Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

skkn lịch sử và địa lý thcs

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.8 MB, 45 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BÁO CÁO SÁNG KIẾN

VẬN DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 9 I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng ta nêu rõ “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao…”, và “tiếp tục hoàn chỉnh Quy hoạch phát triển nhân lực 2011 - 2020; thu hút và sử dụng nhân tài gắn với phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ.”. Cùng với xu thế chung hiện nay, nền giáo dục Việt Nam đang được đổi mới toàn diện và mạnh mẽ nhằm thực hiện 4 khuyến cáo giáo dục trong thế kỷ XXI của UNESCO: “Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình”. Một trong những vấn đề được giáo dục nước ta quan tâm hiện nay chính là đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) theo hướng “lấy người học làm trung tâm”, tức là phải làm sao giúp học sinh (HS) có động cơ đúng đắn, chủ động, sáng tạo, tích cực trong học tập.

Trong nội dung chương trình giáo dục đã nêu rõ mục tiêu chung của giáo dục phổ thông là nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức cơng dân; có lịng u nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế.

Sự đổi mới giáo dục đã đặt ra những nhiệm vụ mới cho ngành giáo dục. Giáo dục chú trọng vào việc giúp học sinh hình thành và phát triển các phẩm chất, năng lực cho người học. Trong các năng lực cần đó thì năng lực tự học, tự chủ đóng vài trị quan trọng. Việc học sinh có năng lực tự chủ, tự học tốt sẽ giúp các em có ý thức hơn trong học tập, các em đam mê khám phá tri thức, việc tổ chức tự học tập, làm việc đọc lập đạt hiệu quả cao hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Hiện nay, việc dạy và học lịch sử trong các nhà trường phổ thông đang là một trong những vấn đề khó khăn đối với các nhà trường đặc biệt là đối với giáo viên giảng dạy lịch sử. Thực tế cho thấy, cùng với sự phát triển của xã hội và sự bùng nổ của công nghệ thơng tin, hầu như học sinh khơng cịn ham thích học tập bộ mơn lịch sử. Điều này có rất nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân cơ bản làm cho các em nhàm chán đó là do đặc trưng bộ môn quá nhiều sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử mà yêu cầu các em phải nhớ. Trong điều 4, chương I “Luật giáo dục” nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định: “Phương pháp dạy học phải biết phát huy tính giáo dục tích cực, tự giác chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng lòng say mê học tập và ý thức vươn lên”.

Ngày nay, cùng với sự phát triển vượt bậc của khoa học cơng nghệ thì u cầu đổi mới phương pháp giáo dục ngày càng cao và là một nhu cầu tất yếu, mang tính chiến lược nhằm bồi dưỡng thế hệ trẻ phát triển một cách toàn diện về: “Đức - Trí - Thể - Mĩ”, để làm chủ bản thân, xây dựng đất nước văn minh, giàu đẹp. Hơn nữa, thời lượng dành cho bộ môn lịch sử cịn ít, phương pháp giảng dạy chưa đáp ứng được yêu cầu đặc trưng của bộ môn, trong bài giảng lịch sử nếu chúng ta đưa ra những sự kiện lịch sử khô khan, mà không “thổi hồn,” “truyền lửa” vào bài giảng hoặc lồng ghép các nội dung để khắc họa hình

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

tượng các nhân vật lịch sử, tái hiện diễn biến những trận đánh, những chiến cơng oai hùng…một cách sinh động thì chắc chắn mục tiêu hình thành phẩm chất năng lực cho học sinh sẽ hạn chế rất nhiều.

Vấn đề chủ yếu trong học tập không phải cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, mà quan trọng là làm cho các em hiểu một cách sâu sắc kiến thức đó. Với đặc trưng, chức năng và nhiệm vụ của mình, dạy học Lịch Sử phải chú trọng đến phát triển phẩm chất, năng lực, tính tích cực của học sinh. Học Lịch Sử không chỉ để “biết” mà cịn để “hiểu” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định:

“Dân ta phải biết sử ta

Cho tường gốc tích, nước nhà Việt Nam”

Thực tế dạy học nói chung và mơn Lịch sử nói riêng cho thấy cịn nhiều giáo viên (GV) chủ yếu sử dụng phương pháp truyền thống, thuyết trình một chiều, ít đầu tư cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy. Với HS, bên cạnh một số em tự tìm được cho mình cách học hiệu quả, phần còn lại học tập một cách thụ động, cố gắng ghi nhớ kiến thức máy móc, thuộc lịng mà khơng hiểu rõ vấn đề nêu ra trong nội dung bài học. Hoặc do xu hướng phát triển của xã hội, các em tập trung thời gian học tập vào những môn được đưa vào thi cử như Văn, Tốn, Ngoại ngữ. Vì vậy, những mơn ít giờ như Lịch sử ít được các em quan tâm nhiều nên ít có thời gian để tìm hiểu và học tập. Thực trạng đó dẫn đến kết quả kết quả học tập mơn học hay tồn bộ q trình học tập của các em cho thấy một thực tế đáng buồn. Đối với môn học Lịch sử lớp 9, thực trạng đó đã ảnh hưởng khơng ít tới khả năng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kĩ năng của HS và nó đặt ra cho GV bộ mơn Lịch sử một câu hỏi lớn là làm thế nào để dạy học Lịch sử tốt hơn, lôi cuốn hơn.

Môn Lịch sử là một bộ môn khoa học xã hội rất quan trọng trong nhà trường phổ thông. Dạy và học lịch sử không chỉ trang bị vốn kiến thức cơ bản, cần thiết cho học sinh về lịch sử dân tộc, lịch sử nhân loại mà cịn góp phần hịan thiện nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam, bồi đắp cho các em những phẩm chất đạo đức quan trọng của con người như nhân ái, yêu nước, lòng tự hào

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

dân tộc cũng như giúp các em thấy được trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với việc xây dựng và phát triển đất nước…

Việc dạy mơn lịch sử lớp 9 đã hình thành cho học sinh các kĩ năng quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau, biết đặt câu hỏi trong quá trình học tập, trình bày kết quả bằng lời nói, hình vẽ, sơ đồ, vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống. Góp phần bồi dưỡng ở học sinh những thái độ và thói quen: ham học hỏi, tìm hiểu để biết các kiến thức về Lịch sử dân tộc Việt Nam, tôn trọng các di tích văn hóa và tìm hiểu thêm về lịch sử thế giới.

Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh (HS) lớp 9 nói riêng và THCS nói chung rất khó ghi nhớ các dữ kiện lịch sử. Việc học bộ mơn này gây nhiều khó khăn trong ghi nhớ cho các em, từ đó tâm lý chung của học sinh là ít hứng thú khi học mơn học này. Từ thực trạng đó bản thân tơi đã nghiên cứu đề tài: “Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy lịch sử lớp 9” với những kinh nghiệm của bản thân, tôi mong muốn nâng cao chất lượng dạy học Lịch sử cho học sinh lớp 9.

Cha đẻ của sơ đồ tư duy là Anthony "Tony" Peter Buzan. Ông sinh năm 1942 mất năm 2019 tại Luân Đôn (Anh) là một tác giả, nhà tâm lý và là cha đẻ của phương pháp tư duy Mind map (Sơ đồ tư duy Giản đồ ý). Ông hiện là tác giả của 92 đầu sách, được dịch ra trên 30 thứ tiếng, xuất bản trên 125 quốc gia. Một trong những phát minh vĩ đại của Giáo sư Tony Buzan đó chính là Sơ đồ tư duy (mind map), một công cụ vạn năng của bộ não giúp phác hoạ trực quan những suy nghĩ, kế hoạch và ý tưởng, vượt qua các quy tắc học thuật thông thường. Sơ đồ tư duy hiện được hơn 250 triệu người trên khắp thế giới sử dụng, nó đã thay đổi cuộc sống của hàng triệu người, giúp họ khơi dậy và phát huy tối đa năng lực của bản thân. Theo Gs Tony Buzan: “Sơ đồ tư duy có thể giúp bạn suy nghĩ một cách sáng tạo về bất cứ điều gì và suy nghĩ sáng tạo chính là cách để bạn đạt được điều mình muốn.”

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Chân dung của ông Tony Buzan- Cha đẻ của sơ đồ tư duy

Sơ tư duy (SĐTD) còn gọi là bản đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tịi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức,… bằng cách kết hợp việc sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ mở, không yêu cầu tỉ lệ, chi tiết chặt chẽ như bản đồ địa lí mà có thể vẽ thêm hoặc bớt các nhánh, mỗi người vẽ một kiểu khác nhau, dùng màu sắc, hình ảnh, các cụm từ diễn đạt khác nhau, cùng một chủ đề nhưng mỗi người có thể “thể hiện” nó dưới dạng SĐTD theo một cách riêng, do đó việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Một số loại sơ đồ tư duy đơn giản, hiệu quả: Sơ đồ tư duy vịng trịn

Sơ đồ tư duy vịng trịn có tên tiếng anh là Circle Map bao gồm một vòng tròn lớn bên ngồi và một vịng trịn nhỏ bên trong. Vịng trịn nhỏ chứa chủ để chính hay ý tưởng trung tâm, vòng tròn lớn gồm các ý phụ, ý bổ trợ cho chủ đề chính/ý tưởng trung tâm.

Circle Map được tạo ra với mục đích để Brainstorm một chủ đề hoặc một ý tưởng nào đó bằng cách sử dụng các thông tin đã biết.

Sơ đồ tư duy bong bóng

Tên tiếng anh của sơ đồ tư duy bong bóng được gọi là Bubble Map bao gồm một vòng tròn ở vị trí trung tâm và các bong bóng hình trịn ở xung quanh tỏa ra nhiều hướng. Hình trịn ở trung tâm sẽ chứa chủ đề chính cịn các bong bóng sẽ chứa các ý tưởng, hành động cụ thể bổ sung ý nghĩa cho chủ đề chính trong vòng tròn.

Bubble Map chủ yếu được sử dụng cho mục đích thiết lập mục tiêu, mơ tả phân khúc khách hàng,…

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Sơ đồ tư duy bong bóng kép

Sơ đồ tư duy bong bóng kép có tên tiếng anh là Double Bubble Map được biết đến là loại sơ đồ kết hợp giữa 2 sơ đồ bong bóng hay còn là biểu đồ Venn. Double Bubble Map sử dụng cho mục đích xác định sự khác biệt và tương đồng giữa 2 chủ đề hoặc 2 lĩnh vực. Sơ đồ có cấu tạo gồm 2 vịng trịn chứa 2 chủ đề, 2 ý chính nằm ở vị trí trung tâm. Phần giao nhau của 2 vòng tròn chứa các điểm tương đồng và phần còn lại của 2 vòng tròn chứa sự khác biệt giữa 2 chủ đề, đối tượng.

Sơ đồ này chủ yếu để so sánh một cách trực quan các khái niệm, ý tưởng đối tượng từ đó giúp chúng ta đánh giá một cách tồn diện để đưa ra quyết định đúng đắn cho mọi vấn đề.

Sơ đồ tư duy cây

Sơ đồ tư duy cây còn được gọi với cái tên tiếng anh là Tree Map được thiết kế giống như một cái cây. Phía trên cùng là chủ đề chính hay nội dung chính và phía dưới là các chủ đề phụ các thơng tin liên quan hay nội dung chi tiết để giúp làm rõ chủ đề chính.

Tree Map khơng giới hạn số lượng phân nhánh có thể liệt kê xuống phía dưới thoải mái tùy theo nội dung cho đến khi đầy đủ. Loại sơ đồ này được sử

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

dụng khá phổ biến trong học tập được các học sinh, sinh viên sử dụng để hệ thống lượng kiến thức ngắn gọn, dễ hiểu. Trong công việc Tree Map chủ yếu dùng để liệt kê các nhiệm vụ hoặc xây dựng kế hoạch.

Trên thực tế cịn có nhiều loại sơ đồ khác được sử dụng tùy theo mục đích, lĩnh vực để lựa chọn cho phù hợp : như sơ đồ tư duy luồng - Flow Map, sơ đồ tư duy đa luồng - Multi Flow, sơ đồ tư duy dấu ngoặc “{“ - Brace Map, sơ đồ tư duy hình cầu - Bridge Map.

Với sơ đồ tư duy được thiết kế bằng các phần mềm máy tính như Powerpoint, iMindMap, Edraw Mind Map, Ayoa, The Brain, Xmind, MindArchitect... thì dụng cụ duy nhất bạn cần đó là máy tính. Hiện nay có một số cơng cụ vẽ sơ đồ tư duy trực tuyến như thì có thể cần thêm kết nối Internet để thực hiện q trình vẽ.

Cịn với phương pháp vẽ bằng tay truyền thống thì bạn cần chuẩn bị nhiều thứ hơn một chút, bao gồm:

Giấy vẽ: kích thước giấy phù hợp với chủ đề phức tạp hay đơn giản. Hiện nay, các loại sổ có kẻ sẵn ô (dạng sổ dùng để tạo Bullet Journal) thường được ưa chuộng để vẽ sơ đồ tư duy vì tính thuận tiện của nó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Bút màu: đây là dụng cụ không thể thiếu khi vẽ sơ đồ tư duy bởi nó địi hỏi sơ đồ của bạn phải có sự sinh động màu sắc, hình ảnh để kích thích não bộ ghi nhớ hiệu quả. Bạn có thể tối giản màu sắc theo sở thích, tông màu chủ đề, nhưng hãy đảm bảo tối thiểu 3 màu chủ đạo để thuận tiện cho quá trình phân nhánh chủ đề. Bên cạnh đó, trong tất cả các phương pháp thì khơng thể thiếu nguồn tài liệu cung cấp ý tưởng, hay còn gọi là tài liệu tham khảo. Đó có thể sách vở của bạn, bài giảng hay những đoạn video trên mạng hoặc một tình huống nào đó làm bạn nảy sinh ý tưởng. Hay luôn đảm bảo các dụng cụ luôn sẵn sàng để phát triển khả năng tư duy não bộ của ban.

SĐTD đặc biệt chú trọng về màu sắc, hình ảnh với từ ngữ ngắn gọn thể hiện qua mạng liên tưởng (các nhánh trong bài giảng). Từ phần nội dung chính, giáo viên vẽ ra từng nhánh nhỏ theo từng tiểu mục chính của bài giảng và chú thích, giảng giải theo một ngôn ngữ dễ hiểu và gần gũi với học sinh.

Việc sử dụng sơ đồ tư duy mang lại những lợi ích khơng nhỏ cho học sinh. Thay vì phải học thuộc lòng cả bài giảng như trước, giờ đây học sinh có thể hiểu và nắm được nội dung kiến thức qua hình vẽ bằng sơ đồ.

Việc vận dụng SĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học.

Nhờ sự liên kết các nét vẽ cùng với màu sắc thích hợp và cách diễn đạt riêng của mỗi người, sơ đồ tư duy giúp bộ môn liên tưởng, liên kết các kiến thức đã học trong sách vở, đã biết trong cuộc sống để phát triển, mở rộng ý tưởng.

Sử dụng SĐTD trong dạy học phù hợp với tâm lí học sinh, đơn giản dễ hiểu thay cho việc ghi nhớ lí thuyết bằng cách ghi nhớ dưới dạng sơ đồ hoá kiến thức, có thể vận dụng trong bất kì điều kiện hồn cảnh nào của nhà trường mà không phụ thuộc vào cơ sở vật chất.

Đối với môn Lịch sử, sử dụng Sơ đồ tư duy sẽ giúp các em học sinh phát huy được tối đa tiềm năng của não bộ, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Hơn nữa, khi sử dụng sơ đồ tư duy trong học tập mơn Lịch sử, học sinh tự mình vẽ sơ đồ, ghi nhớ những kiến thức cần thiết. Học sinh có thể trang trí, sáng

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tạo nội dung bài học theo ý tưởng riêng của mình. Đồng thời cũng giúp các em nắm vững được kiến thức cơ bản ngay trong tiết học mà không cần phải mất thời gian học thuộc như trước đây. Phương pháp này cũng giúp học sinh giảm căng thẳng, mệt mỏi, nhàm chán mỗi khi đến giờ học lịch sử.

Là giáo viên dạy lịch sử bản thân tôi mong muốn học sinh mình học tốt, nắm kiến thức sâu hơn, vì vậy tơi đã mạnh dạn đưa ra sáng kiến: Vận dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử 9. Với sáng kiến này, tơi hi vọng có thể giúp các bạn đồng nghiệp tham khảo nhằm nâng cao chất lượng giờ dạy của mình, góp phần hồn thành mục tiêu môn học đề ra. Đồng thời, đề tài cũng nhằm góp phần vào xu hướng đổi mới căn bản và toàn diện phương pháp dạy học nhằm phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh.

Quá trình thực hiện đề tài, tơi mong muốn biến giờ học Lịch sử thành giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục và thực sự tạo được hứng thú học tập và phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực cho học sinh.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu: - SGK Lịch sử lớp 9

- Tài liệu đổi mới phương pháp dạy học - Tài liệu chuẩn kiến thức – kĩ năng

- Học sinh lớp 9A3, 9A4, 9A5 năm học 2022 - 2023

Trên cơ sở các phương pháp chung, đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp dạy học Lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp thử nghiệm, kể chuyện, phương pháp điều tra, phương pháp tích hợp kiến thức liên môn....Được thực hiện giải pháp thay thế như: Sử dụng sơ đồ tư duy để mở đầu bài học, sử dụng sơ đồ tư duy trong ghi chép, thảo luận nhóm…

Kết quả cho thấy giải pháp đã có tác động rất tích cực đến kết quả học tập của các em. Điểm số của nhóm thực nghiệm cao và đồng đều hơn nhóm đối chứng. Các em đã dễ dàng phát hiện, tiếp thu kiến thức từ việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong học tập. Điều đó chứng tỏ việc ứng dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) đã nâng cao được kết quả học tập môn lịch sử cho các em học sinh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP

1. Mô tả giải pháp trước khi tạo ra sáng kiến

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo xác định “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo định hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học”.

Nhìn chung vấn đề học tập của các em học sinh ở trường THCS về bộ mơn Lịch sử cịn rất nhiều hạn chế, nhiều vấn đề cần để đưa ra bàn luận. Như việc giảng dạy của giáo viên đối với học sinh và ngược lại việc học tập của các em đối với bộ mơn Lịch sử thì như thế nào?

Lịch sử là môn học quan trong đối với HS ở mọi cấp học trong chương trình giáo dục phổ thơng hiện nay ở nước ta. Dạy và học Lịch sử không chỉ cho thấy mục tiêu và chiến lược của ngành giáo dục, mà đó cịn là cách thức để HS tiếp cận với các nền văn minh tiến bộ trên thế giới, tự hào với truyền thống của dân tộc. Nâng cao chất lượng giảng dạy nói chung và mơn Lịch sử nói riêng là một trong những u cầu cấp thiết đối với xu hướng giáo dục ở nước ta hiện nay nhằm thực hiện tốt chủ trương dạy học lấy người học làm trung tâm.

Thực tế cho thấy, mặc dù đã có nhiều nỗ lực của tồn nghành giáo dục trong việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học Lịch sử song hiệu quả của q trình này chưa được như kỳ vọng. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, song việc nội dung, chương trình chưa phù hợp là một trong những nguyên nhân quan trọng. Bên cạnh đó, việc chậm đổi mới phương pháp, ngại tiếp thu cái mới trong quá trình dạy học của GV là nguyên nhân chủ quan hàng đầu dẫn đến hiệu quả dạy học Lịch sử chưa cao. Từ đó dẫn đến việc hầu hết HS khơng có hứng thú học Lịch sử, và nếu có học thì cũng là do áp lực từ gia đình, xã hội mà các em khơng thực sự có phương pháp và cách thức học tập hiệu quả. Thực tế này đặt ra cho ngành giáo dục nói chung và GV bộ mơn Lịch sử nói riêng những câu hỏi lớn. Là giáo viên giảng dạy môn Lịch sử, trong q trình giảng dạy tại nhà trường, tơi đã có một số thuận lợi và khó khăn sau:

* Thuận lợi:

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- Trong quá trình giảng dạy, bản thân tôi luôn nhận được sự quan tâm, chỉ đạo sát sao, tạo điều kiện của Ban giám hiệu nhà trường và sự giúp đỡ tận tình của các thành viên trong Tổ chun mơn.

- Tơi thường xun tìm đọc những loại sách, tài liệu tham khảo, xây dựng mô hình tiết dạy, thiết kế bài giảng, giáo án mẫu, nghiên cứu băng hình mẫu, cập nhật thơng tin để nâng cao trình độ chun mơn, nghiệp vụ, đáp ứng yêu cầu đổi mới của bộ môn về phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng. Đặc biệt là áp dụng triệt để việc sử dụng công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy, sử dụng lược đồ, sơ đồ, video, bài giảng powerpoint vào trong quá trình lên lớp của mình.

- Là giáo viên được phân công giảng dạy môn lịch sử lớp 9 nhiều năm liên tiếp, nhiệt huyết với nghề, có trách nhiệm và ln trăn trở với bài dạy, tơi đã ln tìm kiếm các con đường và phương pháp đổi mới phương pháp dạy học để phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, dự giờ đồng nghiệp cũng giúp tơi tích lũy kinh nghiệm giảng dạy cho bản thân mình.

- Thiết bị dạy học của nhà trường được giữ gìn, bảo quản tốt, máy móc phục vụ cho dạy học cũng được nhà trường đặc biệt quan tâm: 100% các lớp được trang bị ti vi và máy chiếu để phục vụ cho việc dạy học của giáo viên cũng như việc học tập của học sinh.

- Nhìn chung, đại đa số học sinh chăm, ngoan, hứng thú với bộ môn và đặc biệt khi các em được phát huy tính tích cực của mình.

- Ngồi ra, với sự bùng nổ thông tin đã tạo điều kiện thuận lợi cho cả giáo viên và học sinh có thể tìm hiểu thêm nguồn thơng tin rất phong phú có liên quan trên các phương tiên thông tin phong phú và đa dạng hiện nay.

Ưu điểm với học sinh: Khi học tập và ghi chép kiến thức môn Lịch sử, các em được tự mình ghi chép, tóm tắt, trang trí nên phương pháp này khá sinh động, hấp dẫn đối với học sinh, có ưu thế trong việc tạo hứng thú học tập cho học sinh. Học bằng phương pháp này, học sinh ít phải ghi nhớ kiến thức một cách máy móc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Với giáo viên: việc dạy học theo phương pháp sử dụng sơ đồ tư duy giúp bồi dưỡng, nâng cao kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin, nâng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm cho giáo viên, góp phần phát triển đội ngũ giáo viên bộ mơn hiện nay

* Khó khăn:

Bên cạnh những thuận lợi mà tôi đã nêu trên thì thực tế trong q trình giảng dạy mơn Lịch sử 9 bản thân tơi cũng gặp nhiều khó khăn, cụ thể như:

- Nhiều học sinh, phụ huynh còn xem bộ môn Lịch sử là môn phụ, lại khô khan, khó học, khó nhớ. Cho nên, trong giờ học nhiều em chưa tập trung chú ý vào nhiệm vụ học tập của mình hoặc thiếu hợp tác với bạn bè trong nhóm khi thảo luận.

- Về chương trình : thiết kế còn nặng, quá nhiều sự kiện, sự trùng lặp kiến thức giữa các cấp học còn nhiều, nặng về ghi nhớ máy móc.

- Về SGK: Biên soạn theo hướng nặng về cung cấp kiến thức để thi cử, ít chú trọng vấn đề bồi dưỡng năng lực, phẩm chất cho học sinh. Nội dung nhiều bài rất khô khan về kiến thức, thiên về nhiều sự kiện lịch sử, ít đề cập về lịch sử văn hóa, nghệ thuật.

- Về giáo viên: Coi nặng việc truyền thụ kiến thức có trong SGK (lối dạy nhồi nhét kiến thức để thi cử). Hệ quả là dẫn đến tiết dạy khô khan, kém hấp dẫn, nặng về cung cấp kiến thức, liệt kê sự kiện. Điều này dễ sa vào lối dạy đọc chép.

- Về học sinh: Một số học sinh còn chưa hăng say học tập, chất lượng giáo dục môn học chưa cao, ghi nhớ bài học một cách rời rạc, máy móc. Điều đó làm các em cảm thấy giờ học trở nên nhàm chán, khơng u thích bộ mơn Lịch Sử. Cịn ngun nhân khách quan là do học sinh chưa tập trung học, không ghi chép bài, chơi game, có thái độ khơng tích cực trong giờ học…Điều này địi hỏi những người làm cơng tác giáo dục nói chung, giáo viên dạy Lịch sử nói riêng cần phải sử dụng phương pháp dạy học tích cực để kích thích sự tự giác, u thích mơn học của học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy học. Đối với môn Lịch sử, việc giúp học sinh có thể tiếp nhận kiến thức một cách chủ động là

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

vấn đề trăn trở của giáo viên, đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu, đổi mới phương pháp dạy học. Trong đó, sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình dạy học là một giải pháp được các thầy cô giáo quan tâm và sử dụng.

Từ thực tế giảng dạy môn Lịch sử 9 ở trường THCS Hoàng Văn Thụ-thành phố Nam Định những năm học trước đây, tôi nhận thấy rằng bản thân tôi đã thực hiện nhiều giải pháp khác nhau nhưng hiệu quả dạy học môn Lịch sử chưa cao, chưa đáp ứng được mong muốn của bản thân cũng như của học sinh và phụ huynh.

Ban đầu tôi sử dụng cách dạy và học Lịch sử truyền thống là sự truyền đạt thơng tin một chiều từ phía giáo viên, sau đó học sinh sẽ học thuộc lịng bằng cách nhồi nhét, “học vẹt” mà không hiểu được bản chất. Tình trạng này khiến mơn Lịch sử trở nên khô khan, nhàm chán. Tôi nhận thấy học sinh hiểu bài một cách lơ mơ, nắm không vững các kiến thức cũng như sự kiện lịch sử. Bên cạnh đó, việc đọc chép dài dòng dẫn đến việc nhiều học sinh ngại ghi chép, ngại học. Trong lớp chỉ có một số học sinh đạt được yêu cầu của giáo viên.

Bên cạnh phương pháp truyền thống, tôi đã cải tiến và sử dụng các phương pháp dạy học tích cực. Trong đó tơi sử dụng chủ yếu là phương pháp vấn đáp. Với phương pháp vấn đáp, tôi đặt các câu hỏi về lịch sử liên quan đến mục tiêu bài học, rõ ràng, dễ hiểu và phù hợp với trình độ của học sinh. Tơi sử dụng những câu hỏi kích thích sự suy nghĩ của học sinh nhằm khuyến khích phát triển tư duy và nhận thức. Vì lịch sử có rất nhiều vấn đề liên quan và chồng chéo lẫn nhau nên bản thân tôi dẫn dắt các em theo các câu hỏi phân nhỏ, từ từ từng bước một, không hỏi tất cả trong một câu khiến câu hỏi của mình trở nên trừu tượng và khó hiểu với học sinh. Qua việc sử dụng xây dựng hệ thống câu hỏi hợp lí, giúp học sinh khám phá và tiếp nhận kiến thức lịch sử cơ bản. Đồng thời các em sẽ hiểu được bản chất của sự kiện cùng các mối quan hệ nhân quả.

Ngoài ra, tơi cịn sử dụng phương pháp giao nhiệm vụ. Đây là phương pháp giúp phát huy tinh thần trách nhiệm cá nhân trong việc thảo luận nhóm các nội dung của bài học và nâng cao khả năng giải quyết vấn đề, tính chủ động trong

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

học tập. Giao nhiệm vụ đòi hỏi học sinh suy nghĩ, thảo luận và trình bày nhanh kết quả. Các bước có thể hướng dẫn nhiệm vụ cho các em bao gồm:

Nhiệm vụ được giao cho ai? Nhiệm vụ đó là gì?

Địa điểm thực hiện nhiệm vụ là ở đâu?

Thời gian cần hoàn thành nhiệm vụ trong bao lâu? Phương tiện cần để giúp hoàn thành nhiệm vụ? Kết quả cuối cùng của nhiệm vụ là gì?

Từ những giải pháp đã áp dụng, tơi nhận thấy bản thân mình đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế

- Những kết quả đạt được:

+ HS đã xác định được ví trí, tầm quan trọng và vai trị của mơn Lịch sử trong học tập, rèn luyện và vận dụng trong cuộc sống.

+ Phụ huynh đã có những thay đổi nhận thức về vai trị của việc học Lịch sử và nhu cầu được học Lịch sử của con em mình.

+ Chất lượng giáo dục ngày càng được nâng cao, nhiều em đều đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng mơn học. Nhiều em có kỹ năng, thái độ phù hợp để làm phương tiện học tập, tìm hiểu kiến thức trong cuộc sống.

- Hạn chế:

+ HS chịu sự ảnh hưởng nền giáo dục gia đình và cộng đồng nơi cư trú, có ít cơ hội được tham gia các hoạt động giáo dục đa dạng, phong phú với đầy đủ điều kiện cơ sở vật chất.

+ Vẫn còn một số HS chưa thực sự hòa đồng, có tâm lý ngại giao tiếp và thiếu chủ động trong q trình học tập mơn Lịch sử.

+ Những học sinh vẫn cịn thái độ ỷ lại vào sự tìm tịi, suy nghĩ của các bạn trong nhóm mà khơng chủ động nắm bắt kiến thức.

+ Học sinh vẫn còn phải ghi chép dài, việc ghi nhớ các sự kiện gặp khó khăn đặc biệt là các chiến dịch lịch sử như Chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ 1954 hay Chiến dịch lịch sử Hồ Chí Minh năm 1975

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

* Kết quả khảo sát chất lượng của học sinh.

Từ việc điều tra thực trạng trên, tôi thấy nhiều học sinh chưa có hứng thú học tập và kết quả đạt được chưa cao. Kết quả kiểm tra chất lượng trước khi làm đề tài sáng kiến này tôi thu được tại lớp 9A3, 9A4, 9A5.

Khi chưa thực hiện phương pháp:

Qua việc khảo sát ở trên, tôi nhận thấy rằng số lượng học sinh khá, giỏi cịn ít. Chủ yếu là học sinh trung bình và vẫn cịn học sinh yếu kém ở các lớp kể cả lớp chọn như 9A4 và 9A5. Điều này chứng tỏ các em chưa có hứng thú với mơn học, việc ghi nhớ nội dung các bài học về các sự kiện và nhân vật lịch sử, các di tích lịch sử cịn lơ mơ, chưa có sự sâu sắc, chưa đạt được yêu cầu đặt ra.

Từ những thực tế trên, tôi luôn nghĩ cần có một phương pháp dạy học tích cực hơn để tác động đến các em. Phải làm sao kích thích được hứng thú học tập, giúp các em tiếp thu kiến thức dễ dàng hơn và hiểu sâu, hiễu kĩ, nhớ lâu kiến thức bài học. Đây cũng là lý do chính mà tơi chọn giải quyết sáng kiến kinh nghiệm này để góp phần đổi mới phương pháp dạy học Lịch sử đang đặt ra một cách cấp thiết.

2. Mơ tả giải pháp sau khi có sáng kiến:

Vì Lịch sử bao gồm rất nhiều vấn đề nên bên cạnh việc sử dung những phương pháp dạy học tích cực, bản thân tơi đã nghiên cứu và áp dụng phương pháp vận dụng Sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử 9 tại lớp 9A3, 9A4, 9A5 năm học 2022- 2023. Đây là một trong những phương pháp vơ cùng hữu hiệu. Học sinh sẽ có thể nắm các sự kiện lịch sử, vấn đề một cách nhanh chóng và nhớ lâu. Các em sẽ khơng cịn phải học thuộc theo kiểu nhồi nhét mà các kiến thức sẽ

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

tiếp thu một cách trực quan, tự nhiên nhất. Để sử dụng thành công biện pháp sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học lịch sử ở lớp 9A3, 9A4, 9A5, tôi thực hiện cụ thể các giải pháp sau:

2.1. Giải pháp 1: Sử dụng SĐTD để mở đầu bài học môn Lịch sử lớp 9:

Sử dụng SĐTD trong dạy học nói chung và mở đầu bài học nói riêng là biện pháp mới, có nhiều ưu điểm. Biện pháp này khơng chỉ giúp cho HS nắm được những nội dung chính, cơ bản của mơn học mà bên cạnh đó cịn cung cấp cho các em cái nhìn tổng quá nhất về bài học mà mình sẽ được học. Đồng thời với sự linh hoạt của biện pháp này, GV sẽ tạo được hứng thú, tập trung và khả năng tư duy của HS ngay từ khi mở đầu bài học.

Đối với môn Lịch sử lớp 9, phần lớn nội dung bài học Lịch sử chủ yếu tập trung giai đoạn lịch sử thế giới cận đại, hiện đại, lịch sử Việt Nam từ năm 1918 đến hiện nay. Vì vậy, khi dạy học đối với môn Lịch sử lớp 9, GV cần có kiến thức lịch sử sâu rộng, am hiểu về các giai đoạn của lịch sử Việt Nam đồng thời phải có phương pháp dạy học tích cực, hiệu quả nhằm tạo hứng thú học tập cho HS và giáo dục lòng tự hào dân tộc cho các em. Một trong những khâu quan trọng đó là tạo hứng thú học tập cho HS ngay khi vào bài. Do đó, khi sử dụng SĐTD để mở bài, GV cần nắm bắt được nội dung chính của bài học, đánh giá những nội dung trọng tâm, quan trọng để xây dựng SĐTD.

Khi thiết kế và sử dụng SĐTD trong dạy học và mở bài Lịch sử lớp 9, Tôi hiểu rằng khơng phải nội dung nào, bài học nào cũng có thể sử dụng SĐTD; phần mở bài thường chiếm thời lượng ít, vì vậy sử dụng SĐTD cũng cần ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu để mang tính chất giới thiệu nội dung bài học giúp HS có thể nắm bắt được nội dung cơ bản ngay từ khi mở bài. Nội dung của Sơ đồ tư duy khi mở đầu bài học chỉ có tên bài học, các nhánh ghi nội dung lớn của từng bài và những đề mục nhỏ hơn. Chưa có nội dung chi tiết của bài học. Hoặc từ khóa của sơ đồ là tên chương mà các em sẽ học. Từng nhánh của sơ đồ sẽ là tên các bài học. Nhánh nhỏ hơn sẽ là các phần, các mục của từng bài. Ưu điểm lớn nhất khi sử dụng SĐTD trong mở bài Lịch sử lớp 9 là

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

những nhánh của sơ đồ, hình ảnh, từ khóa sẽ ngay lập tức kích thích tư duy và hình thành cơ chế đưa HS vào tư duy về nội dung bài học mà các em sẽ học. Vì vậy, GV cần hiểu và nắm rõ kĩ thuật thiết kế và sử dụng SĐTD một cách hiệu quả.

Ví dụ: Để dạy bài bài 1: Liên xô và các nước Đông Âu từ sau 1945 giữa những năm 70...Tôi sử dụng sơ đồ tư duy và giới thiệu như sau:

Bước 1. Tôi giới thiệu cho học sinh tên bài học: Bài 1. Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 của thế kỉ XX. Bài học này có ba phần

Phần I. Liên Xơ gồm hai mục nhỏ

1. Công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh (1945- 1950)

2. Tiếp tục công cuộc xây dựng cơ sở vật chất cho Chủ nghĩa xã hội Phần II. Đông Âu gồm hai mục

1. Sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu

2. Tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội ( từ năm 1950 đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX)

Phần III. Sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Sơ đồ tư duy mở đầu bài 1. Liên Xô và các nước Đông Âu từ năm 1945 đến giữa những năm 70 cảu thế kỉ XX

Như vậy, qua việc giới thiệu nội dung bài học bằng sơ đồ tư duy, học sinh sẽ nắm được những nội dung mà các em cần học ở bài 1 để các em có định hướng khi vào bài học nhằm tạo hứng thú cho các em, kích thích sự tìm tịi, sáng tạo ở học sinh, tạo tâm thế tốt nhất để học sinh có thể bắt đầu bài học nhẹ nhàng và đạt hiệu quả cao.

Hoặc để khi bắt đầu dạy chương III. Cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945, tôi giới thiệu cho các em những nội dung bài học của chương III này thông qua sơ đồ tư duy. Tôi sẽ cung cấp cho các em tên chương sẽ học “Cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám năm 1945” và gọi một học sinh lên bảng vẽ phần trung tâm của sơ đồ là tên chương. Sau đó tơi đặt các câu hỏi để học sinh nêu tên bài học cũng như nội dung chính của các bài và học sinh trên bảng sẽ dựa vào câu trả lời của bạn để hoàn thành sơ đồ:

Câu 1. Trong chương 3 mà chúng ta sẽ học có mấy bài học, nêu tên của từng bài học ?

Câu 2. Nêu các phần chính mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở từng bài ?

Thơng qua việc tìm hiểu và giới thiệu nội dung kiến thức của Chương III. Cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945, học sinh sẽ nắm được, ở chương này, các em được học ba bài học và nội dung chính của từng bài. Cụ thể như sau:

Chương III. Cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945 gồm 3 bài học:

Bài 21. Việt Nam trong những năm 1939-1945 I. Tình hình thế giới và Đơng Dương

II. Những cuộc nổi dậy đầu tiên

1. Khởi nghĩa Bắc Sơn (27/9/1940) 2. Khởi nghĩa Nam Kì (23/ 11/ 1940) 3. Binh biến Đơ Lương (13/ 1/ 1941)

Bài 22. Cao trào Cách mạng tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

I. Mặt trận Việt Minh ra đời (19/5/1941)

II. Cao trào kháng Nhật, cứu nước tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

1. Nhật đảo chính Pháp(9/ 3/ 1945)

2. Tiến tới Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945

Bài 23. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

I. Lệnh tổng khởi nghĩa được ban bố

II. Giành chính quyền trong cả nước (Tích hợp mục II và III trang 92, 93, 94) III. Ý nghĩa lịch sử và nguyên nhân thành công của Cách mạng tháng Tám

Sơ đồ tư duy giới thiệu bài học chương III. Cuộc vận động tiến tới Cách mạng tháng Tám 1945

Sau khi học sinh trên bảng vẽ xong, tôi sẽ gọi học sinh giới thiệu nội dung của chương III. Từ việc các em giới thiệu, tìm hiểu trước nội dung mà học sinh sẽ được học của Chương III, học sinh sẽ được tiếp cận các nội dung chính mà các em sẽ được học ở chương này như tên bài, tên các phần của bài giúp các em định hình được các nội dung mình cần học và để các em có cách tiếp cận phù hợp với nội dung của từng bài. Không những thế, việc giới thiệu nội dung bài

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

học bằng sơ đồ tư duy sẽ gợi dẫn trí tưởng tượng, sự quan tâm của các em đến với nội dung mơn học cũng như giúp các em có định hướng cụ thể để chuẩn bị bài và tìm kiếm các hình ảnh và video liên quan đến nội dung của chương phù hợp với từng bài học. Từ đó, giúp các em có sự chuẩn bị cho bài học hiệu quả hơn khi bắt đầu nội dung cụ thể của từng bài theo từng tiết học ở trên lớp.

2.2. Giải pháp 2: Sử dụng SĐTD để hình thành khái niệm lịch sử trong dạy học Lịch sử lớp 9:

Việc hình thành khái niệm Lịch sử có ý nghĩa quan trọng đối với việc dạy học Lịch sử. Khái niệm Lịch sử giúp HS hiểu được bản chất của sự kiện lịch sử, hiểu các mối quan hệ nhân quả và quy luật phát triển của xã hội. Với việc đi sâu vào bản chất sự kiện, khái niệm Lịch sử cịn giúp HS hệ thống hóa tri thức, thông qua sự hiểu biết về những biểu hiện muôn màu, mn vẻ bên ngồi, các em phân biệt được những sự kiện cùng loại, phân biệt được cái chung và cái riêng, cái phổ biến và cái đặc thù trong quá trình phát triển cực kì phức tạp của xã hội lồi người. Việc hình thành khái niệm gắn liền đối với việc giáo dục tư tưởng, bồi dưỡng thế giới quan khoa học, tạo niềm tin cho HS. Để hình thành khái niệm cho HS trong dạy học Lịch sử lớp 9, người GV có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau, trong đó có biện pháp sử dụng SĐTD để hình thành khái niệm cho các em. Bởi SĐTD với những đặc điểm của mình có thể giúp HS nắm được bản chất, đặc trưng của nội hàm khái niệm. Từ đó, HS có thể nêu lên thuật ngữ, rồi định nghĩa khái niệm.

Ví dụ: khi dạy bài Bài 7: Mĩ La tinh để hình thành các khái niệm liên quan đến bài học tôi sử dụng sơ đồ tư duy vẽ các nội dung chính của bài học này.

Để hình thành khái niệm cho HS, và nhằm giúp các em hiểu được khái niệm về các nước Mĩ la tinh; đồng thời làm rõ hoàn cảnh lịch sử lúc đó:

+ Bước 1: Tơi sử dụng SĐTD xác định nội hàm khái niệm cho HS. Qua đó, HS có thể thấy được các sự kiện qua các giai đoạn khác nhau

+ Bước 2: Thông qua việc xác định nội hàm khái niệm, tôi chốt nội dung bài học

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

+ Bước 3: GV cho HS tự định nghĩa khái niệm. Cuối cùng, GV đưa ra định nghĩa

+ Bước 4: HS vận dụng kiến thức đã học để tiếp thu những kiến thức mới trong bài. HS sẽ có cơ sở lý luận để đánh giá, nhận định vấn đề chung của bài học này

Sơ đồ tư duy hình thành khái niệm Mĩ La Tinh

</div>

×