Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

skkn lịch sử và địa lý thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (858.04 KB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN </b>

Trong thời gian qua, nhất là từ khi Đảng ta tiến hành công cuộc đổi mới đã coi giáo dục là quốc sách hàng đầu thì vai trị, vị trí của mơn Lịch sử không ngừng được củng cố và nâng cao. Lịch sử có một vị trí và ý nghĩa quan trọng đối với việc giáo dục thế hệ trẻ. Từ những hiểu biết về quá khứ, học sinh sẽ hiểu rõ truyền thống dân tộc, tự hào với truyền thống dựng nước và giữ nước của ông cha, xác định nhiệm vụ hiện tại và có thái độ đúng với quy luật của tương lai nhất là đối với học sinh lớp 9 cuối cấp trung học cơ sở.

Xuất phát từ thực tiễn giáo dục, chức năng,nhiệm vụ, đặc trưng của bộ môn Lịch sử và yêu cầu đổi mới giáo dục cũng như thực tiễn dạy học bộ môn, việc biên soạn sách giáo khoa Lịch sử trung học cơ sở ở Việt Nam có nhiều đổi mới về nội dung và phương pháp. Sách giáo khoa Lịch sử hiện nay được biên soạn không chỉ là tài liệu giảng dạy của giáo viên mà còn là tài liệu học tập ở lớp và ở nhà của học sinh theo định hướng mới. Đó là, học sinh khơng phải học thuộc lịng sách giáo khoa mà cần phải tìm tịi, nghiên cứu những sự kiện có trong sách giáo khoa dưới sự tổ chức, hướng dẫn, giúp đỡ của giáo viên ở những tiết học bài mới. Từ đó các em tự hình thành cho mình những hiểu biết mới về lịch sử theo một hệ thống kiến thức một cách có trình tự, lơ gic.

Tuy nhiên,do có những nhận thức sai lệch về vị trí, chức năng của bộ mơn trong đời sống xã hội dẫn đến sự giảm sút chất lượng bộ mơn trên nhiều mặt. Tình trạng học sinh khơng biết những sự kiện lịch sử cơ bản, nhớ sai, nhầm lẫn những kiến thức lịch sử là hiện tượng khá phổ biến ở nhiều trường hiện nay.

Để học sinh cấp trung học cơ sở hiểu đúng lịch sử dân tộc, thực hiện được mục tiêu cao đẹp của bộ mơn Lịch sử thì vai trị của người giáo viên trong việc phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh trong học tập là hết sức quan trọng.

Vậy làm thế nào giúp học sinh phát huy được tính chủ động, tích cực, nắm bắt và làm chủ được những kiến thức trong mơn học Lịch sử? Có rất nhiều biện pháp như: sử dụng đồ dùng trực quan, hướng dẫn học sinh ghi nhớ sự kiện, nắm vững và sử dụng sách giáo khoa, vở bài tập, ngoại khóa, rèn luyện cho học sinh kĩ năng ơn tập Lịch sử …từ đó góp phần giúp học sinh phát triển khả năng tư duy, phân tích, so sánh đối chiếu và khái quát được các kiến thức đã học một cách có hiệu quả nhất, đồng thời giảm bớt số lượng học sinh yếu kém trong nhà trường và phát huy hết năng lực của các em khá giỏi. Quá trình hoạt động chung thống nhất

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

giữa thầy và trò sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành được kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh, đồng thời góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách cho các em. Chính vì thế giáo viên với tư cách là người tổ chức,hướng dẫn,phát huy tính tích cực chủ động của học sinh trong quá trình ôn tập ,cần phải nắm được những điểm mới của sách giáo khoa nói chung,hệ thống kiến thức trọng tâm trong sách giáo khoa nói riêng, giáo viên phải thực sự sáng tạo, linh hoạt trong quá trình giảng dạy trên lớp, đặc biệt là khả năng trình bày sự kiện Lịch sử một cách ngắn gọn, dễ nhớ nhưng phải đảm bảo đầy đủ, chính xác, khắc phục được những tồn tại, thiếu sót trong dạy và học, nhất thiết phải bỏ kiểu dạy thầy đọc –trò chép, trả lời theo sách mà khơng có những sáng tạo chủ động trong quá trình lãnh hội kiến thức của học sinh. Việc học sinh nắm chắc được kiến thức bài học và hiểu sâu sắc hơn các sự kiện, hiện tượng, nhân vật Lịch sử là một vấn đề hết sức quan trọng trong dạy học lịch sử hiện nay.

Là một giáo viên dạy học môn Lịch sử ở trường Trung học cơ sở, bản thân tôi

<i><b>luôn trăn trở làm thế nào để phát huy tính tích cực của học sinh và bồi dưỡng tinh </b></i>

thần u thích mơn học ở từng khóa học, chương, bài học cụ thể….đó chính là lí

<i><b>do tơi lựa chọn đề tài “Một số biện pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học môn Lịch sử cấp THCS” , với mong muốn góp phần nhỏ vào việc thay đổi phương pháp và nâng cao chất lượng bộ môn. </b></i>

<b>II. MƠ TẢ GIẢI PHÁP </b>

<b>1. Mơ tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến 1.1. Cơ sở lí luận môn học </b>

Việc học tập Lịch sử, cũng như học tập bất cứ bộ môn nào ở nhà trường đều nhằm cung cấp kiến thức khoa học, hình thành thế giới quan khoa học, phẩm chất đạo đức chính trị cho học sinh.

Trong những năm qua khi thực hiện chương trình thay sách giáo khoa, việc đổi mới phương pháp dạy học đã được nhiều người quan tâm và khẳng định vai trò quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học trong việc nâng cao chất lượng dạy học.. Bộ môn Lịch sử cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ sở của khoa học lịch sử, nên địi hỏi học sinh khơng chỉ nhớ mà còn phải hiểu và vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Vì vậy cùng với các môn học khác, việc học tập Lịch sử địi hỏi phát triển tư duy, thơng minh, sáng tạo. Đã có quan niệm sai lầm cho rằng học Lịch sử chỉ cần học thuộc lòng sách giáo khoa, ghi nhớ các sự kiện - hiện tượng lịch sử là đạt, không cần phải tư duy - động não, khơng có bài tập thực hành,… Đây là một trong những nguyên nhân làm suy giảm chất lượng môn học.

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Điều quan trọng nhất trong trong việc đổi mới phương pháp dạy học là làm thế nào để học phát huy được tính tích cực, chủ động học sinh trong quá trình dạy học . Từ đó rèn luyện năng lực tư duy, khả năng sáng tạo, phát triển trí tuệ, trí thơng minh…của học sinh nói chung, được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học hiện đại. Vì vậy, then chốt của việc đổi mới phương pháp dạy học là điều chỉnh mối quan hệ giữa tái hiện và sáng tạo, đến việc tăng cường các phương pháp sáng tạo nhằm đổi mới tính chất hoạt động nhận thức của học sinh trong quá trình dạy học.

Muốn làm được việc này phải thông qua các thao tác tư duy như: Đối chiếu, so sánh, phân tích, tổng hợp...vạch ra dấu hiệu bản chất. Q trình này khơng tự diễn ra mà địi hỏi phải có sự kích thích nhất định cho tư duy. u cầu tìm ra bản chất của sự kiện, hiện tượng quá khứ là những biểu hiện của những nhiệm vụ nhận thức nảy sinh ra trên cơ sở tri giác. Chính các câu hỏi “như thế nào?”, “tại sao?”... sẽ kích thích óc tìm tịi, sự phân tích, so sánh và khái quát hoá của học sinh. Như vậy, trong các hoạt động nhận thức lịch sử của học sinh (tri giác, nhớ, hình dung, tưởng tượng, tư duy...) thì tư duy có vai trị quan trọng.

Việc phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học Lịch sử có ý nghĩa quan trọng.

Trước hết, tích cực, chủ động, độc lập trong nhận thức đặc biệt là trong tư duy sẽ đảm bảo cho các em lĩnh hội sâu sắc và nhớ lâu kiến thức.

Thứ hai, phát triển tính tích cực, chủ động, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư duy là phương tiện tốt để hình thành kiến thức, khơi dậy những xúc cảm lịch sử, kích thích hứng thú học tập, tạo cơ sở để giáo dục tư tưởng, tình cảm học sinh.

Ngoài ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục, phát triển tính tích cực, chủ động, độc lập trong nhận thức, đặc biệt trong tư duy còn là phương thức tốt góp phần phát huy các năng lực nhận thức, năng lực thực hành, kĩ năng, kĩ xảo của học sinh nói chung và rèn luyện các thao tác cũng như chất lượng của tư duy nói riêng.

<b>1.2. Thực trạng dạy và học trước khi tạo ra sáng kiến </b>

Trong vài năm gần đây, bộ môn Lịch sử nói chung và mơn Lịch sử trong trường Trung học cơ sở nói riêng đã được chú trọng hơn trước . Điều đó được thể hiện ở chỗ mơn Lịch sử được xếp ngang hàng với các môn khác như Địa Lý, Giáo dục cơng dân, Vật Lí , Hoá học, Sinh học… được tổ chức thi tuyển học sinh giỏi, thi tuyển vào THPT với tư cách là bộ môn tổ hợp; được cung cấp thêm các trang thiết bị và tài liệu tham khảo phục vụ cho việc daỵ và học .

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Tuy nhiên qua một số năm giảng dạy bộ môn này tôi thấy rằng việc dạy học môn Lịch sử hiện nay vẫn cịn giặp rất nhiều khó khăn, trở ngại, nhất là việc phát huy tính tích cực của học sinh. Điều đó đã dẫn đến chất lượng bộ môn đối với học sinh lớp 9 khi ra trường là không cao, chưa đáp ứng được yêu cầu giáo dục và mục tiêu đào tạo đặt ra.

Thực trạng của vấn đề này tập trung ở những lý do sau:

Thứ nhất: Vẫn tồn tại một quan niệm cố hữu cho rằng môn Lịch sử cũng như Địa lí , Kĩ thuật , Thể dục , GDCD … đều là những môn phụ. Thực tế có một số trường hiện nay khơng có giáo viên chuyên sử mà giáo viên chủ yếu dạy kẹp nhíp ( Giáo viên Văn , Địa lí, GDCD … phải dạy sử) do đó khơng đáp ứng yêu cầu của bộ môn, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay.

Thứ hai: Về cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và học tập tuy đã được đầu tư nhưng vẫn còn thiếu so với yêu cầu giáo dục hiện nay. Tình trạng dạy chay vẫn còn khá phổ biến. Trong suốt quá trình học bộ mơn từ lớp 6 đến lớp 9 cả thầy và trị chưa có điều kiện tham quan các di tích Lịch sử vì khơng có kinh phí. Điều đó làm cho vốn kiến thức của các em chỉ bó gọn trong sách vở và bài giảng .

Ngoài ra cách tổ chức một số cuộc thi cử cũng cịn nhiều hạn chế, đó là chỉ chú trọng về mặt kiểm tra lí thuyết mà coi nhẹ bài tập thực hành, không chú ý đến việc phát triển năng lực sáng tạo của học sinh.

Trên cơ sở thực tế trường THCS, tơi nhận thấy được các mặt tích cực và hạn chế của giáo viên và học sinh trong việc dạy và học như sau:

<b>* Về phía giáo viên. - Tích cực: </b>

Giáo viên đã cố gắng thay đổi phương pháp giảng dạy của mình theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh thông qua phương pháp dạy học trực quan, phương pháp giải quyết vấn đề, phương pháp tổng hợp, phương pháp vấn đáp, miêu tả, kể chuyện hoặc nêu đặc điểm của nhân vật…

Giáo viên đã tích cực hướng dẫn cho học sinh thảo luận nhóm, hỗ trợ kiến thức cho nhau và thông qua hoạt động này những bạn yếu kém được hoạt động tích cực hơn dưới sự hướng dẫn của giáo viên và các bạn khá, giỏi.

Trong quá trình giảng dạy đã kết hợp nhuần nhuyễn các đồ dùng dạy học, khai thác một cách triệt để các đồ dùng và phương tiện dạy học như tranh, ảnh, bản đồ, sa bàn, mô hình, video, và từng bước ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong dạy học lịch sử.

<b>- Hạn chế: </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Mặc dù giáo viên đã cố gắng đổi mới phương pháp dạy học, song nhìn chung vẫn là hoạt động của thầy như: phân tích, đánh giá, giải thích là chủ yếu, cịn học sinh lắng nghe chép bài là phổ biến (80%) hoặc thầy đọc, trò chép. Giáo viên chưa tích cực hóa hoạt động của học sinh tạo điều kiện cho các em suy nghĩ, chiếm lĩnh và nắm vững kiến thức mà chỉ học thuộc một cách máy móc theo vở ghi hoặc sách giáo khoa.

Ở các trường THCS hiện nay, giáo viên chỉ tập trung vào các giờ lên lớp, chưa quan tâm đến các hoạt động ngoài lớp.

Giáo viên chưa nêu câu hỏi nhận thức đầu giờ, tức là sau khi kiểm tra bài cũ, điều này làm giảm bớt sự tập trung của học sinh ngay từ hoạt động đầu tiên.

Một số câu hỏi giáo viên đặt ra khó, học sinh khơng trả lời được nhưng lại khơng có hệ thống câu hỏi gợi mở nên nhiều khi giáo viên phải trả lời thay cho học sinh.

Nội dung học còn nặng về kiến thức và quá nhiều sự kiện trong từng tiết học, nên dẫn đến phải nhồi nhét kiến thức cho học sinh, khơng có thời gian rèn luyện cho các em năng lực độc lập, tư duy và lĩnh hội kiến thức. Đây là một thực tế đáng buồn hiện nay.

Như vậy, việc học sinh không thích học Lịch sử, chưa tích cực trong hoạt động học tập nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phương pháp dạy học của giáo viên. Vì vậy, việc đề xuất các biện pháp sư phạm giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học Lịch sử là vấn đề cấp thiết.

<b>* Về phía học sinh: - Tích cực: </b>

Ở trường Trung học cơ sở, đa số học sinh chú ý lắng nghe giảng, tập trung suy nghĩ trả lời các câu hỏi mà giáo viên đặt ra, các em đã chuẩn bị bài mới ở nhà nên tiếp thu nhanh và nắm được nội dung bài học.

Đa số học sinh đều tích cực thảo luận nhóm và đạt hiệu quả trong quá trình lĩnh hội kiến thức.

Học sinh yếu kém đã có nhiều cố gắng và tích cực tham gia các hoạt động như hoạt động nhóm, đọc sách giáo khoa,..các em đã mạnh dạn khi trả lời các câu hỏi và ghi nhớ các sự kiện, nhân vật…

<b>- Hạn chế: </b>

Tuy nhiên, một thực tế hiện nay cả phụ huynh và học sinh đều có tâm lý xem mơn lịch sử chỉ là môn học phụ, không được coi trọng như các mơn Tốn, Lý, Hóa…Mặt khác, nội dung cịn q nặng nề, nên khó thuộc, khó nhớ các sự kiện,

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

hiện tượng, nhân vật lịch sử nên các em khơng thích học, dẫn đến lười học và chưa có sự say mê môn Lịch sử, nhiều học sinh không chuẩn bị bài ở nhà, không làm bài tập, trên lớp thiếu tập trung lắng nghe và suy nghĩ. Cho nên việc ghi nhớ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử còn yếu.

Học sinh vẫn thường trả lời các câu hỏi của giáo viên thơng qua nhìn sách giáo khoa và nhắc lại, chưa có độc lập tư duy. Học sinh chỉ trả lời những câu hỏi dễ, đơn giản như trình bày, cịn những câu hỏi như phân tích, so sánh, giải thích cịn lúng túng, hoặc chỉ trả lời mang tích chất chung chung.

+ Qua điều tra, khảo sát chất lượng tại trường THCS, với phương pháp dạy học truyền thống đầu năm học 2022-2023 tôi thu được kết quả như sau:

Từ kết quả điều tra thực tế chất lượng dạy học và q trình cơng tác, bản thân đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong thực tế giảng dạy ở trường. Trên cơ sở những nguyên tắc trong dạy học Lịch sử, tôi đưa ra một số biện pháp sư phạm nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong dạy học môn Lịch sử cấp THCS , với mong muốn góp phần nhỏ vào việc thay đổi phương pháp và nâng cao chất lượng bộ môn. Giáo viên phát huy được tính chủ động, tích cực trong quá trình dạy và học mơn Lịch sử cấp THCS. Từ đó góp phần giúp học sinh phát triển năng lực tư duy, sáng tạo trong các nội dung lịch sử các cấp học tiếp theo. Quá trình hoạt động chung thống nhất giữa thầy và trò sẽ làm cho học sinh nắm vững hơn những tri thức, hình thành được kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh, đồng thời góp phần bồi dưỡng phẩm chất đạo đức và hình thành nhân cách cho các em. Từ những hiểu biết về quá khứ học sinh sẽ xác định được nhiệm vụ hiện tại và có thái độ đúng với quy luật của tương lai. Đồng thời góp phần nâng cao nhận thức lịch sử cho học sinh, đảm bảo cho các em có đủ hành trang kiến thức cho hiện tại và có những cống hiến thiết thực để xây dựng quê hương đất nước trong tương lai.

<i><b>2. Mô tả giải pháp sau khi có sáng kiến: </b></i>

<i><b>* Đề xuất giải pháp mới nhằm khắc phục nhược điểm của phương pháp cũ: </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

- Dựa vào thực tế giảng dạy, dự giờ, trao đổi kinh nghiệm với các đồng nghiệp, thông qua tham khảo các sách báo, các phương tiện thông tin đại chúng.

- Dựa vào công tác điều tra, khảo sát, nghiên cứu tình hình học tập của học sinh, thảo luận phương án xử lí.

- Dựa vào kinh nghiệm giảng dạy, các hoạt động tiếp thu kiến thức của học sinh, từ đó phân tích, tổng hợp để đưa ra các giải pháp để ôn tập và nâng cao nội dung lịch sử phù hợp với từng bài và phù hợp với từng nhóm đối tượng học sinh.

- Qua tìm hiểu đối chứng giữa phương pháp dạy học cũ (truyền thống) và phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh.

<i><b>* Tính mới, sự khác biệt của giải pháp mới so với giải pháp cũ: </b></i>

Qua tìm hiểu đối chứng giữa phương pháp dạy học cũ (truyền thống) và phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh nói chung và trong dạy học lịch sử nói riêng, có thể khẳng định : Các biện pháp phát huy tính chủ động, tích cực của học sinh sẽ mang lại hiệu quả cao hơn, nó địi hỏi cả giáo viên và học sinh phải lao động sư phạm nhiều hơn. Phải chủ động, sáng tạo tiếp thu tinh hoa của cách dạy học truyền thống, đồng thời phải tìm tịi, sáng tạo ra các phương pháp dạy học mới nhằm khắc phục sự bảo thủ, chủ động, một chiều trong quá trình dạy học.

<b>* Các bước thực hiện giải pháp mới </b>

<i><b> Biện pháp 1: Tạo hứng thú học tập cho học sinh </b></i>

<i><b> * Mục tiêu: Kích thích HS tích cực, say mê học tập để tiếp thu những kiến thức </b></i>

mới, tự giác nắm vững kiến thức lịch sử.

<i><b> * Cách thực hiện: </b></i>

Tạo hứng thú học tập cho HS có vai trị quan trọng trong q trình dạy học Lịch sử ở nhà trường. Có hứng thú học tập, HS nhanh chóng tiếp thu bài, nhớ bài lâu, hiểu được tầm quan trọng của lịch sử với sự phát triển của nhân loại. Hứng thú học tập cịn kích thích các em tích cực, say mê học tập để tiếp thu những kiến thức mới, tự giác nắm vững kiến thức lịch sử và biết vận dụng những kiến thức đó vào thực tiễn cuộc sống. Hứng thú học tập giúp HS phát triển toàn diện, ý thức được trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong cuộc sống. Hứng thú học tập được hình thành trong quá trình dạy học của GV. Ý thức được điều này, tôi luôn chú ý tạo hứng thú học tập cho HS ngay từ những buổi học ban đầu, ngay từ khi HS làm quen với phân môn Lịch sử.

<i><b> Biện pháp 2: Sử dụng linh hoạt các kĩ thuật dạy học tích cực </b></i>

<i> * Mục tiêu: Nhằm phát huy tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<i><b> * Cách thực hiện: </b></i>

Các kĩ thuật dạy học đó là: kĩ thuật Chia nhóm, kĩ thuật Giao nhiệm vụ, kĩ thuật Đặt câu hỏi, kĩ thuật Khăn trải bàn, kĩ thuật Trình bày một phút, kĩ thuật Hỏi và trả lời, kĩ thuật Đọc tích cực, kĩ thuật Phân tích phim, kĩ thuật Bản đồ tư duy. Với các kĩ thuật dạy học này, các em có cơ hội được thực hành, trải nghiệm, tích cực, chủ động, làm cho các em thích thú, giờ học nhẹ nhàng, thiết thực, bổ ích.

Dưới đây tơi chỉ xin nêu một số kĩ thuật trong các kĩ thuật dạy học đó:

<b> * Kĩ thuật khăn trải bàn </b>

HS được chia thành các nhóm nhỏ từ 4 đến 6 người. Mỗi nhóm sẽ có một tờ giấy A<small>0</small> đặt trên bàn, như là một chiếc khăn trải bàn. Chia giấy A<small>0 </small>thành phần chính giữa và phần xung quanh, tiếp tục chia phần xung quanh thành 4 hoặc 6 phần tuỳ theo số thành viên của nhóm (4 hoặc 6 người). Mỗi thành viên sẽ suy nghĩ và viết các ý tưởng của mình (về một vấn đề nào đó mà GV yêu cầu) vào phần cạnh “khăn trải bàn” trước mặt mình. Sau đó thảo luận nhóm, tìm ra những ý tưởng chung và viết vào phần chính giữa “khăn trải bàn” .

<i><b>* Ví dụ Bài 18: Nước Mĩ giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939) (Chương trình Lịch sử 8) </b></i>

Hoạt động 1: Nước Mĩ trong thập niên 20 của thế kỉ XX

Tôi yêu cầu HS đọc thông tin, kết hợp với tư liệu sưu tầm làm việc theo nhóm 4: Nêu tình hình nước Mĩ trong thập niến 20 của thế kỉ XX bằng kĩ thuật khăn trải bàn. Sau đó cử đại diện trình bày trước lớp.

HS được làm việc, được ghi lại những ý kiến của bản thân rồi tổng hợp thành ý

<i>kiến chung của nhóm: Mĩ bước vào thời kì phát triển kinh tế phồn vinh và trở thành trung tâm công nghiệp, thương mại và tài chính quốc tế,…HS rất tích cực, </i>

hào hứng học tập với kĩ thuật dạy học này. * Kĩ thuật phòng tranh

Mỗi thành viên (hoạt động cá nhân) hoặc các nhóm (hoạt động nhóm) phác hoạ những ý tưởng về cách giải quyết vấn đề trên một tờ bìa và dán lên tường xung quanh lớp học như một triển lãm tranh. HS cả lớp đi xem “ triển lãm’’và có thể có ý kiến bình luận hoặc bổ sung. Cuối cùng, tất cả các phương án giải quyết được tập hợp lại và tìm phương án tối ưu.

<i><b>* Ví dụ: Bài 4. Xã hội nguyên thuỷ (Chương trình Lịch sử 6, thuộc bộ sách Lịch sử &Địa lý 7- Bộ Cánh Diều) </b></i>

Tôi sử dụng kĩ thuật này ở 2 hoạt động : 1 là hoạt động tìm hiểu về đời sống vật chất của người nguyên thuỷ, 2 là hoạt động tìm hiểu đời sống của người nguyên

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

thuỷ ở Việt Nam. Tuy nhiên để thực hiện được kĩ thuật này, trước khi học bài này, tôi đã yêu cầu các em chuẩn bị tìm thơng tin, tranh ảnh về các công cụ lao động, cách thức lao động, địa bàn cư trú của người nguyên thuỷ và những công cụ, vật dụng mới được người nguyên thuỷ ở Việt Nam chế tạo ra tiêu biểu ở thời kì này của các nền văn hố Hồ Bình, Bắc Sơn, Quỳnh Văn....Trong giờ học tơi chia các nhóm làm việc: gắn tranh ảnh, thông tin hoặc ghi những thông tin quan trọng đáp ứng yêu cầu thảo luận. Qua “triển lãm tranh” này HS đã rút ra được kiến thức cần nắm được của bài. HS hiểu được đời sống vật chất của người nguyên thuỷ trên thế giới cũng như đời sống của người nguyên thuỷ ở Việt Nam.

* Kĩ thuật công đoạn

HS được chia thành các nhóm, mỗi nhóm được giao giải quyết một nhiệm vụ khác nhau. Ví dụ: nhóm 1- thảo luận câu A, nhóm 2- thảo luận câu B, nhóm 3- thảo luận câu C, nhóm 4- thảo luận câu D. Sau khi các nhóm thảo luận và ghi kết quả thảo luận vào giấy A<small>0</small> xong, các nhóm sẽ luân chuyển giấy A<small>O</small> đã ghi kết quả thảo luận cho nhau. Cụ thể là: nhóm 1 chuyển cho nhóm 2, nhóm 2 chuyển cho nhóm 3, nhóm 3 chuyển cho nhóm 4, nhóm 4 chuyển cho nhóm 1. Các nhóm đọc và góp ý kiến bổ sung cho nhóm bạn. Sau đó lại tiếp tục luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý. Cứ như vậy cho đến khi các nhóm đã nhận lại được tờ giấy A<small>0</small> của nhóm mình cùng với các ý kiến góp ý của các nhóm khác. Từng nhóm sẽ xem và xử lí các ý kiến của các bạn để hoàn thiện lại kết quả thảo luận của nhóm. Sau khi hồn thiện xong, nhóm sẽ treo kết quả thảo luận lên tường lớp học.

<i><b>* Ví dụ: Bài 6 : Các nước Anh, Pháp, Đức, Mĩ cuối thế kỉ XIX- đầu thế kỉ XX (chương trình Lịch sử 8) </b></i>

Tơi thực hiện theo cách thức như trên, chia lớp thành nhóm để tìm hiểu về các nước này. Nhóm tìm hiểu về nước Anh, nhóm tìm hiểu về nước Pháp, nhóm tìm hiểu nước Đức và nhóm tìm hiểu về nước Mĩ. Sau đó các nhóm luân chuyển kết quả cho nhóm tiếp theo và nhận tiếp kết quả từ một nhóm khác để góp ý. HS rất thích thú khi học với kĩ thuật dạy học này.

<b> * Kĩ thuật các mảnh ghép </b>

<i><b> * Ví dụ: Bài 8: Nước Mĩ (chương trình Lịch sử 9) </b></i>

Tơi chia HS thành các nhóm, sau đó phân cơng cho mỗi nhóm thảo luận, tìm hiểu về một nội dung: Nhóm 1,2: Kinh tế Mĩ sau chiến tranh thế giới thứ hai; Nhóm 3,4: Chính sách đối nội ; Nhóm 5,6: Chính sách đối ngoại; Nhóm 7,8: So sánh với Liên Xô.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Sau khi thảo luận nhóm về vấn đề đã được phân công, mỗi thành viên của các nhóm này sẽ tập hợp lại thành các nhóm mới, như vậy trong mỗi nhóm mới sẽ có đủ các HS đã tìm hiểu về vấn đề đã nêu ở trên và HS đã được tìm hiểu sâu vấn trong nhóm cũ sẽ có trách nhiệm trao đổi lại với cả nhóm về vấn đề mà mình có cơ hội tìm hiểu sâu.

<b> * Kĩ thuật “ Bản đồ tư duy” ( BĐTD) </b>

<i> Trước hết, thế nào là Bản đồ tư duy? Bản đồ tư duy (Mindmap) là phương pháp </i>

được đưa ra như là một phương tiện mạnh để tận dụng khả năng ghi nhận hình ảnh của bộ não. Đây là cách để ghi nhớ chi tiết, để tổng hợp, hay để phân tích một vấn đề ra thành một dạng của lược đồ phân nhánh. Đây là một kĩ thuật để nâng cao cách ghi chép. Bằng cách dùng giản đồ ý, tổng thể của vấn đề được chỉ ra dưới dạng một hình trong đó các đối tượng thì liên hệ với nhau bằng các đường nối. Với cách thức đó, các dữ liệu được ghi nhớ và nhìn nhận dễ dàng và nhanh chóng hơn. Qua áp dụng phương pháp sử dụng BĐTD, học sinh hiểu và ghi nhớ bài học tốt hơn, việc vận dụng BĐTD vào dạy học Lịch sử 4 còn rèn luyện cho các em kĩ năng làm việc cũng như sắp xếp cuộc sống một cách khoa học hơn, tập luyện sự kiên trì và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo hiệu quả.

Để vẽ được BĐTD, trước hết các em phải tưởng tượng được cách vẽ như thế nào. Vì vậy trước tiên tôi giới thiệu một số BĐTD để HS biết được sự phong phú và ích lợi của việc lập BĐTD.

<i><b>Ví dụ: BĐTD tổng hợp kiến thức bài 8: Nước Mĩ ( chương trình Lịch sử 9 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Sau khi giới thiệu về BĐTD, tơi u cầu HS trình bày các kiến thức được thể hiện trên BĐTD bằng lời cho cả lớp cùng nghe.Sau khi HS dùng lời để mô tả đặc điểm của đối tượng, ở những bài sau tơi khuyến khích các em sử dụng hình ảnh để thể hiện đặc điểm của đối tượng, phát huy tối đa khả năng sáng tạo của HS và giúp các em dễ nhớ bài học. Ngồi ra, tơi chú ý dùng phấn màu (bút màu) trong quá trình vẽ BĐTD để hình thành cho các em thói quen dùng màu sắc để thể hiện các nội dung khác nhau.Sau khi hướng dẫn HS nắm được cách vẽ BĐTD, tôi hướng dẫn các HS sử dụng linh hoạt trong quá trình dạy học như trong phương pháp động não, đàm thoại - gợi mở, trong phương pháp thảo luận nhóm, trong củng cố kiến

<i><b>thức và bài ôn tập…. </b></i>

<i><b> Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh vẽ sơ đồ, đồ thị </b></i>

Phương pháp dạy học bằng hệ thống biểu đồ,đồ thị được sử dụng ở một số bài dạng tiến trình cách mạng, quá trình phát triển, tư tưởng nhận thức…

Phương pháp này giúp học sinh hứng thú,hiểu và nắm bài nhanh đặc biệt phù hợp trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi.

<i><b>VD: Bài 5: “Các nước Đơng Nam Á” (chương trình Lịch sử 9) </b></i>

<i>Vẽ đồ thị về quá trình hình thành và phát triển của Hiệp hội các nước Đông Nam Á </i>

</div>

×