dành sự quan tâm nhiều nhất là chiến tranh và người lính, sự sống còn của dân
tộc mình. Ngoài ra, còn là những nội dung mà Nguyễn Minh Châu đã viết khá
21


thành công như thời bình với những lo toan thường nhật, thói tật của con người, sự
phức tạp của chính giới mình, những hạn chế của văn học trong 35 năm qua.
Bàn đến những nội dung trên, Nguyễn Minh Châu đã nhận thấy tính hai mặt
của vấn đề. Người đọc quan tâm hơn tới những khía cạnh mà trước kia văn học cố tình
“né tránh” nên bây giờ nhiệm vụ của văn học phải lấp được những “khoảng trống” của
văn học thời chiến để lại. Nhưng tính thời sự của văn học biểu hiện ở khía cạnh nội
dung phản ánh cũng có tính tương đối của nó. Không phải cứ viết về những vấn đề
cuộc sống hôm nay là tác phẩm đó đã mang tính thời sự. Có nhiều tác phẩm viết về
một nội dung đã cũ nhưng lại làm dấy lên làn sóng tranh luận, trao đổi.
Về đề tài chiến tranh và người lính, người đọc mong muốn được đọc những gì
chân thực nhất về cuộc chiến về con người mà trước kia vì nhiều lí do, họ cố gắng
quên đi, không đòi hỏi. Một nội dung nữa mà Nguyễn Minh Châu rất chú tâm đổi
mới, đó là cuộc sống thời bình với những lo toan thường nhật, những thói tật của
con người mà trước kia ở thời chiến, vì nhiều mối quan tâm lớn hơn nên nó không
lộ diện hoặc không có cơ hội phát triển. Về những phức tạp của chính giới mình,
Nguyễn Minh Châu cũng rất quan tâm qua những truyện ngắn Bức tranh, Dấu vết
nghề nghiệp, Sắm vai, Chiếc thuyền ngoài xa… Nguyễn Minh Châu còn thể hiện sự
đổi mới của ngòi bút mình qua việc đề cập đến những hạn chế của văn học trong 35
năm qua. Vấn đề nóng bỏng này đã làm dấy lên một không khí tranh luận cởi mở
nhưng cũng không kém phần gay gắt khi nhiều người cho rằng nhà văn có vấn đề
về lập trường, quan điểm. Thời sự văn học nước nhà những năm sau đổi mới nhờ
vậy mà có không khí trao đổi, tranh luận hơn chứ không tĩnh lặng như trước .
2.1.2. Tính trường tồn của văn học
Tính trường tồn của văn học thể hiện ở sức sống của hình tượng và tính kế

thừa của nó.
 Sức sống của hình tượng
Hình tượng nghệ thuật là “…các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện một
cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật.” [8, tr122]. Sức sống lâu bền của
các hình tượng nghệ thuật đã tạo ra tính trường tồn của văn học. Người viết nào có
tài sẽ biến được cái chốc lát mang tính thời sự thành cái vĩnh viễn, có tính trường
tồn thông qua các hình tượng nghệ thuật.
22


×