Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Luận văn: "Vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước" ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (411.38 KB, 47 trang )



1














Luận văn: "Vai trò điều tiết vĩ mô nền
kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước"

















2









MỤC LỤC

Lời nói đầu 1
Nội dung 5
Chương 1: tổng quan về ngân sách nhà nước và những tác động vĩ
mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước 5
1.Ngân sách nhà nước : 5
Chương2: thực trạng quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường
của ngân sách nhà nước 17
2. Thực trạng thu và chi ngân sách nhà nước 27
Chương 3: Các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế
thị trường của ngân sách nhà nước 34
I. Các giải pháp tăng thu ngân sách nhà nước : 34
2. Các giải pháp chi có hiệu quả: 38
3. Các biện pháp đIều tiết vĩ mô nền kinh tế của ngân sách nhà
nước có hiệu quả: 40

Kết luận 43
Tài liệu tham khảo 46


3











LỜI NÓI ĐẦU

Những biến động về kinh tế của khu vực trong những năm cuối của
thế kỉ 20 đã tác đông mạnh mẽ tới nhận thức kinh tế cũng như sự phát triển
kinh tế của Việt nam. Trải qua một thời gian phát triển kinh tế một cách
mạnh mẽ các nước Đông nam á vừa mới trải qua một cuộckhủng hoảng
tiền tệ lớn mà điểm suất phát là Thái lan. Do sự quyết định thả nổi “đồng
bạt” của Chính phủ thái lan. Điều đó đã tácđộng trực tiếp tới nền kinh tế của
Thái lan mà còn lan rộng ra các nước trong khu vực. Nó đã chứng minh một
cách mạnh mẽ các tác động vĩ mô của Chính phủ tới nền kinh tế như thế
nào. Qua kinh nghiệm của các nước đi trước ta thấy vai trò điều tiết vĩ mô
nền kinh tế thị trườnglà rất to lớn. Chính phủ thông qua ngân sách nhà nước
để thực hiện điều tiết vĩ mô qua hoạt động thu chi ngân sách. Vậy vấn đề
cấp bách đặt ra là nhà nước ta cần phải xem xét sác định một cách đúng đắn

vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước trong


4

điều kiện nước ta chuyển đổi nền kinh tế tập chung bao cấp sang kinh tế thị
trường bên cạnh đó ta thấy thực hiện ngân sách nhà nước ở Việt nam trong
những năm qua là rất bất ổn định thường xuyên thâm hụt ngân sách. Việc
sử dụng ngân sách kém thường xuyên.

Hiệu quả phần trăm thất thoát ngân sách nhà nước là cao nhất. Vai trò
điều tiết vĩ mô nền kinh tế của ngân sách nhà nước trong những năm qua là
rất thấp. Đặc biệt những năm 1980-1986 ngân sách bị thâm hụt nay chính
phủ đã điều tiết bằng cách phát hành tiền đã rẫn đến tình trạng lạm phát phi
mã nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoãng.
Để khắc phục tình trạng trên một lần nữa chúng ta lại khẳng định sự
cần thiết phải nghiên cứu về vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế của ngân
sách nhà nước.
Xét trên góc độ tính chủ quan thì quá trình nghiên cứu này sẻ đáp ứng
được sự mong muốn hiểu biết về vai trò của ngân sách nhà nước từ đó có
thể hiểu được sâu sắc các chính sách mà nhà nước đưa ra này sự hiểu biết
kinh tế dưới góc độ vĩ mô.
Mục đích đặt ra của đề tài là khẳng định quan điểm “ngân sách nhà
nước là một trong những chính sách quan trọng nhất điều tiết vĩ mô nền
kinh tế thị trường “ điều đó được chứng minh qua lí luận và thực tiển.
Ngân sách nhà nước thông qua các hoạt động của mình giúp nền
kinh tế ổn định và tăng trưởng, tạo công ăn việc làm, điều tiết tỉ lệ lạm phát,
công bằng xã hội chúng ta đặc biệt chú ý đến hoạt động thu ngân sách nhà
nước từ thuế thông qua chính sách thuế để điều tiết vĩ mô toàn bộ nền kinh
tế. Cũng như hoạt động chi ngân sách nhà nước tác động đến lượng cung

tiền ảnh hưởng tới lạm phát, việc làm và tăng trưởng kinh tế. Với kế hoạch
chi tiêu của mình nhà nước còn làm ảnh hưởng tới thu nhập và hành vi tiêu
dùng của dân cư và doanh nghiệp.
Thông qua đó thực hiện các chính sách vĩ mô như chính sách kích
cầu,chính sách khuyến khích sản suất xuất khẩu. Bằng các biện pháp phân
tích tổng hợp các vấn đề lí luận và thực tiển và từ đó chứng minh được vai
trò to lớn điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của ngân sách nhà nước.



5

TRONG PHẠM VI ĐỀ TÀI EM XIN ĐƯỢC CHIA L
ÀM BA
CHƯƠNG CHÍNH
Chương một
Tổng quan về ngân sách nhà nước và những tác động vĩ mô nền kinh
tế thị trường của ngân sách nhà nước.
Chương hai
Thực trạng về vai trò điều tiết vĩ mô kinh tế trong những năm trước.
Chương ba
Giải pháp để nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế
thị trường









NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG VĨ MÔ NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Luận cứ khoa học cơ bản của ngân sách nhà nước tác động đến
điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường.
1.NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC :
Ngân sách nhà nước là một bản dự toán thu và chi nhà nước và đã
được cơ quan chúc năng (quốc hội ) quyết định và được thực hiện trong một
năm từ 1/1-31/12 nhằm thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước
đối với nền kinh tế xã hội.


6

Vậy nếu ta nhìn bề ngoài thì ngân sách nhà nước là một bản cân đối
một bên là thu của nhà nước một bên là phản ánh nguồn chi của nhà nước.
từ đó ta thấy được ngan sách bôị thu hay bội chi.
Ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ kinh tế trong quá trình
hình thành quĩ ngân sách nhà nước và trong quá trình sử dụng quĩ ngân sách
nhà nước-ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa một bên là
nhà nước và một bên là các thành phần còn lại trong nền kinh tế.
Các mối quan hệ đó là :
Nhà nước với doanh nghiệp
Nhà nước với các tổ chức xã hội
Nhà nước với các thành phần dân c
ư .
Nhà nước với các nhà nước khác
Ngân sách nhà nước là khâu chủ đạo và đong vai trò chi phối trong

hệ thống tài chính quốc gia nó chi phối các tổ chức doanh nghiệp, tổ chức
đối ngoại, tổ chức xã hội đưa ra các thể lệ, chính sách cho các hoạt động tài
chính.
Hoạt động của ngân sách nhà nước luôn luôn ngắn liền với nhiệm vụ,
với chức năng của nhà nước mục tiêu hoạt động của ngân sách nhà nước
thông phải là lợi nhuận mà hoạt động cơ bản của nó nhằm vào các mục tiêu
có tính chất vĩ mô như vấn đề việc làm, lạm phát, tạo lập sự công bằng ổn
định môi trương trong nền kinh tế
Ngân sách nhà nước là một nguồn lực tài chính để giúp cho nhà nước
thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của mình đối với nền kinh tế, cụ
thể trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, ngân sách nhà nước có vai trò
trong việc điều tiết vĩ nền kinh tế xã hội. Đó là vai trò định hướng phát triển
sản suất, điều tiết thị trưòng bình ổn giá cả, điều tiết đời sống xã hội để
thực hiện được các vai trò đó, ngân sách nhà nước phải có các nguồn vốn
được tập chung từ các tụ điểm vốn thông qua các chính sách thu thích hợp.
ngân sách nhà nước thực hiện các khoản chi cho tiêu dùng thường xuyên và
chi cho đầu tư phát triển. Việc cấp phát vốn ngân sách nhà nước cho các
mục đích khác nhau này sẻ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn.
*Thu ngân sách nhà nước :


7

Thu ngân sách nhà nước là các quan hệ kinh tế giữa một bên là nhà
nước, một bên là các tổ chức xã hội.hay các quá trình tạo ra quỹ ngân sách
nhà nước
Thu ngân sách nhà nước bao gồm các khoản thu do thu nhập quốc
dân hay viện trợ, vay từ nước ngoài trong đó thuế là yếu tố chính quyết định
thu ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó còn có phí và lệ phí, các khoản thu từ
lợi tức đầu tư của nhà nước, thu từ việc bán và cho thuê các tài sản của nhà

nước, vay viện trợ của nước ngaòi, một số nguồn thu khác như thu từ việc
hợp tác lao động nước ngoài.
*Chi ngân sách nhà nước là các khoản mà nhà nước phải chi ra để
duy trì hoạt động và đạt được những mục tiêu, nhiệm vụ của mình.
Chi ngân sách nhà nước bao gồm : chi thường xuyên, chi cho đầu tư
phat triển, chi trả nợ vay của chính phủ của ngân sách nhà nước.
*Bội chi ngân sách nhà nước :
Khi các khoản thu ngân sách nhà nước không kể các khoản vay mà
không đủ chi trả cho ngân sách nhà nước gọi là bội chi ngân sách nhà nước.
Thông thường khi nói đến ngân sách nhà nước thường là nói đến bội chi.
Bội chi thường mang tính quy luật.
Ở đề tài này ta nghiên cứu tác động vĩ mô của ngân sách nhà nước tới
nền kinh tế thị trường hay thực chất là nghiên cứu vấn đề bội chi tác động vĩ
mô tới nền kinh tế thị trường như thế nào ? bội chi trong phạm vi giới hạn
nào là tốt nhất ? và muốn đạt được phạm vi giới hạn tốt nhất đó nhà nước ta
cần phải thực hiện những chính sách nhuư thế nào ? chính sách phải bám
sát vào những vấn đề tác động đến bội chi ngân sách nhà nước như nghiên
cứu về thuế, chi tiêu thường xuyên
Muốn hiểu được những tác động vĩ mô nền kinh tế thị trường của
ngân sách nhà nước là ngân sách nhà nước thông qua hoạt động của mình
điều tiết bao quát sự vận động nền kinh tế thị trường.
Mục tiêu của chúng ta khi nghiên cứu kinh tế vĩ mô không phải chỉ
dừng lại ổ phạm vi lý giải các biến cố kinh tê mà còn nhằm cải thiện chất
lượng của chính sách kinh tế. các công cụ tài chính tiền tệ của chính phủ có
thể tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế bao gồm cả mạt tích cực và mặt tiêu


8

cực. Giúp cho các nhà kinh tế hoạch định chính sách, đánh giá những chính

sách khác nhau. từ đó nghiên cứu nền kinh tế như nó đang tồn tại.
Và tìm ra phương pháp để cải thiện nó.
Những vấn đề kinh tế ví mô bao gồm: lạm phát, tăng trưởng của thu
nhập, thay đổi giá cả và tỷ lệ thất nghiệp. Các số liệu kinh tế vĩ mô phản
ánh giá trị của hoạt động kinh tế (tổng sản phẩm trong nước ), phản ánh giá
sinh hoạt ( chỉ số giá tiêu dùng ), phản ánh tình trạng thất nghiệp ( tỉ lệ thất
nghiệp )
Mặt khác các vấn đề kinh tế đó nằm trong một thể thống nhất có tác
động qua lại lẫn nhau. vì vậy vấn đề đặt ralà ta cần phải điều tiết nó như thế
nào để đem lại lợi ích cao nhất.
Ở đây nghiên cứu các vấn đề kinh tế vĩ mô và nhưng vấn đề tác động
tới nó cũng như nó tác động tới các chính sách khác
a.lạm phát và tác động vĩ mô của ngân sách nhà nứoc tới lạm phát.
Lạm phát là một hiện tượng tiền tệ.Lạm phát một điều kiện làm cho
mức giá cả tiếp tục tăng lên, trở thành mối quan tâm chính của các nhà
chính trị và công chúng. Việc kiểm soát lạm phát như thế nào là vấn đề
hàng đầu trong cuộc tranh luận về chính sách kinh tế. Hiện nay vẫn còn
nhiều quan điểm khác nhau về lạm phát. đứng trên góc độ tiền tệ thì ta thấy
nguồn gốc của mọi lạm phát là một tỉ lệ tăng trưởng cao của cung tiền tệ.
Đơn giản bằng cách giảm tỉ lệ tăng trưởng cung tiền tệ đến mức thấp nhất
thì có thể ngăn chặn đưọc lạm phát.
Nhưng chính sách tiền tệ, lạm phát chỉ là một bộ phận của chính sách
khác của chính phủ. Vì khi giảm tỉ lệ tăng trương của tiền tệ có nghĩa là
đang ngăn chặn tăng trưởng kinh tế và thất nghiệp tăng. Điều này mâu
thuẫn với những chính sách khác của chính phủ như: nỗ lực đạt được chỉ
tiêu công ăn việc làm cao hoặc quản lý thâm hụt ngân sách lớn. Hiểu được
những chính đó đưa đến lạm phát như thế nào sẽ cho chúng ta một vài ý
nghĩ về việc làm cách nào để ngăn chặn lạm phát với giá thấp nhất phải trả
bằng thất nghiệp và tổn thất phải trả.
Ta thấy rằng quan điểm của friedmal là hoàn toàn đúng trên góc độ

tiền tệ : ( trong mọi trường hợp mà tỉ lệ lạm phát của một nước là cực kỳ


9

cao trong bất cứ thời gian kéo dài nào tì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng tiền
tê là cực kỳ cao )
Trong góc độ bài viết này ta chỉ đề cập đền ảnh hưởng của ngân sách
nhà nước tới việc cung ứng tiền tệ từ đó tác động đến tỉ lệ lạm phát.
Trước hết đứng trên góc độ chi của ngân sách nhà nước :
Kết quả của việc tăng thường xuyên từng đợt trong chi tiêu của chính
phủ là việc tăng thươngf xuyên của mức giá cả. mức giá cả tăng ta có tỉ lệ
lạm phát dương. nhưng việc tăng một đợt trong chi tiêu của chính phủ chỉ
đư ađến một sự tăng tạm thời của tỷ lệ lạm phát chứ không phải là một mức
lạm phát mà trong đó mức giá cả tăng kéo dài,
Đứng trên góc độ thu ngân sách nhà nước:
Việc kéo dài giảm thuế sẽ dẫn đến việc tăng giá hàng hoá dẫn đến
lạm phát. Từ các tác động trên chímh phủ có thể điều chỉnh được lạm phát
thông qua quá trình hoạt động. Nếu chính phủ muốn giảm lạm phát thì
chính phủ tăng thuế và giảm chi tiêu
Lạm phát và việc làm luôn là hai vấn đề tỷ lệ với nhau có nghĩa là khi
lạm phát tăng thì tỷ lệ thất nghiệp giảm, khi lạm phát giảm thì tỷ lệ thất
nghiệp tăng. Điều này quyết định chi phối rất lớn trong chiến lược phát triển
kinh tế mà chính phủ đưa ra, tuỳ thuộc rất lớn vào mục tiêu đề ra trong thời
gian tới của chính phủ để điều chỉnh. Nếu trong thời gian vừa qua lạm phát
tăng lên quá cao vượt ra ngoài hai con số thì lúc này chính phủ cần đưa ra
chính sách giảm tỷ lệ lạm phát đồng nghĩa với việc chấp nhận một tỷ lệ thất
nghiêp tăng cao. Hay khi tỷ lệ thất nghiệp trong nước tăng lên quá cao ảnh
hưởngđến đời sống của lực lượng lao động nhất là từng lớp sinh viên mới ra
trường không tìm được việc làm thì lúc này chính phủ cần đưa ra chính sách

kích cầu tiêu dùng, tăng cung tiền tệ, giảm thuế. Lúc này lạm phát tăng cao.
Qua một số phân tích trên đây ta đã thấy được một phần tác động vĩ
mô của ngân sách nhà nước tới kinh tế thị trường. Muốn điều chỉnh được
nền kinh tế vĩ mô ta cần phân tích một số chính sách liên quan đến ngân
sách nhà nước tác động đến nền kinh tế thị trường
*Chính sách ngân sách nhà nước :
Khi các hộ kinh doanh và hộ gia đình quá bi quan vào tương lai, chi
tiêu cho đầu tư và tiêu dùng có thể giảm mạnh, do giá cả và tiền lương


10

không thể giảm xuống đủ nhanh và đủ mạnh, nền kinh tế có thể trải qua
một thời kì suy thoái với các đặc trưng là sản suất đình trệ thất nghiệp cao.
trong bối cảnh đó nếu chính phủ theo đuổi chính sách tài chính thận trọng,
cố duy trì ngân sách cân bằng bằng cách hạn chế chi tiêu thì có thể đưa nền
kinh tế tới tình trạng khủng hoãng trầm trọng. để nhanh chóng vượt qua
khủng hoãng, hạ thấp tỉ lệ thất nghiệp, chính phủ cần tăng chi tiêu để tăng
cầu hoặc khuyến khích đầu tư vào khu vực tư nhân nhằm huy động mọi
nguôn lực cho sự tăng trưởng. đó chính là tư tưởng của chính sách ổn định
kinh tế mà chính phủ cần đảm đương để luôn duy trì đưọc trạng thái toàn
dụng nhân lực
Ở việt nam do đặc thù từ nền kinh tế tập chung chuyển sang kinh tế
thị trường tình hình chi ngân sánh vẩn còn phán ánh tình trạng bao cấp nặng
nề tốc độ về chi ngân sách tăng nhanh về tuyệt đối cũng như tương đối.
trong lĩnh vực chi ngân sách 1986 chi ngân sách nhà nưiưóc chiếm tỉ lệ
trọng là 37,5% đến năm 1988 là 41,5% trung bình tăng 7,8% hàng năm.
trong vòng 5 năm trở lại đây riêng chi cho lĩnh vực sự nghiệp kinh tế tăng
gấp 8,8 lần. ở các quốc gia khác nhau đối tượng chi kinh tế của ngân sách
cũng hết sức khác nhau. tuy nhiên các hoạt động chi ngân sách này có điiểm

chung là hổ trợ sự phat triển kinh tế mở rộng thị trường trong nước và quốc
tế.
Đối tượng chi ngân sách chủ yếu trên các lĩnh vực tài trợ trực tiếp,
thực hiện cácchương trình nghiên cứu và phát triển về sản suất hàng hoá
cũng như đổi mới công nghệ, điện khí hoá, quy hoạch đô thị và dân cư, lãi
suất và thuế ưu đãi.
Tài trợ trực tiếp :
nhằn đảm bảo những mục tiêu về kinh tế xã hội, chinh phủ thường sử
dụng những khoản tài trợ trực tiếp từ ngân sách cho các doanh nghiệp để
duy trì, ổn định mở rộng các hoạt đọng kinh doanh.
Đối tượng được tài trợ bao gồm các ngành độc quyền nhà nước, cơ sở
hạ tầng như vận tải đường sắt, bưu điện viển thông, năng lượng các dịch vụ
công cộng như điện nước. Các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu như
công nghiệp luyện kim, cơ khí


11

+ Lĩnh vực quốc gia: phát triển các ngành nhằm làm giảm phụ thuộc
nước ngoài như lương thực, thực phẩm, cơ khí chế tạo.
+Lĩnh vực dân thuần tuý : nhằm bảo đảm phát triển các ngành nghề
truyền thống sử dụng triệt để tài nguyên, phát huy tay nghề,
Các biện pháp tài trợ thường dùng là: trợ giá, giảm thuế sản suất và
tiêu dùng cho vay với lãi suất ưu đãi, cung cấp máy móc thiết bị, vật tư từ
các chương trình viện trợ lãi suất thấp, viện trợ không hoàn lại và miễn
thuế, mua sản phẩm với giá cao. chi phí của chính phủ cho việc tài trợ các
doanh nghiệp là rất lớn.
Thực hiện các chương trình nghiien cứu phát triển và hàng hoá. công
việc bảo đảm hàng hoá của chính phủ khong chỉ nhằm vào việc nâng cao
phucs lợi cho một bộ phận lớn dân cư mà còn có những tác dụng nhất định

đối với việc phát triển nền kinh tế, thông qua việc chi phí tiêu dùng hàng
hoá công cộng chính phủ thể hiện sự điều tiết của mình trong quá trình tăng
trưởng kinh tế
Khi chi tiêu công cộng tăng lên, trên thị trường vật phẩm tiêu dùng
sẽ cần có su hướng tăng lên thông qua việc nâng cao thu nhập từ các cơ
quan thông quyền và hệ thống bảo hiểm xã hội. chính sự tăng cầu đã góp
phần hạn chế suy thoái nền kinh tế theo chu kì. trên thị trường tư liệu sảnv
suất bằng việc đầu tư sản suất hàng hoá công, trợ cấp, góp vốn hoặc trợ giá
cho các doanh nghiệp để đảm bảo danh lợi đã có thể thúc đẩy khả năng phát
triển nền kinh tế.

Bên cạnh các tác động tích cực từ việc bảo đảm hàng hoá công của
chính phủ cần hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực có thể
xảy ra. nếu chi tiêu công cộng của chính phủ quá cao sẽ dẫn đến việc tăng
giá hàng hoá thiếu hụt ngân sách và lạm phát. mặt khác việc tăng trợ cấp xã
hội có thể làm hạn chế tính năng động và giảm số cung của nền kinh tế do
thủ tiêu các tác nhân mang tính động lực
*Chính sách thuế khoá:
Vai trò điều chỉnh kinh tế của chính phủ còn được thể hiện ở việc
động viên nguồn lực vào ngân sách. cơ cấu nguồn thu từ ngân sách phụ
thuộc vào tình hình đặc điểm nền kinh tế chính trị, cơ cấu kinh tế, chính


12

sách, chi ngân sách của từng nước. Tuy nhiên các nguồn thu từ thuế ở đa số
các nước thường chiếm tỉ trọng cao trong ngân sách
Thông thường nguồn thu từ thuế chiếm 90% ngân sách. Tuy nhiên
tuỳ theo chính sách thuế mỗi nước và cơ cấu nguồn thu mà có thể có những
khác biệt. Vì vậy thuế thường trở lên là một công cụ quan trọng của chính

phủ góp phần tích cực vào việc điều chỉnh các mất cân đối lớn trong nền
kinh tế, góp phần khuyến khích tăng trưởng kinh tế, khuyến khích cạnh
tranh và mở rộng thành phần kinh tế động viên khai thác tài nguyên lao
động, nguyên nhiên vật liệu tronh nước kích thích khai thác nguồn vốn từ
nước ngoài, mở rông giao lưu hàng hoá ngoài ra thuế còn góp phần bảo
đảm công bằng xã hội, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
Ở việt nam trong những năm vừa qua thuế còn nhiều điều bất hợp lí,
số thu còn thấp, thất thu còn nhiều, dẩn đến việc liên tục bội chi ngân sách
nhà nước.
Nếu phân biệt theo tính chất có hai loại thuế :
-Thuế trực thu : thuế thu nhập và thuế lợi tức (thuế thu nhập công
ty,thuế doanh nghiệp ) thuế tài sản, thuế đất
-Thuế gián thu : thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập
khẩu, thuế độc quyền nhà nước, thuế VAT
Các loại thuế trực thu chủ yếu nhằn điều chỉnh phân phối phúc lợi
nền kinh tế, thực hiện phân phối lại tổng sản phẩm quốc gia tạo nguồn thu,
thuế trực thu còn có khả năng điều chỉnh đầu tư, điều tiết sản xuất, đổi mới
công nghệ
Các loại thuế mang tính chất gián thu chủ yếu có tác dụng khuyến
khích điều tiết sản xuất đầu tư, hướng dẩn tiêu dùng và tạo nguồn thu ngân
sách cho nhà nước, vừa khuyến khích XNK vừa phải bảo vệ khuyến khích
phát triển trong nước. thuế gián thu cũng đóng góp một phần quan trọng ổn
định cho ngân sách nhà nước.
Nói chung trong nền kinh tế thị trường có điều tiết của chính phủ
thuế ngày càng trở nên một dụng cụ quan trọng nhằm thể hiện vai trò điều
chỉnh kinh tế của chính phủ. chính sách thuế hợp lý tạo ra nguồn thu chủ
yếu cho phần ngân sách tác động điều chỉnh mạnh mẽ các hoạt động sản
xuất kinh doanh, đảm bảo công bằng và kích thích cạnh tranh.



13

*Chính sách tài chính tiền tệ :
Nội dung của bộ phận cấu thành chính sách tài chính tiền tệ :
Chính sách tài khoá : chính sách tài khoá gắn liền với những điều
chỉnh trong các hoạt động thu và chi của chính phủ nhằm hướng nền kinh tế
tới mức sản lượng và sử dụng nhân công mong muốn. các công cụ chủ yếu
của chính sách tài khoá là : chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư của chính phủ
;các loại thuế ; chuyển khoản của chính phủ.
Chính sách tiền tệ : bao gồm việc kiểm soát mức cung tiền và lãi suất
có quan hệ chặt chẽ với mục tiêu ổn định giá trị đồng tiền, ổn định giá cả và
khuyến kích đầu tư. thúc đẩy tăng trưởng trong dài hạn. các công cụ chủ
yếu mà ngân hàng trung ương ở các nước có nền kinh tế thị trường phát
triển thường sử dụng để điều tiết mức cung tiền bao gồm :
+ Nghiệp vụ thị trường mở, trong đó ngân hàng trung ương mua vào
hay bán ra các chứng khoán của chính phủ nhằm tác động trực tiếp tới cơ sở
tiền.
+ Thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tỉ lệ mà các ngân hàng trung
ương bắt buộc phải giử lại làm quỹ dự trữ ở ngân hàng trung ương đối với
các khoản tiền gửi.
+ Thay đổi lãi suất chiết khấu, tức là mức lãi suất tính cho các khoản
tiền vay của ngân hàng thương mại từ ngân hàng trung ương.
Chính sách tỉ giá : việc thay đổi tỉ giá giửa trao đổi nội tệ và ngoại tệ
sẽ tác động tới mức giá tương đối giữa hàng trong nước và hàng ngoại nhập
từ đó ảnh hưởng đến khối lượng tiền trong nước.
Công cụ của chính sách ngân sách nhà nước :
Công cụ ngân sách nhà nước có vai trò định hướng và thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế theo chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhà nước. Thuế
và các khoản chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước là những công cụ
bộ phận của ngân sách nhà nước có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát

triển kinh tế xã hội. hiện nay và trong tương lai công cụ thuế được nhà nước
sử dụng triệt để một mặt tạo nguồn tài chính cho nhà nước và một mặt thúc
đẩy vốn, điều tiết sản xuất và tiêu dùng theo hướng có lợi cho nền kinh tế
quốc dân


14

Thuế gián thu và thuế trực thu tác động tiết kiệm và đầu tư của khu
vực doanh nghiệp théo những hướng khác nhau. trên thực tế, thuế gián thu
vừa tạo nguồn thu ổn định cho ngân sách nhà nước, vừa tạo ra môi trường
bình đẳng ban đầu cho các doanh nghiệp và trên cơ sở đó các doanh nghiệp
hoạt động, cạnh tranh để phát triển. thuế gián thu không làm ảnh hưởng tới
quá trình đầu tư, và thực hiện tái đầu tư của các doanh nghiệp. Tuỳ theo các
chính sách thuế của nhà nước cho từng thời kỳ với việc đánh thuế gián thu
vào lĩnh vực tiêu dùng cao hay thấp nhà nước sẽ điều chỉnh giá cả, cơ cấu
cầu của xã hội và sản lượng tiềm năng của nền kinh tế quốc dân. Chính vì
vậy cần phối hợp chặt chẽ các loại thuế trực thu và thuế gián thu để điều
chỉnh sản xuất và tiêu dùng thực hiện các hệ thống thuế theo hướng coi
trọng thuế gián thu hơn thuế trực thu, giảm mức thuế trực thu đánh vào lợi
nhuận đạt được của khu vực kinh doanh để đạt điều kiện thuận lợi cho khu
vực này thực hiện tiết kiệm đầu tư cho kinh doanh. tránh đánh thuế trùng
lắp chồng chéo mà trước đây là thay thế doanh thu bằng thuế giá trị gia
tăng, đánh thuế vòng bằng và có hiệu quả thì mới có tác dụng thúc đẩy khu
vực doanh nghiệp và dân cư thực hiện tích tụ, đầu tư, đổi mới kỷ thuật và
công nghệ.nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Chi đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước được tập chung vào xây
dựng và phát triển cơ sở hạ tầng và một số ngành kinh tế mủi nhọn. Việc
đầu tư này tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn đầu tư của các
thành phần kinh tế và cho phép nhà nước chủ động điều tiết sự hoạt động

của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Việc sử dụng ngân sách nhà nước với hai công cụ bộ phận quan trọng
của nó là thuế và chi tiêu đầu tư phát triển cho phép ngân sách nhà nước tác
động mạnh mẽ vào hoạt động nền kinh tế xã hội. ngân sách nhà nước là một
công cụ được nhà nước sự dụng để can thiệp vào lĩnh vực kinh tế do đó
muốn phát huy tác dụng hiểu hiệu của nó trong quản lý và điều tiết vĩ mô
nền kinh tế đòi hỏi ngân sách nhà nước phải có tiềm lực về tài chính và hoạt
động lành mạnh, có hiệu quả. Vấn đề này liên quan đến cân đối ngân sách
và sử lý bội chi ngân sách nhà nước hiện nay. về mặt lý luận được đề cập
tới và trên thực tế cần phối hợp sự vận dụng đồng thời hai phương phaps cơ
bản xử lý bội chi của ngân sách đó là tăng thu, giảm chi và thực hiện vay nợ


15

trong và ngoài nước của chính phủ trong trường hợp bội chi ngân sách xuất
phát từ yêu cầu đầu tư phát triển.
2>Ảnh hưởng của bội thu, bội chi ngân sách nhà nước tới các vến đề
tăng trưởng kinh tế.
Bội chi ngân sách ảnh hưởng đến việc cung cấp tiền tệ trên thị
trường từ đó tác động tới mọi hoạt động kinh tế
Các công cụ chính sách tiền tệ, chính phủ có thể thực thi chính sách
tiền tệ nới lỏng hay thắt chặt. chính phủ mỡ rộng tiền tệ thường được áp
dụng ở những nước có nhịp độ tăng trưởng thấp, nạn thất nghiệp gia tăng.
Khi thực hiện chính sách mõ rộng tiền tệ, lượng cung ứng cho nền kinh tế
quốc dân tăng lên do đó sẽ dẫn đến việc mỡ rộng tín dụng với lãi suất thấp.
điều này kích thích các nhà đầu tư và doanh nghiệp mỡ rộng đầu tư, mỡ
rộng hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế quốc dân. đối với việt
nam trong điều kiện thúc đẩy một bước công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, nâng cấp và phát triển cơ sở hạ tầng, tăng cường đầu tư vào các

ngành kinh tế mủi nhọn, then chốt, trong điều kiện nền kinh tế đã có sự tăng
trưởng, lạm phát được kiềm chế và kiểm soát được một bước thì đòi hỏi nhà
nước phải vận dụng chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng trong
giai đoạn 1996-2000 và những năm tiếp theo. khi thực thi mỡ rộng mức
cung tiền tệ đòi hỏi nhà nước phải căn cứ vào tieemf năng phát triển kinh tế,
khả năng tiêu thụ sản phẩm của toàn xã hội. Sử dụng lao động dư thừa và
đặc biệt là xem xét hiệu quả đầu tư của nền kinh tế. việc mỡ rộng khả năng
cung ứng khối lượng tiền tệ mới cho nền kinh tế sẽ dẫn tới lạm phát làm rôí
loạn lưu thông tiền tệ, rối loạn thị trường tài chính và hoạt động của nền
kinh tế quốc dân.
Để đạt được mục tiêu của chính sách tiền tệ là tăng trưởng phát triển
môi trường tài chính nâng cao tiết kiệm đầu tư kiểm soát lạm phát ổn định
tiền tệ và tỉ giá hối đoái đòi hỏi ngân hàng nhà nưóc phải phát huy hửu hiệu
vai trò quản lý và điiêù tiết vĩ mô các hoạt động tiền tệ tín dụng trong nền
kinh tế quốc dân bằng việc sử dụng các công cụ tài chính trực tiếp và gián
tiếp để tác động tới khả năng cung ứng khối lượng tiền tệ đang tồn tại.
Ngoài ra ngân sách nhà nước với việc chi tiêu của mình còn điều
chỉnh khối lượng tiền tệ thông qua ngoại hối tín dụng. khi thị trường trong


16

nước xuất hiẹn hiện tượng khan hiếm ngoại tệ thì lúc này chính phủ có thể
sử dụng ngân sách của mình để tác động đưa lượng ngoại tệ dự trữ từ ngân
hàng trung ương ra (chính phủ phải sử dụng ngân sách để bù lỗ cho ngân
hàng trung ương khi hoạt động của ngân hàng trung ương bị thua lổ do việc
giúo nhà nước thực hiện được các mục tiêu của mình ). Tác động đến cung
cầu ngoại tệ. Từ đó ngân sách nhà nước gián tiếp tác động đến hoạt động
xuất nhập khẩu trong và ngoài nước.
Còn khi nhà nước bị rơi vào tình trạng bội chi. Muốn xử lý nó thì

một công cụ quan trọng đó là việc phát hành trái phiếu.muốn vậy chính phủ
phải đua công cụ thỉ trường mở vào hoạt động và tăng cường sử dụng công
cụ này. Bằng công cụ thị trường mở đã tác động đến nguồn thu ngân sách
nhà nước
Và hỗ trợ cho việc phát hành trái phiếu thuận lợi. Do đó việc vận
dụng công cụ thị trường mở đòi hỏi trước mắt không chỉ đối với tín phiếu
kho bạc mà ngay cả với tín phiếu kho bạc và các loại chứng chỉ đầu tư của
nhà nước( trái phiếu công trình ). Cần phải phát hành theo phương thức đấu
thầu thông qua hoạt động của ngân hàng ngoại thương trung ương và các
ngânhàng thương mại trong đó tăng cường vai trò của ngân hàng nhà nước
trung ương trong việc phát hành tiền để mua trái phiếu chính phủ và qua đó
thực hiện việc mua trái phiếu lại traí phiếu chính phủ với các ngân hàng
thương mại với các tổ chức kinh tế theo tín hiệu thị trường.
Qua quá trình phân tích trên ta đã biết được những tác động vĩ mô
của ngân sách nhà nước tới nền kinh tế tiền tệ đứnh trên góc độ lý luận
chung còn thực tế ở việt nam thì sao ? ngân sách nhà nước đã đáp ứng được
vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh tế hay chưa ? những mặt
nào được, những mặt nào chưa được và lý do tại sao lại chưa được sẽ được
đề cập đến trong chương 2 “thực trang jquá trình điều tiết vĩ mô của ngân
sách nhà nước “.



17

CHƯƠNG2: THỰC TRẠNG QUÁ TRÌNH ĐIỀU TIẾT
VĨ MÔ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG CỦA NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC

Thực trạng quá trình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của

ngân sách nhà nước trong các giai đoạn trước.
Giai đoạn từ 1976-1980 : giai đoạn này đất nước đã được giải phóng,
hai miền có hai hệ thống chính trị, kinh tế khác nhau được thống nhất lại.
Cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung được áp dụng trên phạm vi cả
nước đã không mang laị hiệu quả như mong muốn. vì vậy đảng ta đã kịp
thời điều chỉnh lại cơ chế chính sách kinh tế.
Đưa chính sách khoán vào áp dụng trong nông nghiệp
Về chế độ phân cấp ngân sách đã có sự thay đổi nới lỏng dần chế độ
quản lý ngân sách tập chung mở rộng dần quyền hạn quản lý ngân sách cho
các địa phương. Các nguồn thu ngân sách trong giai đoạn này có sự thay đổi
về cơ cấu.
+ Thu ngoài nước ngày càng giảm đi trong đó thu viện trợ giảm đáng
kể (22,8$ xuống8%)
+ Thu từ thuế của các xí nghiệp quốc doanh giảm từ 42,1% (1978)
xuống 32,1% (1980) do sự điều chỉnh của hệ thống giá cả dẫn đến phải tăng
khoản chi bù giá hàng cung cấp.
+ Thu từ thuế của kinh tế ngoài quốc doanh, nguồn thu thuế công
thương nghiệp ngày càng tăng. Điều đó phản ánh chính sách kích thích phát
triển các thành phần kinh tế khác của nhà nước ta.
Nhà nước vẫn tiếp tục bù giá vào lương cho công nhân viên chức ở
xí nghiệp quốc doanh và bù lổ cho xí nghiệp quốc doanh từ đó làm tăng bội
chi ngân sách tăng lạm phát. Nhưng tiền lương của công nhân viên chức
tương đối ổn định.
Giai đoạn từ 1981-1985:
Cuối năm 1985 do sự đổi tiền dẫn đến hiện tương jlam phát chư a
từng thấy trong những năm sau đó.


18


Các nguồn thu ngân sách nhà nước trong giai đoạn này tiếp tục có
những thay đổi về cơ cấu.
+Thu khu vực kinh tế quốc doanh bình quân trong các năm 1981-
1985 là 57,9% số thu ngân sách nhà nước trong khi đó bình quân trong thời
gian 1976-1980 là 48$ tăng bình quân là 9,9%.
+ Thu khu vực kinh tế ngoài quốc doanh bình quân trong các năm
1981-1985 là 14,3 tổng số thu ngân sách nhà nước. Nguồn thu ngoài nước
tiếp tuc jgiảm xuống,bình quân trong thời kì 1976-1980 là 38,2% tổng số
thu ngấnách nhà nước, nhưng trong giai đoạn 1981-1985 chỉ còn 22,5%.
Về chi ngân sách nhà nước trong thời kì 1981-1985 đã thực hiện các
cơ chế chính sách sau :
+ Trợ cấp khó khăn theo tỉ lệ lương cho công nhân cviên chức nhà
nước bù giá hàng cung cấp. Trong thời kì 1981-1985 đã có mầm mống
những nhân tố không ổn định trong viêc pphát triển kinh tế cụ thể là
Bội chi ngân sách nhà nước 1985 so với 1981 tăng 17,8 lần,
bội chi tiền mặt năm 1985 vso với 1981 là 12,5 lần, chỉ số giá trị thị trường
năm 1985 tăng 110,9%. Tình trạng nói trên thể hiện rỏ nét nhất trong việc
thực hiện tăng đồng bộ giá lương, tiền dẫn đến tình trạng siêu lạm phát
trong giai đoạn tiếp theo.
-Giai đoạn 1986-1990:
Từ năm 1989 giá cả hàng hoá nói chung không còn bị kiểm soát chặt
chẽ như trước, tự để thị trường điều chỉnh. Việc chi bù giá hàng cung cấp
giảm.
Do ảnh huởng bởi những khuyết điểm trong việc thực hiện
đồng bộ giá, lương, tièn năm 1985 lên trong thời 1986-1990 đã xảy ra tình
trạng lạm phát khá nghiêm trọng tác đông lớn đến tình hình kinh tế xã hội
của đất nước.
Các năm 1986 –1988 nền kinh tế bộc lộ những dấu hiệu khủng
hoảng lạm phat tăng, sản xúât kém. Bội chi ngân sách bình quân thời 1986
–1988 là 17%-25% bội chi tiền mặt từ 20-25% so với tổng số chi. Hậu quả

lạm phát đã làm giảm giá trị lương thực tế đối với người làm công ăn lương,
đảo lộn công tác quản lý ngân sách nhà nước, giảm hiệu quả hệ thống khoán
trong nông nghiệp, sản lượng lương thực bị giảm sút ghê gớm. trước tình


19

hình đó nhà nước đã có những biện pháp tình thế cấp bách chuyển dần nền
kinh tế tập trung bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần, tiếp cận dần
với cơ chế thị trưòng nhằm giải phóng sức sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá
cho xã hội. do những chính sách điều chỉnh kinh tế, tài chính, tiền tê jtrong
hai năm 1989-1990 nên đã chặn dần được cơn sốt lạm phát, mức tăng giá
giảm dần và đi vào hướng ổn định, chi bình quân cho tiêu dùng xã hội
trong giai đoạn 1986-1990 so với giai đoạn 1981-1985 giảm 7,8% tổng ssó
chi ngân sách nhà nước, nếu so với tổng ssó thu ngân sách nhà nước bằng
62,26% còn so với thu ngân sách nhà nước bằng 84,25%, riêng chi văn hoá
xã hội bình quân so với giai đoạn 5 năm 1981-1985 tăng 6,7% chi ngân
sách nhà nước, so với tổng ssố thu ngân sách nhà nước bằng 23,63%tăng
8,1%, còn so với thu ngân sách nhà nước trong nước bằng 30,04% tăng
11,3%
Nguyên nhân của tình hình trên là do :
Nhà nước bỏ dần chế độ cung cấp tính vào lương phụ cấp, trợ cấp,
chi bù giá hàng cung cấp giai đoạn 1986-1990 giảm 15,5% so với giai đoạn
1981-1985
Do hậu quả của chính sánh giá, lương, tiền và tình trạng sa sút trong
nhiều năm trước đã dẫn đến bội chi ngân sách nhà nước tăng cao trong
những năm đầu giai đoạn 1986-1990, cụ thể như sau.
+ Do bội chi lớn nên nhà nước phải thực hiện chính sách phát hành
tiền và vay dân do nhà nước sử dụng chính sách phát hành tiền dẫn đến việc
gia tăng lạm phát. năm1988 nhà nước vay nước ngoài 31,1%số tiền để bù

đắp cho thiếu hụt 67,3% từ phát hành tiền 1,6% vay dân
Giai đoạn 1991-1995:
Do thực hiện từng bước cơ chế kinh tế nhiều thành phần đã phát
triển kinh tế ngoài quốc doanh ỏ nhiều lỉnh vực giải quyết nhiều công ăn
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động
Từ cuôi năm 1989, nhà nước dã thực hiện những chính sách chống
lạm phát có hiệu quả tích cực nên đã góp phần ổn đinhj kinh tế xã hội. Tỉ lệ
tăng giá hàng tháng của các năm 1990 –1991 –1992 và 6 tháng năm 1993
tương đối ổn định. Trong giai đoạn này, nhà nước thực hiện chính sách đầu
tư cho tiêu dùng xã hội. vì ở tầm quản lý vĩ mô đảng và nhà nước đã xác


20

định rỏ vị trí của chiến lược xây dựng con người trong mối quan hệ với
chiến lược phát triển kinh té xã hội và trong nghị quyết hội nghị trung ương
lần 4 của đãng đã làm rỏ thêm vai trò của chính sách văn hoá xã hội trong
việc thực hiện chiến lựơc con người do điều kiện ổn định kinh tế từ những
năm 1990 đến nay đã tạo tiền đề cho việc đầu tư tăng trưởng chi cho văn
hoá xã hội hàng năm. Từ những năm 1991 bố trí ngân sách giải quyết các
vấn đề xã hội như sắp xếp lại lao động đầu tư cho cáccchương trình giải
quyết việc làm
- Thực trạng điều tiết vĩ mô ngân sách nhà nước trong những năm
gần đây (1996-2000) tăng trưởng kinh tế là mục tiêu hàng đầu được xác
định trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội ở việt nam. đến
năm 2000 là một giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế mà trọng tâm là
đẩy tới một bước công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.dự kiến mức độ
tăng trưởng của gdp là 10%, phấn đấu tới năm GDP tăng từ 2,5-2,7 lần so
với năm 1990, lạm phát kiềm chế ở mức từ 10-15% một năm. Với những
mục tiêu phát triển kinh tế vĩ mô ở việt nam trong giai đoạn 1996-2000 đòi

hỏi ohải sử dụng công cụ như ngân sách nhà nước mử rộng nguồn vốn xã
hội kích thích tiết kiệm, đầu tư và tăng trưởng kinh tế. Định hướng và tăng
trưởng kinh tế ổn định lâu dài đòi hỏi nhà nước phải biết vận dụng linh hoạt
và phối hợp các công cụ tài chính tiền tệ để tác đông tới nền kinh tế. Do đó
công cụ ngân sách nhà nước, công cụ tài chính tiền tệ khi sử dụng chúng để
quản lý vĩ mô nền kinh tế phải mang tính chiến lưọc và có tính quyết định
đến mức tăng trưởng nhanh và lâu bền của toàn bộ nên kinh tế quốc dân.
nam 1999 hoạt động tài chính mà kết quả của nó là ngân sách nhà nước đã
đạt được nhiều thành tựu nhưng đồng thời cũng tồn tại một số các vấn đề
cần giải quyết.
Thu ngân sách nhà nước đạt 102,1% so với kế hoạch trong đó thu từ
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước đạt 102,6%. một số khoản thu đạt
và vượt dự toán năm như thuế sử dụng đất nônng nghiệp, thuế nhà đất, thu
sổ số kiến thiết, thu phí lệ phí và thuế chuyển quyền sử dụng đất thu tiền
thuế đất. tỉ lệ động viên gdp và ngân sách nhà nước đạt 18,3%, trong đó
động viên qua thuế và phí là 17,3% GDP, bằng mức quốc hội đề ra và đapớ
ứng khá tốt nhu ccầu chi thường xuyên cấp bách. Đồng thời dành ra 4,3%


21

GDP cho dự phòng, dự trữ tài chính đầu tư phát triển và trả nợ. Trang trải
được trên 60% nhu cầu chi đầu tư phát triển của ngaan sách nhà nước. Mức
tăng thu ngân sách nhà nước thấp hơn so với mức chi tiêu do quốc hội dề ra
và so với năm 1989 (5,8%) thể hiện ngày càng rỏ nét chính sách động viên
của nhà nước theo hướng khuyến khích sảc xuất kinh doanh vì lợi ích lâu
dài của nền kinh tế, tăng tích tụ vốn để tái đầu tư các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế
Chi ngân sách nhà nước : đạt 109,3% dự toán năm. điều đáng lưu ý là
so với dự toán thu thì dự toán chi năm nay biến động nhiều hơn. một mặt do

thực hiện chủ chương ”kích cầu “ của chính phủ. do tình hình kinh tế xã
hội có những biến động : thiên tai sảy ra trên diện rộng mà ta chưa lường
hết được trong quá trình lập kế hoạch. mặt khác để điều chỉnh vĩ mô bằng
biện pháp tài chính như trợ giá hàng xuất khẩu, hàng chính sách, hổ trợ vốn
cho các doanh nghiệp nhà nước làm ăn có hiệu quả. tăng dự trữ thu mua
nông sản vào những thời điểm cần thiiết nhằm ổn định kinh tế xã hội.
Chi đầu tư phát triển tăng 37,8% so với dự toán năm. Số tăng chi này
chủ yếu thực hiện kích cầu thông qua việc bổ sung vốn cho các công trình
cơ sở hạ tầng, phát triển nông nghiệp, nông thôn, kiên cố hoá kênh mương,
xây dựng giao thông ở các tỉnh miền núi,vùng cao, vùng sâu và có nhiều
khó khăn.Chi thường xuyên đạt 102,1% dự toán năm. trong đó chú trọng
cho giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ như tinh thần nghị quyết, cắt
giảm chi quản lý hành chính, đồng thời bảo đảm kinh phí cho việc cũng cố
quốc phòng an ninh đối ngoại và thực hiện những nhiệm vụ mới phát sinh
như khắc phục thiên tai, cứu đói, hoàn thuế cho các doanh nghiệp, bù tiền
điện cho thuỷ nông thuê sửa đường xá, vệ sinh đô thị
Bội chi ngân sách được kiềm chế trong tầm kiểm soát và có tác động
đối với quá trình kích thích tăng trưởng, chống thiểu phát, nâng cao sức
mua và khả năng thanh toán của nền kinh tế. bội chi ngân sách nhà nước
năm 1999 là 4,9%. bù đắp bội chi bằng cách vay trong và ngoài nước. só
vay bù dắp bội chi dành toàn bôi cho phát triển đây là năm thứ 8 chính phủ
không phát hành tièen để bù đắp bội chi


22

Đánh giá tình hình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường của
ngân sách nhà nước từ khi bước sang nền kinh tế thị trường
Từ khi bước sang nền kinh tế thị trường vai trò điều tiết vĩ mô của
nhà nước được nang lên một cách rỏ rệt. Nhà nước đã sử dụng công cụ ngân

sách của mình và công cụ chính sách tài chính tiền tệ để điều tiết nền kinh
tế đưa nền kinh tế của đất nứoc ngày càng phát triển và ổn định. mức thu
nhập của người dân ngày càng tăng, lạm phát trong thập niên qua giảm đi rỏ
rệt, xuất khẩu tăng
Mặc dù trong thời gian qua tình hình tài chính trong khu vực bất ổn
định khủng hoảng sảy ra triền miên. nhưng do nhà nước ta đã đưa ra các
chính sách điều chỉnh như : duy trì chính sách tiền tệ độc lập duy trì khả
năng giảm lãi suất để đối phó với khủng hoảng hay tăng lãi suất để đối phó
với lạm phát
+ Gửi tỉ giá hối đoái tương đối ổn định để ổn định môi trường kinh
doanh và an toàn cho hệ thốngd ngân hàng nhà nước đã sử dụng ngân sách
của mình để điều tiết tỉ giá hối đoái.
+ Duy trì khả năng chuyển đổi hoàn toàn đảm bảo vốn có thể tự do
luân chuyển nhằm tăng hiệu quả đaàu tư, chống tệ nạn tham nhũng, quan
liêu hành chính.
Không nước nào có thể vừa tăng tự do hoá các luồng vốn vừa ổn
định tỉ giá hối đoái và dử được chính sách tiền tệ độc lập. Chính vì vạy mỗi
nước phải lựa chọn một trong ba chế độ tiền tệ cơ bản sau:
Cách một : cơ chế thả nỗi tỉ giá, tự do hoá các giao dịch tài chính và
áp dụng các chính sách
Tiền tệ điều tiết thông qua ngân sách nhà nướcđể chống khủng hoảng
Cách 2: Cố định tỉ gía và tự do hoá các luồng vốn.
Cách 3: Cơ chế kiểm soát vốn có thể đi với một tỉ giá hối đoái tương
đối ổn định. Áp dụng với điều kiện kinh tế hiện nay của Việt Nam thì nhà
nước ta đã sử dụng cách thứ ba bởi vì ngân sách nhà nước ta trong điều kiện
hiện nay là rất eo hẹp chúng ta không thể sử dụng được cách thứ nhất bởi vì
nó yêu cầu mọt đồng tiền tương đối ổn định với cơ chế thả nổi tỉ giá.Trong
khi đồng tiền cửa ta là quá yếu kém,bất ổn định.Một điểm nữa là tự do hoá
các giao dịch tài chính đồng nghĩa với việc mở rộng tài khoản vốn.Các tổ



23

chức tài chính tự do hoạt động khinh doanh, tự điều tiết.Trong khi ở Việt
Nam chúng ta vai trò của nhà nước là rất lớn. Các tổ chức tài chính chủ yếu
tồi tại và phát triển đều dựa vào nhà nước.Nhà nước thường xuyên phải sử
dụng một phần ngân sách để bù lỗ cho các ngân hàng(do sự hoạt động kém
hiệu quả) nhằm ổn định đồng tiền,chống khủng hoảng tài chính.Cơ chế tài
chính của ta lõng lẽo chưa hình thành được các mối qua hệ qua lại tác động
chặt chẽ với nhau để trở thành một thể thống nhất mà cơ chế đều phụ thuộc
vào nhà nước.Vì vậy cách một chỉ tồn tại vời các nước phát triển.
Đối với cách hai độ rủi ro quá cao và khi xẩy ra rủ ro thì cái giá phải
trả là quá đắt.
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay nhà nước ta cần kiểm soát vốn để
có thể từ đó đIều chỉnh mức cung tiền tệ,điều chỉnh lạm phát,tỉ giá hối
đoái.Chính Phủ chủ chương khai thác tối đa nguồn vốn trong nước,chủ yếu
là vốn trong dân cư để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.Từ đầu năm 1991
đến nay bộ tài chính đã phát hành liên tục các loại tín phiếu,trái phiếu kho
bạc nhà nước.Trước hết nước ta đã thí điểm ở ba thành phố lớn là Hải
Phòng,Hà Nội thành phố hồ chí minh,dần đần sẽ mở rộng ra cả nước.
Từ giữa năm 1995 bộ tài chính phối hợp với ngân hành nhà nươc
thành lập và đưa vào hoạt động thị trườngđấu thầu tín phiếu kho bạc.Tạo
thêm một kênh huy động vốn mới cho ngân sách nhà nước đáp ứng tương
đối kiệp thời các nhu cầu chi của ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển
ổn định và số liệu này có ý nghĩa rất quan trọng trong điều kiện ngân sách
của ta chưa thiếu hụt hằng năm tương đối lớn trên dưới 3,8%GDP
Cùng với các kênh huy động vốn của ngân hàng thương mại với khối
lượng trái phiếu chính phủ đã mở ra một kênh huy động vốn mới trong nền
kinh huy động hàng năm khá lớn thời gian phát hành tương đối liên tục,đối
tượng chủ yếu là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư đã góp phần tích cực

vào việc ổn định tiền tệ.
Trong thời kỳ 1990_1999 tráiphiếu kho bạc đã bù đắp 70% tổng số
thiếu hụt của ngan sách nhà nước giúp chấm dứt thời kỳ phát hành tiền để
bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được ngân sách nhà nước vẫn chưa
thiết lập được môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi,thậm chí còn rất yếu kém,


24

nền kinh tế vẫn đang trong tình trạng kém phát triển.Thu nhập bình quân
đầu người và tỉ trọng nguồn vốn tiết kiệm đẻ đầu tư còn thấp,đồng tiền chưa
ổn định vững chắc.Lạm phát đã được kiềm chế nhưng chưa được loạI bỏ
Nhà nước bốn lần giảm lãi suất để kích cầu nhưng độ nhạy cảm của
thị trường dường như không có phản ứng gì đáng kể.Con số nợ nằm trong
khách hàng qúa hạn và con số dư thừa vốn ngắn hạn trong ngân hàng
thương mại vẫn tiếp tục gia tăng.Chính phủ phát hành công trái với số
lượng lớn để tài trợ cho các chương trình đầu tư kết quả là trên 80% nguồn
vốn huy động bằng công trái là từ khu vực doanh nghiệp nhà nước.Huy
động từ tổ chức tín dụng,từ dân cư chỉ được 20%.Như vậy quá trình luân
chuyển thực chất là từ túi này sang túi kia của cùng một khu vực kinh tế nhà
nước.Điều đó chứng tỏ một nền kinh tế mất cân đối hơn là một nền kinh tế
thiếu vốn.ngoài ra mô hình đầu tư theo trương trình của nhà nước đả một
mmặt cạnh tranh với đối tượng đầu tư của ngân hàng.một mặt đã kích thích
hiện tượng sinh ra những “chiến lược phát triển kinh tế tỉnh thành phố “ một
cách rập khuôn giống nhau trong khi các vùng có những thế mạnh,tiềm
năng,đặc thù khắc nhau giữa các tỉnh thành phố trong cả nước.tác động làm
hiệu quả đầu tư thấp xuất hiện bao cấp háo trở lại ngay ở giai đoạn mà cả
nền khinh tế quốc dân đang nổ lưc đổi mới theo cơ chế thị trường đã được
hơn 10 năm.

Điểm thứ ba là : thị trường kích cầu nhưng giá cả vẫn giảm,giá cả
giảm không do năng suất lao động tăng cao mà chủ yếu do cường độ sản
suất dư thừa cục bộ.Đó là mâu thuẩn không thể tiếp tục phát triển trong điều
kiện một nước nghèo,chậm phát triển như nước ta.
Ngoài những tồn tại do quá trình điều tiết của nhà nước còn tồn tại
một số vấn đề do quá trình thu chi gây ra trong một số năm qua :
+ Thu từ hàng hoá xuất nhập khẩu bao gồm thuế xuất khẩu,thuế
nhập khẩu,thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu,thu chênh lệch giá hàng
nhập khẩu,thuế giá tri gia tă3ng hàng nhập khẩu )gặp khó khăn,chủ yếu do
nhân tố khách quan là kim nghạch nhập khẩu chịu thuế đạt thấp hơn dự kiến
và nhà nước điều chỉnh giảm thuế xuất nhập khẩu đối với một số mặt hàng
do giá quốc tế tăng cao.


25

+Chi cho đầu tư xây dựng cơ bản chưa có chuyển biến rõ rệt,bố chí
vốn đầu tư còn phân tán.Có một số mục tiêu được ưu tiên nhưng không bảo
đảm đủ nguồn.việc phân bổ chi tiết vốn đến từng công trình và chuẩn bị các
điều kiện cần thiết để khởi công như duyệt dư án đầu tư,phê duyệt tổng dư
toán,tổ chức đấu thầu và kết quả xét duyệt đấu thầu,giải phóng mặt bằng ở
một số bộ phận địa phương còn chậm,vướng mắc trong các khâu trên đã
làm giảm hiệu quả vốn đầu tư.Dẫn đến tình trạng thường xuyên vốn chờ
công trình,làm cho các nguồn vốn bổ xung cho nền kinh tế và một số
chương trình quốc gia chậm phát huy tác dụng,bên cạnh đó tình trạng vốn
tín dụng của nhà nước và các ngân hàng thương mại thiếu những dự án có
hiệu quả và khả thi để cho vay cũng phần nào hạn chế việc huy động các
nguồn lực cho đầu tư phát triển.
+Thất thoát vốn,lãng phí vốn ngân sách nhà nước vẫn còn lớn trong
những năm qua (1996_2000) chính phủ và các nghành các cấp đã đẩy mạnh

triển khai pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và các chế độ quản
lý tài chính mới ban hành như : Quy chế sứ dụng ôtô con, điện thoại, công
tác phí, chế độ chi tiêu hội nghị Các công tác kiểm soát chi tiêu được tăng
cường. Đã phát hiện và sử lý nhiều trường hợp vi phạm. Nhưng đổi mới chỉ
là kết quả bước đầu. Tại kỳ họp thứ VI Quốc hội khoá X, nhiều đại biểu
cũng đã báo động tình trạng chi ngân sách lãng phí tại 21347 đơn vị hành
chính sự nghiệp đã phát hiện ra số tiền chưa làm thủ tục hạch toán để ngoài
ngân sách tới 1385 tỷ đồng.Vậy những lý do nào đã dẫn đến tình trạng trên
?
Nhà nước trong hơn một thập niên qua về cơ bản đã tìm ra con đường
đúng đắn cho sự phát triển kinh tế đất nước.Xác dịnh đất nước ta xây dựng
kinh tế theo định hướng nền kinh tế nhiều thành phần nhưng vẫn chịu sư
điều tiết của nhà nước. Bước đi này hoàn toàn mới mẽ đối với chúng ta, vì
thế chúng ta không thể tránh khỏi những sai sót trong quá trình thực hiên
bởi thiếu kinh nghiêm thực tế và khả năng quản lý hay khả năng lãnh đạo để
đưa ra những chính sách đúng đắn đang còn kếm. Đội ngũ cán bộ của nước
ta hầu như là xuất phát từ cơ quan đảng vì thế rất bất cập trong vấn đề điều
hành kinh tế dẫn đến những chính sách kinh tế đưa ra kếm hiệu quả, không

×