Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (28.8 MB, 38 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
Trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia, việc tạo ra việc làm đóng vai trị quan trọng hàng đầu. Việc làm khơng chỉ là nhu cầu cá nhân mà còn là nguồn tạo ra sự giàu có vật chất trong xã hội. Việc làm có vai trị quan trọng trong việc duy trì sự ổn định kinh tế - xã hội, giúp giảm đói giảm nghèo và cho phép người lao động tham gia tích cực và đóng góp vào sự phát triển của quốc gia.
Hiện nay, sự phát triển của các làng nghề truyền thống đóng vai trị quan trọng trong cuộc sống kinh tế - xã hội và tinh thần văn hóa ở các làng nghề trên địa bàn Hà Nội. Đây cũng là trọng tâm của quá trình cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa trong các khu vực đô thị và nông thôn của đất nước. Sự phát triển của các làng nghề đã đạt được nhiều thành tựu, khơng chỉ đóng góp vào sự phát triển kinh tế mà cịn giữ gìn và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Thực tế đã chứng minh rằng việc phát triển các làng nghề giúp tạo ra việc làm và tăng thu nhập ở một số khu vực, đồng thời giúp giảm đói giảm nghèo và cung cấp cơ hội việc làm cho người dân. Theo Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, cả nước hiện có khoảng 5400 làng nghề, trong đó có khoảng 2000 làng nghề truyền thống với giá trị kinh tế, lịch sử và văn hóa lâu đời. Nhưng sự đơ thị hóa, di cư và hoạt động kinh tế, xã hội địa phương đang đe dọa tồn tại của nhiều làng nghề.
Phó Chủ tịch HĐQT Trung tâm Tinh hoa làng nghề Việt - Ông Nguyên Trung Thành, cho rằng tơn vinh đóng góp và tạo ảnh hưởng của các nghệ nhân thông qua việc chọn thương hiệu cá nhân và kể câu chuyện của họ là cách để bảo tồn và phát triển làng nghề.
Chính phủ đã phê duyệt Chương trình bảo tồn và phát triển làng nghề Việt Nam giai đoạn 2021-2030 với mục tiêu bảo tồn và phát triển nghề, làng nghề,
3
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">và gìn giữ giá trị văn hóa truyền thống của làng nghề. Chương trình cũng tập trung vào việc bảo tồn và phát huy làng nghề truyền thống, một hướng đi đã thành công trong nhiều quốc gia khác.
Làng nghề truyền thống có tiềm năng phát triển du lịch do tích hợp nhiều giá trị văn hóa. Tuy nhiên, q trình phát triển của các làng nghề truyền thống cũng đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức trong việc bảo tồn và phát triển do ảnh hưởng từ sự cạnh tranh của thị trường và quá trình hội nhập quốc tế. Nhiều làng nghề truyền thống đang trở nên suy tàn vì một số nguyên nhân như thiếu nguồn lao động trẻ và quy mô sản xuất chưa đạt, cùng với các vấn đề như ô nhiễm môi trường. Chỉ khi sống được với nghề, làng nghề mới có thể tồn tại và gìn giữ nét
<b>đẹp của truyền thống. Vì vậy, em đã quyết định lựa chọn chủ đề “Bảo tồn và phát </b>
<b>huy làng nghề dệt lụa truyền thống” để nghiên cứu phục vụ bài tập lớn. </b>
4
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Giống như nhiều làng nghề khác, hiện nay làng Vạn Phúc cũng đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc bảo tồn và phát triển ngành nghề truyền thống. Nhiều hộ sản xuất đã từ bỏ nghề do thu nhập thấp. Trong quá khứ, làng nghề này có hơn 2000 hộ sản xuất với 1000 máy dệt, nhưng hiện tại chỉ một phần nhỏ trong số đó vẫn tiếp tục hoạt động và duy trì truyền thống nghề của gia đình.
Vấn đề đầu tiên là nguồn nguyên liệu và lao động. Khi các vùng trồng dâu, nuôi tằm ở miền Bắc giảm dần, người dân phải đi đến Lâm Đồng để tìm nguồn nguyên liệu. Giá tơ tăng cao gây nhiều khó khăn cho những người sản xuất, hiện nay giá tơ khoảng 1,5 - 1,7 triệu đồng/kg. Nguyên liệu từ xa thường gặp sự cố, chẳng hạn như bị ảnh hưởng bởi bão lũ và không được cung cấp đúng hẹn.
Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc, ông Hà đã cho biết: "Ngày xưa, khoảng 2/3 dân làng Vạn Phúc làm nghề dệt lụa truyền thống và 1/3 sống bằng nghề nông nghiệp. Mỗi hộ có
trách nhiệm với một cơng đoạn sản xuất. Nhưng hiện nay, hầu hết sản xuất theo mơ hình hộ gia đình, mỗi gia đình có khoảng 3 hoặc 4 người lao động. Người lao động khác phải được thuê từ bên ngồi như thợ mắc, thợ hồ. Nhiều
gia đình khơng có đủ đất để đầu tư, với mức lương thấp và giá đất cao". Vấn đề khó khăn khác là việc duy trì quá trình sản xuất trong thời gian. Vì hầu hết các hộ gia đình sản xuất theo mơ hình này, họ nghỉ ngày lễ và ngày giỗ
5
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">tổ, điều này ảnh hưởng đến sản lượng. Thanh niên trong làng phần lớn khơng cịn hứng thú với nghề truyền thống, vì cơng việc thủ cơng địi hỏi sự tỉ mỉ và cần cù.
Ta có thể thấy được làng lụa Vạn Phúc đang dần mai một theo thời gian do nhiều vấn đề khác nhau. Để bảo vệ làng Việt truyền thống, chúng ta cần đưa ra những giải pháp, biện pháp phù hợp và hợp lý.
Làng lụa Vạn Phúc, còn được biết đến với tên gọi Làng lụa Hà Đông, nằm tại phường Vạn Phúc, quận Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng hơn 10 km, nằm ngay bên bờ sông Nhuệ. Với
hơn một ngàn năm lịch sử tồn tại, Vạn Phúc được xem là một trong những làng lụa dệt tơ tằm đẹp và nổi tiếng nhất tại Việt Nam.
Trước đây, Hà Đông có bảy làng La và ba làng Mỗ, nhưng chỉ có làng Vạn Phúc làm nghề dệt lụa nổi tiếng nhất. Sản phẩm của làng này, bao gồm lụa và gấm Vạn Phúc, đã trở thành một phần của văn hóa, vượt qua giá trị hàng hóa thơng thường. Truyền thống dệt lụa ở làng Vạn Phúc có từ thời kỳ sau năm
865 sau Cơng ngun, khi làng cịn được gọi là Vạn Bảo trước khi đổi thành Vạn Phúc.
6
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">Trong suốt thời kỳ Lý, Trần và Hồ (gần 4 thế kỷ), nghề dệt lụa vẫn được duy trì để phục vụ cho việc may mặc của các quan vua và nhân dân tại kinh đô. Tuy nhiên, chỉ làng Vạn Phúc mới biết dệt gấm và lụa trong thời kỳ Lê. Vì vậy, đến cuối thế kỷ 19, chính quyền nhà Nguyễn khuyến khích việc sử dụng hàng nội, và
người thợ ở làng Vạn Phúc đã tìm cách cải tiến và tăng năng suất, cho ra đời những loại lụa mới như the, vân, xa và quế, với mẫu mã hoa văn tinh xảo. Lụa Vạn Phúc đã được chọn làm chất liệu chính cho việc may lễ phục cho các vị vua nhà Nguyễn. Sau này, vua Khải Định và Bảo Đại cũng sử dụng lụa và gấm Vạn Phúc (ở Hà Đông) cho trang phục trong cung đình.
Trước năm 1945, lụa Vạn Phúc đã nổi tiếng trên thị trường Đông Dương và tham gia nhiều hội chợ ở cả ba miền Bắc, Trung và Nam Việt Nam. Tơ lụa Vạn Phúc có nhiều mẫu mã đa dạng, với tới 70 loại lụa, gấm và lĩnh khác nhau như băng hoa, long phượng, mây bay, tứ quế, sa trơn, the trơn, đũi hoa, vân thọ đỉnh.
7
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">Các hoa văn và họa tiết trên gấm và lụa Vạn Phúc được chia thành các nhóm như hoa văn động vật bao gồm tứ linh, lưỡng long chầu nguyệt, lưỡng long song phượng, long vân, rồng vàng cuốn thủy, phượng trong mây, phượng ngậm cuốn thư, phượng xòe chữ thọ, rùa ngậm cuốn thư, quy nhả ngọc vàng, song hạc, ngũ phúc, quần ngư vọng nguyệt. Các họa tiết về côn trùng và chim muông như chuồn chuồn, con cò, con bướm và dơi; hoa văn về thực vật bao gồm cúc, trúc, mai, lan, hoa chanh, hoa hồng và hoa dâu; hoa văn về đồ vật và hình học như cuốn thư, đồng tiền, lẵng hoa, bình cổ, đèn lồng, chữ thọ (trịn và vng), chữ triện, chữ vạn, chữ S, quả trám, hình vng, hình thoi, ơ gạch, ca rơ và ba sọc.
Tất cả các hoa văn trên lụa Vạn Phúc được sáng tạo phong phú và biểu hiện sự tinh tế và thẩm mỹ của cộng đồng dân thị Hà Nội vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20. Vào thời điểm đó, làng Vạn Phúc có tới 1.500 khung dệt lụa. Trai gái trong làng, từ 15 đến 16 tuổi, đã biết cách sử dụng khung cửi để tạo ra các sản phẩm. Trong giai đoạn này, những người thợ dệt Vạn Phúc đã thành cơng trong việc cải tiến quy trình, chuyển từ
việc dệt bằng chân (năng suất thấp, khổ vải hẹp) sang việc dệt bằng tay (năng suất từ 3 thước khổ nhỡ lên
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">đến 8 thước khổ rộng). Vào thời điểm đó, ở Hà Nội đã có nhiều cửa hàng lớn bán lụa ở Hàng Ngang và Hàng Đào.
Gấm và lụa Vạn Phúc đã trở thành những sản phẩm nổi tiếng và đã được giới thiệu ra quốc tế lần đầu tại hội chợ Marseille (1931) và Paris (1938). Người Pháp đánh giá cao lụa Vạn Phúc là một sản phẩm tinh xảo của khu vực Đơng
Dương và nó được ưa chuộng ở các nước như Pháp, Thái Lan và Indonesia.
Từ năm 2010, làng Vạn Phúc đã đầu tư nhiều máy móc để tăng cường sản xuất. Người thợ không cần làm việc bằng tay trực tiếp mà tập trung vào việc nghiên cứu sáng tạo mẫu và kỹ thuật để tạo ra các sản phẩm gấm và lụa. Làng Vạn Phúc ngày càng phát triển với nhiều sản phẩm gấm và lụa đẹp và tinh tế, đáp ứng nhu cầu thị hiếu của khách hàng trong và ngồi nước.
Hiện tại, tại làng Vạn Phúc, có khoảng trên 60 hộ gia đình đang thực hiện cơng việc dệt lụa, sử dụng gần 200 khung dệt. Hầu hết các doanh nghiệp và gia đình đều hoạt động với công suất tối đa để đáp ứng nhu cầu trong và ngoài thị trường. Mỗi năm, làng sản xuất khoảng từ 2,5 đến 3 triệu mét vuông vải, đạt khoảng hơn 60% tổng doanh thu của làng nghề.
9
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Hiện tại, làng nghề Vạn Phúc Hà Đơng có khoảng 800 hộ gia đình đang tham gia vào nghề dệt lụa,
chiếm khoảng 60% tổng số hộ sinh sống ở địa phương này. Mỗi năm, làng nghề này sản xuất từ 2,5 đến 3 triệu mét vuông vải, tương đương với 63% tổng doanh thu của làng nghề.
Theo ông Nguyễn Văn Dự, Chủ tịch UBND phường Vạn Phúc (quận Hà Đông), hiện tại trên địa bàn phường chỉ cịn hơn 100 hộ gia đình đang làm nghề dệt. Trong toàn bộ làng nghề dệt lụa Vạn Phúc, chỉ còn 18 nghệ nhân, hầu hết đều đã cao tuổi. Nghệ nhân cao tuổi nhất đã 90 tuổi, còn thợ dệt trẻ nhất trong làng cũng đã 40 tuổi. Lớp trẻ trong làng nghề chủ yếu rời bỏ nghề, đặc biệt là những
người đã theo học cao đẳng hoặc đại học, vì cho rằng nghề dệt vất vả và thu nhập khơng cao. Điều này gây ra tình trạng già hóa lực lượng lao động và nguy cơ thiếu người kế thừa.
Hiện nay, việc sản xuất và kinh doanh lụa truyền thống ở Vạn Phúc vẫn thu hút hơn 1.000 lao động địa phương và hơn 400 lao động
10
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">từ các vùng lân cận. Đa số lao động trẻ tham gia nghề là những người khơng có khả năng tiếp tục học cao.
Hiện tại, tại làng Vạn Phúc có khoảng hơn 60 hộ gia đình đang tham gia nghề dệt lụa với xấp xỉ 200 khung dệt. Hầu hết các doanh nghiệp và hộ gia đình hoạt động đạt cơng suất tối đa để đáp ứng nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Mỗi năm, làng sản xuất khoảng từ 2,5 đến 3 triệu mét vuông vải, chiếm hơn 60% tổng doanh thu của làng nghề.
Trong 9 tháng đầu năm 2016, Hợp tác xã dệt lụa Vạn Phúc ước đạt sản lượng 1,5 triệu mét vải lụa đa dạng, và thu nhập ước đạt 822 triệu đồng. Hợp tác xã đã duy trì hoạt động 150 gian hàng
giới thiệu sản phẩm lụa và mở rộng thêm nhiều mô hình kinh doanh như may mặc cơ khí, góp phần tạo ra doanh thu ước đạt 60 tỷ đồng trong 9 tháng đầu năm. Các kết quả này phần nào khẳng định vai trò của nghề dệt lụa đối với Vạn Phúc. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập, làng lụa Vạn Phúc cùng với nhiều làng nghề khác đang nỗ lực tìm hướng phát triển trong bối cảnh thu hút nguồn lao động và đào tạo nghề vẫn là vấn đề quan trọng.
Năm 2017, làng nghề đã có 264 máy dệt, 164 cơ sở sản xuất, hơn 100 cơ sở kinh doanh, 3 công ty trách nhiệm hữu hạn, 1 công ty cổ phần lụa và 1 khu trung tâm kinh doanh sản phẩm lụa chất lượng cao.
11
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">Sản phẩm lụa Vạn Phúc đa dạng và phong phú về chủng loại. Một số sản phẩm tiêu biểu của làng nghề bao gồm lụa tơ tằm cao cấp không phai, lụa Vân, 10 mẫu hoa thiết kế ứng
dụng vào sản xuất, và khăn lụa tơ tằm cao cấp. Sản lượng lụa trong năm 2016 đạt trên 1,8 triệu mét vải lụa đa dạng, đạt 90% so với kế hoạch, và doanh thu
ước đạt 108 tỷ đồng, đạt 127% kế hoạch.
Thị trường tiêu thụ chủ yếu của lụa Vạn Phúc vẫn là nội địa với 70% thị phần, còn lại 30% là xuất khẩu (thường là xuất khẩu tại chỗ). Một số lượng nhỏ sản phẩm được xuất khẩu sang Anh, Thụy Sỹ, Canada, Ý, Đức và được chào hàng và thăm dị thị trường.
Ngồi ra, khi đến chợ lụa Vạn Phúc, du khách sẽ bị thu hút bởi những sản phẩm thủ công lưu niệm như khăn quàng, túi, nón, cà vạt, móc khóa với mẫu
mã đẹp và hấp dẫn. Với mức giá từ 50.000 - 120.000 đồng, người tham quan và khách du lịch có thể mua các sản phẩm lưu niệm và trang phục tại làng lụa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">điện tử. Các cơ sở này đã tổ chức các nhóm bán hàng trực tuyến trên mạng xã hội như Zalo và Facebook, liên kết hơn 100 hộ gia đình. Các thành viên trong nhóm bao gồm các hộ gia đình chuyên cung cấp nguyên liệu, sản xuất và kinh doanh thương mại.
Cùng với việc bảo tồn và phát triển làng nghề dệt lụa truyền thống, làng lụa Vạn Phúc đang dần thay đổi và trở thành một điểm du lịch để đáp ứng nhu cầu thị trường về sản phẩm và sự tò mò, thú vị của du khách khi khám phá và trải
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">lượng khách du lịch nội địa hàng năm cũng đã đạt mức 10.000 lượt khách. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa thể tận dụng hết tiềm năng và kỳ vọng của một làng nghề lâu đời và nổi tiếng như Vạn Phúc trong ngành du lịch tại Việt Nam.
Lực lượng lao động trong ngành nghề đang trở nên già hóa. Hiện nay, đa phần những thợ lành nghề làm việc tại các nhà máy sản xuất lụa ở Vạn Phúc đã trên 50 tuổi. Theo thống kê của Ủy ban nhân dân phường Vạn Phúc, độ tuổi tham gia nghề dệt lụa ở địa phương hiện nay đều trên 35 tuổi, đây là một vấn đề lo ngại về việc kế thừa nghề truyền thống có hơn 1,000 năm tuổi. Trong làng nghề truyền thống dệt lụa Vạn Phúc, chỉ còn 8 nghệ nhân trên 70 tuổi, và mọi người đều lo lắng
rằng sau khi họ ra đi, con cháu không sẽ không tiếp tục nghề và khiến nghề trở nên thất truyền. Chính quyền địa phương cũng lo lắng vì lớp trẻ khơng có niềm đam mê với nghề, họ thích đi theo hướng khác, không quan tâm đến việc học và làm nghề để kế thừa những giá trị mà ông cha đã để lại hàng nghìn năm.
Hiện nay, sản xuất và kinh doanh lụa truyền thống ở Vạn Phúc vẫn thu hút hơn 1,000 lao động địa phương và hơn 400 lao động từ các vùng lân cận. Lực lượng lao động trẻ làm nghề chủ yếu là những người khơng có khả năng tiếp tục học cao hơn. Ông Nguyễn Văn Sinh, Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc, cho biết: "Khó khăn nhất trong việc đào tạo nghề là nguồn nhân lực. Khi cuộc sống tốt hơn, các gia đình đều cố gắng để con cái đi học. Khi có bằng cấp, các em muốn đi làm ở nơi khác với mức lương cao hơn, chỉ có một số ít người không tiếp tục học
14
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">và đi làm việc khác. Đến một thời điểm nào đó, nếu khơng thành cơng trong cơng việc mới, họ mới quay lại làm theo nghề".
Để đối phó với tình trạng trên, hàng năm chính quyền phường Vạn Phúc tổ chức các khóa đào tạo nghề để thu hút khoảng 50-100 lao động địa phương và từ các vùng lân cận. Theo ông Nguyễn Văn Sinh, để đào tạo một lao động làm việc trong một công đoạn sản xuất lụa chỉ mất khoảng 3 tháng, nhưng để trở thành chuyên gia trong
o Sự thay đổi cảnh quan kinh tế: Trong thời đại công nghiệp và tồn cầu hóa, nhiều người trẻ hướng tới các ngành nghề hiện đại và có triển vọng kinh tế cao hơn. Việc làm trong ngành lụa thường yêu cầu sự kiên nhẫn, tâm huyết và thời gian đầu tư lâu dài, điều này không phù hợp với mong muốn nhanh chóng đạt được thành cơng và thu nhập lớn của nhiều người trẻ.
15
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">o Thiếu hỗ trợ tài chính và chính sách hỗ trợ: Để duy trì và phát triển ngành làng lụa, cần có sự hỗ trợ tài chính từ các nguồn khác nhau như chính phủ, tổ chức phi chính phủ và ngân hàng. Tuy nhiên, khơng đủ sự quan tâm và đầu tư từ các bên liên quan đã khiến nguồn lực tài chính giới hạn, làm cho việc thu hút và giữ chân nguồn lao động trở nên khó khăn.
o Thiếu quan tâm và nhận thức của người trẻ: Đối với nhiều người trẻ, làng lụa không phải là lựa chọn hấp dẫn hoặc đáng quan tâm. Nhận thức về giá trị và tiềm năng phát triển của ngành này có thể cịn hạn chế, do đó khơng thu hút đủ lực lượng lao động trẻ quan tâm và tham gia.
o Độ tuổi và quy trình sản xuất phức tạp: Nghề làng lụa yêu cầu kỹ thuật cao và quy trình sản
xuất phức tạp, địi hỏi sự kiên nhẫn và kỹ năng đặc biệt. Những yêu cầu này khơng phải ai cũng có thể đáp ứng, đặc biệt là đối
với người trẻ có ít kinh nghiệm và kiến thức về ngành này.
o Di cư và đơ thị hóa: Di cư và đơ thị hóa đã khiến cho nhiều người trẻ rời bỏ làng quê và tìm kiếm cơ hội việc làm tại các thành phố lớn. Việc di cư và đơ thị hóa làm giảm sự có mặt của nguồn lao động tại làng lụa, gây ra thiếu hụt và giới hạn khả năng bảo tồn và phát triển ngành nghề truyền thống.
Tổng thể, sự thiếu hụt nguồn lao động trong làng lụa có nguồn gốc từ sự thay đổi cảnh quan kinh tế, thiếu hỗ trợ tài chính, sự thiếu quan tâm và nhận thức
16
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">của người trẻ, tính phức tạp của quy trình sản xuất, và tác động của di cư và đơ thị hóa. Để khắc phục tình trạng này, cần có các biện pháp khuyến khích, hỗ trợ và giáo dục để thu hút và giữ chân người trẻ trong ngành làng lụa.
- Thuận lợi:
o Bảo tồn nghề truyền thống: Việc bảo tồn làng lụa giúp duy trì và phát huy những kỹ năng và kỹ thuật đặc trưng của ngành dệt lụa. Điều này giữ cho nghề truyền thống không bị mai một và giúp đảm bảo rằng những người làm việc trong ngành này vẫn có cơ hội để phát triển và sử dụng những kỹ năng của mình
o Tạo việc làm: Bảo tồn và phát huy làng lụa mang lại cơ hội việc làm cho cộng đồng địa phương.
Ngành cơng nghiệp lụa có thể tạo ra nhiều cơ hội việc làm từ việc sản xuất, thiết kế, bán lẻ, du lịch và nhiều lĩnh vực khác. Điều này giúp giảm tình trạng thất nghiệp và tăng thu nhập cho người dân địa phương
o Tạo ra nguồn thu kinh tế: Làng lụa có thể trở thành điểm đến du lịch thu hút khách du lịch, tạo ra nguồn thu kinh tế cho cộng đồng địa phương. Du khách đến tham quan và mua sắm sản phẩm lụa tại làng lụa tạo ra nguồn thu tài chính và kích thích sự phát triển kinh tế của khu vực.
o Kích thích phát triển du lịch văn hóa: Làng lụa
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">truyền thống có giá trị văn hóa lớn và thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế và trong nước. Việc bảo tồn và phát huy làng lụa giúp kích thích phát triển du lịch văn hóa, tăng cường nguồn khách du lịch và thu hút doanh thu từ ngành du lịch.
o Tạo ra thương hiệu và tiếp thị: Bảo tồn và phát huy làng lụa truyền thống có thể giúp xây dựng một thương hiệu độc đáo và tạo ra sự nhận diện cho sản phẩm lụa địa phương. Điều này giúp thúc đẩy tiếp thị và tiếp cận thị trường, tạo ra cơ hội kinh doanh và xuất khẩu sản phẩm lụa.
Tóm lại, bảo tồn và phát huy làng lụa truyền thống mang lại nhiều thuận lợi về việc tạo việc làm, phát triển kinh tế địa phương, kích thích phát triển du lịch văn hóa và tạo ra cơ hội kinh doanh.
- Khó khăn
o Thiếu lao động trẻ: Một trong những khó khăn lớn nhất đối với làng lụa truyền thống là thiếu lao động trẻ tham gia vào ngành nghề này. Người trẻ hiện nay thường có xu hướng lựa chọn các ngành nghề khác, có tiềm năng thu nhập cao hơn hoặc mang tính hiện đại hơn. Sự thiếu hụt lao động trẻ đã gây ra một lỗ hổng nguồn nhân lực trong quá trình sản xuất và làm giảm khả năng phát triển của làng lụa.
o Thiếu đào tạo nghề: Để duy trì và phát triển làng lụa, việc đào tạo và
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">trẻ. Việc truyền thống kiến thức và kỹ năng từ các thợ già sang thế hệ trẻ không được thực hiện một cách hiệu quả, dẫn đến sự gián đoạn trong quá trình kế thừa nghề và làm mất đi những tinh hoa đã tích lũy qua hàng thế kỷ.
o Thiếu đầu tư và công nghệ: Một yếu tố quan trọng để phát triển làng lụa là đầu tư vào công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp và hộ gia đình trong làng lụa khơng đủ tài chính
để đầu tư vào các công nghệ mới và hiện đại hóa quy trình sản xuất. Điều này đã khiến cho năng suất lao động giảm và cạnh tranh với những ngành công nghiệp dệt khác trở nên khó khăn hơn.
o Thay đổi thị trường: Với sự phát triển của nền kinh tế và thay đổi trong thị hiếu của người tiêu dùng, sản phẩm lụa truyền thống đang phải đối mặt với sự cạnh tranh từ các sản phẩm dệt công nghiệp và nhập khẩu. Việc
tiếp cận và duy trì thị trường cũng trở nên khó khăn hơn do sự thay đổi này, đặc biệt khi các sản
19
</div>