Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Làng vạn phúc (hà đông) nửa đầu thế kỷ XX tiếp cận từ phương diện kinh tế chính trị văn hoá xã hội luận văn ths lịch sử việt nam 5 03 15 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (999.45 KB, 117 trang )

Đại học quốc gia Hà Nội
Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Nguyễn Thị Ngọc Hoà

Làng Vạn Phúc (Hà Đông) nửa đầu
thế kỷ XX- tiếp cận từ phương diện
kinh tế – chính trị – văn hoá xã hội

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

1 2005
Hà NộI-


Bảng chữ viết tắt
------------------

ATK

- An toàn khu

NXB

- Nhà xuất bản

PL

- Phụ lục

Tr


- Trang

UBND

- Uỷ ban nhân dân

4


Mục lục
Trang
Lời mở đầu
Chương 1: Kinh tế làng Vạn Phúc từ đâu thế kỷ XX đến năm 1945
1.1.

Giới thiệu chung về làng Vạn Phúc

5
5

1.1.1 Các điều kiện tự nhiên xã hội

5

1.1.2. Sơ lược quá tình hình thành và phát triển

8

của làng Vạn Phúc đến đầu thế kỷ XX
1.2. Kinh tế làng Vạn Phúc từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945


10

1.2.1. Cơ cấu kinh tế làng Vạn Phúc

10

1.2.1.1. Nghề nông

11

1.21.2. Nghề dệt

13

1.2.1.3. Các ngành nghề khác

24

1.2.2. Sự phát triển kinh tế làng Vạn Phúc
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945

24

1.2.2.1. Chính sách của chính quyền phong kiến và thực dân Pháp
đối với nghề dệt

24

1.2.2.2. Thăng trầm kinh tế làng nghề Vạn Phúc từ đầu


27

thế kỷ XX đến năm 1945
1.2.3. Làng Vạn Phúc trong mối quan hệ kinh tế
với các làng nghề phụ cận

33

Chương 2. Diện mạo văn hoá xã hội làng Vạn Phúc từ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945

37

2.1. Phân tầng xã hội

37

2.2. Giáo dục ở làng Vạn Phúc

40

2.3. Tổ chức xã hội

42

2.3.1. Tổ chức phường cửi

42


2.3.2. Tổ chức Giáp

46
5


2.4. Vai trò của giới trong làng dệt Vạn Phúc

47

2.5. Một số hoạt động đặc trưng trong đời sống văn hoá
làng dệt Vạn Phúc trước năm 1945

50

Chương 3. Các hoạt động chính trị của làng Vạn Phúc
từ đầu thế kỷ XX đến năm 1945

57

3.1. Phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Vạn Phúc
từ đầu thế kỷ XX đến hết thời kỳ đấu tranh dân chủ

57

3.1.1. Phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Vạn Phúc
từ đầu thế kỷ XX đến khi chi bộ đảng Vạn Phúc ra đời

57


3.1.2. Chi bộ đảng Vạn Phúc ra đời (1938) và các phong trào
đấu tranh dưới sự lãnh đạo của chi bộ
3.2. Vạn Phúc một an toàn khu của Đảng

64
67

3.3. Phong trào đấu tranh giành chính quyền ở Vạn Phúc
thời kỳ 1939 – 1945

74

3.3.1. Chuyển hướng đấu tranh thành lập mặt trận phản đế

74

3.3.2.Thành lập Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị
giành chính quyền ( cuối 1941 đến 9/3/1945 )

77

3.3.3. Cao trào kháng Nhật cứu nước và khởi nghĩa
giành chính quyền (9/3/1945 đến 2/9/1945)

81

Kết luận

90


Tài liệu tham khảo

93

Phụ lục

98

6


Lời mở đầu
1. Ý nghĩa khoa học và tính cấp thiết của đề tài
Xưa nay, người Hà Tây rất đỗi tự hào bởi quê hương mình có làng dệt lụa
Vạn Phúc được cả nước biết tiếng. Lụa tơ tằm là loại hàng dệt cao cấp chủ yếu
dành cho người khá giả. Triều đình nhà Nguyễn đã từng coi lụa, gấm, vóc của Vạn
Phúc là thứ hàng cao sang dùng nơi cung thất. Thời Pháp thuộc, lụa Vạn Phúc đã
được đưa đi dự triển lãm của các nước thuộc địa tại Mác-xây (1928), Pari (1931,
1938), Lào, Campuchia, Inđônêxia… đoạt nhiều huy chương và bằng khen. Nhiều
nghệ nhân được tặng thưởng. Nhà bảo tàng Hà Đông xây dựng từ năm 1925 dành
nhiều dãy nhà để trưng bày tơ lụa và khung dệt mẫu hàng của Vạn Phúc. Từ năm
1930 đến năm 1941, khung dệt của làng phát triển từ 320 khung lên 1500 khung,
sản xuất tới hơn một triệu mét lụa. Lụa Vạn Phúc có mặt trên thị trường nhiều nước
từ Châu á đến Châu Âu, ở đâu cũng được ưa chuộng.
Với phương thức sản xuất thủ công nghiệp tương đối tập trung, lại có ý thức
tổ chức và tinh thần đấu tranh, Vạn Phúc đã sớm có phong trào cách mạng. Từ cao
trào đấu tranh dân chủ, Vạn Phúc đã có nhiều cuộc đấu tranh lớn nổ ra như cuộc
đấu tranh chống “quản thủ điền thổ”, đưa yêu sách cho Gôđa, chống sưu thuế, đòi
quyền dân sinh dân chủ…Với sự phát triển của phong trào cách mạng lớn mạnh,
Vạn Phúc được Trung ương, Xứ uỷ Bắc kỳ chọn làm an toàn khu (ATK). Bất chấp

sự khủng bố và rình mò ngày đêm của địch, Vạn Phúc đã bảo vệ an toàn cho các cơ
quan Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt,
Hoàng Văn Thụ và nhiều đồng chí Trung ương đã về đây hoạt động trong thời gian
dài. Trong cách mạng tháng Tám, Vạn Phúc khởi nghĩa thành công sớm nhất tỉnh
và trở thành một bàn đạp cho cuộc khởi nghĩa toàn tỉnh. Hơn một năm sau, Vạn
Phúc có thêm một vinh dự được đón Bác Hồ về ở và làm việc, cũng chính tại nơi
đây, Người đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19/12/1946. Từ đấy làng
dệt lụa Vạn Phúc luôn cố gắng đóng góp phần mình trong cuộc đấu tranh chung
của dân tộc.
7


Vạn Phúc, làng lụa, làng cách mạng. Tìm hiểu về làng Vạn Phúc sẽ cho
chúng ta thấy diện mạo của một làng nghề truyền thống ở Bắc bộ trong thời kỳ đầu
thế kỷ XX đến năm 1945. Nghiên cứu về kinh tế, văn hoá xã hội, chính trị của một
làng nghề nổi tiếng còn cho ta những hiểu biết thêm về những di sản của ông cha
để lại. Không chỉ vậy, các kết quả nghiên cứu thu được sẽ góp phần vào việc tìm
hiểu làng văn hoá và làng nghề cổ truyền Việt Nam – một đề tài được nhiều giới,
nhiều ngành quan tâm.
Trên cơ sở đó, tôi mạnh dạn chọn đề tài : “ Làng Vạn Phúc (Hà Đông) nửa
đầu thế kỷ XX – tiếp cận từ phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội” làm
đề tài luận văn cao học của mình. Luận văn nghiên cứu về làng nghề Vạn Phúc –
một an toàn khu của Đảng hoàn thành đúng vào dịp kỷ niệm 60 năm ngày cách
mạng tháng Tám đã góp phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu lịch sử cách mạng Việt
Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Cho đến nay, các tác phẩm nghiên cứu, ghi chép về làng Vạn Phúc còn rất ít
ỏi. Ngoài hai cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Vạn
Phúc (tập 1 và 2), địa phương còn sưu tầm và xuất bản cuốn Vạn Phúc xưa và nay
in tại nhà xuất bản Hội nhà văn năm 2001. Còn lại đa số các tác giả, tác phẩm viết

về làng Vạn Phúc chỉ đi sâu tìm hiểu nghề dệt. Thời cận đại, làng Vạn Phúc được
nhắc đến trong các tác phẩm của Hoàng Trọng Phu như: Những công nghệ gia đình
ở Hà Đông, Các nghề thủ công truyền thống ở Hà Đông. Sau cách mạng tháng
Tám có cuốn Hà Tây làng nghề làng văn do Sở văn hoá thông tin thể thao Hà Tây
xuất bản năm 1992, và gần đây nhất là luận văn Thạc sỹ Văn hoá học của tác giả
Lê Thị Hoài Linh viết về Nghề dệt ở làng Vạn Phúc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây
hoàn thành năm 2003… là những tác phẩm nghiên cứu về nghề dệt. Các công trình
nghiên cứu về văn hoá xã hội làng Vạn Phúc rất ít ỏi. Cho đến nay chưa có một
công trình nào về đề cập một cách có hệ thống, toàn diện về các mặt của làng nghề

8


Vạn Phúc. Đây cũng là một lý do để chúng tôi chọn làng nghề Vạn Phúc làm đề tài
luận văn của mình.
3. Mục đích nghiên cứu
Ngoài việc hệ thống hoá các tư liệu và kết quả nghiên cứu về nghề dệt làng
Vạn Phúc của những người đi trước, mục đích nghiên cứu của luận văn còn tiếp tục
sưu tầm những tư liệu chưa ai đề cập đến. Luận văn giới thiệu về làng nghề Vạn
Phúc trên các phương diện kinh tế, chính trị, văn hoá xã hội. Về kinh tế đó là những
nét tổng quát về nghề dệt, cơ cấu kinh tế, kỹ thuật đặc trưng, các loại sản phẩm,
cách tổ chức sản xuất, trao đổi sản phẩm, buôn bán… Về văn hoá xã hội đó là cơ
cấu tầng lớp dân cư, phong tục tập quán, tôn giáo tín ngưỡng, tâm lý - tính cách của
người Vạn Phúc. Về chính trị là quá trình phát triển của phong trào cách mạng từ
những buổi đầu đến khởi nghĩa tháng Tám thành công. Qua những mặt trên làm nổi
lên những đặc trưng riêng, những đóng góp của làng dệt Vạn Phúc.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu ở đây chính là làng dệt lụa cổ truyền Vạn Phúc nổi
tiếng khắp cả nước. Không chỉ là một làng nghề, Vạn Phúc còn là làng văn hoá,
làng cách mạng. Chúng tôi khảo sát mối quan hệ giữa các nhân tố tự nhiên và xã

hội tham gia vào quá trình hình thành và phát triển nghề dệt, sự tác động của nghề
dệt đối với đời sống kinh tế, xã hội, văn hoá làng Vạn Phúc. Từ điều kiện là một
làng dệt, Vạn Phúc nhanh chóng trở thành một làng cách mạng, là một an toàn khu
của Đảng.
Do nguồn tư liệu ít ỏi, trên cơ sở khuôn khổ của một luận văn, chúng tôi chủ
yếu đề cập đến các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của làng nghề
Vạn Phúc nửa đầu thế kỷ XX. Qua đó thấy được những nét đặc trưng, sự biến
chuyển và phát triển của làng Vạn Phúc qua các giai đoạn.
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn này, chúng tôi đã tiếp cận nhiều nguồn tư liệu khác
nhau. Tại địa phương, chúng tôi khai thác tư liệu của UBND phường Vạn Phúc, tư
9


liệu điền dã và tư liệu của hai cuốn Lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và
nhân dân Vạn Phúc. Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các tư liệu của những nhà
nghiên cứu đi trước, các tư liệu lưu trữ tại Thư viện Quốc gia, Thư viện Hà Tây,
Thư viện Khoa học xã hội. Bên cạnh đó, còn hàng loạt các bài báo, bài viết về Vạn
Phúc đăng trên các báo Trung ương và địa phương.
Trên cơ sở chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong quá trình nghiên cứu, luận văn
còn sử dụng các phương pháp: điều tra, điền dã, khảo sát thực địa, thu thập tư liệu
về các mặt của làng dệt Vạn Phúc trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, kết hợp với
nhiều phương pháp: so sánh, phân tích, tổng hợp để tìm hiểu các vấn đề đã nêu ra
trên cơ sở nguồn tư liệu đã tập hợp được.
6. Những đóng góp của luận văn
Luận văn có những đóng góp sau:
- Phác thảo diện mạo và lịch sử phát triển của làng nghề cổ truyền Vạn Phúc
nửa đầu thế kỷ XX.
- Giới thiệu về nghề dệt cổ truyền và những đặc trưng về kinh tế, chính trị,
văn hoá xã hội đồng thời làm rõ kết cấu kinh tế – xã hội truyền thống ở Vạn Phúc,

qua đó góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về thủ công nghiệp Việt Nam trong lịch
sử. Bên cạnh đó nêu bật những hoạt động chính trị cũng như đóng góp của làng
Vạn Phúc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, góp phần vào tìm hiểu lịch
sử và bảo tồn những giá trị văn hoá của địa phương.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Kinh tế làng Vạn Phúc từ đầu thế XX đến năm 1945
Chương 2: Diện mạo xã hội, văn hoá làng Vạn Phúc từ đầu thế XX đến năm
1945
Chương 3: Các hoạt động chính trị của làng Vạn Phúc từ đầu thế XX đến
năm 1945
10


Chương 1: Kinh tế làng Vạn Phúc từ đầu

thế kỷ xx đến năm 1945
1.1. Giới thiệu chung về làng Vạn Phúc
1.1.1. Các điều kiện tự nhiên và xã hội
Hà Tây là mảnh đất “địa linh” hội tụ khí thiêng của núi Tản sông Đà để sinh
ra những “nhân kiệt” như: Phùng Hưng, Ngô Quyền, Nguyễn Trãi, Ngô Sĩ Liên,
Phan Huy Chú, Nguyễn Thượng Hiền… Và nơi đây cũng nổi danh với nhiều danh
lam thắng cảnh như: Chùa Hương, chùa Thầy, Chùa Tây Phương, Chùa Đậu… Hà
Tây còn là một vùng đất giàu truyền thống yêu nước và kiên cường cách mạng.
Đặc biệt, Hà Tây còn được mệnh danh là mảnh đất “trăm nghề”, nổi bật nhất trong
đó là nghề tằm tang canh cửi.
Nghề dâu tằm vốn là nghề cổ truyền của nhân dân trong tỉnh. Những bãi đất
phù sa màu mỡ bên các con sông cổ như sông Đà, sông Hồng, sông Đáy… rất thích
hợp cho việc trồng dâu chăn tằm. Trước cách mạng tháng Tám, diện tích trồng dâu

trong toàn tỉnh là trên 800ha [37- 17]. Vì thế, trước đây cũng như hiện nay, Hà Tây
vẫn nổi tiếng là “Hà Tây quê lụa”. Những làng dệt nằm dọc theo các triền sông
như: làng Hoà Xá (ứng Hoà), Phùng Xá (Thạch Thất), Tân Lập (Đan Phượng), và
“bảy làng La – ba làng Mỗ”1… Trong đó Vạn Phúc là một làng dệt lụa cổ truyền
điển hình ở ven đô. Mặt hàng tơ lụa đòi hỏi kỹ thuật tinh xảo, bàn tay khéo léo, đầu
óc nhanh nhạy, tập trung, đức tính kiên trì, cẩn thận – lụa Vạn Phúc đã đáp ứng
được đòi hỏi đó và đạt đến độ hoàn mỹ cả về chất lượng lẫn hình thức. Sự phát
triển của làng lụa Vạn Phúc là nhờ có vị trí địa lý gần vùng cung cấp tơ để dệt lụa.

1

bảy làng La gồm: La Cả, La Khê, La Dương, La Phù, La Tinh, La Nội, Ba La
ba làng Mỗ gồm: Tây Mỗ, Đại Mỗ, Thượng Mỗ.

11


Làng Vạn Phúc có vị trí đẹp có dáng như một dải đất hình thoi trải dài giữa
đường giao thông thuỷ bộ. Phía Đông giáp sông Nhuệ, phía Tây giáp đường quốc
lộ 70, cung đường 70 bao quanh phía Tây Hà Nội, nơi tập trung rất nhiều làng nghề
thủ công lâu đời quanh đất kinh kỳ lịch sử . Phía Nam giáp hai làng Ngọc Trục, Đại
Mỗ và cánh đồng lúa.
Về đặc điểm địa hình, Vạn Phúc nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc bộ, đất đai
được hình thành do sự lắng đọng phù sa của hệ thống sông Hồng nên địa hình tương đối bằng phẳng, thấp dần từ Đông sang Tây và từ Bắc xuống Nam. Có thể
chia địa hình làng thành hai vùng: Vùng cao gồm khu dân cư và các cánh đồng:
Mân, Sen, Bồ Các, Thát I, Thát II và Dộc Chuôm. Vùng thấp gồm cánh đồng Bún
và cánh đồng Bồ nằm ở phía Tây Nam của làng. Làng Vạn Phúc chịu ảnh hưởng
của khí hậu nhiệt đới gió mùa với hai mùa rõ rệt: mùa nóng mưa nhiều và mùa lạnh
khô.
Về Thuỷ văn, làng giáp sông Nhuệ và sông đào La Khê nên việc tới nước

cho đồng ruộng do hai con sông này cung cấp. Và đây cũng là đường giao thông
quan trọng để vận chuyển hàng hoá đến và đi từ làng Vạn Phúc.
Toàn xã có diện tích đất tự nhiên là : 1.240.000m2 trong đó đất ở là:
185.000m2, và đất trồng trọt là: 1.055.000m2. Số dân của Vạn Phúc trước cách
mạng Tháng Tám 1945 có 678 hộ và 3.000 nhân khẩu. Một độ dân đông đúc gần
như thành phố: 1620 người/km2 [ 9 -11]
Vạn Phúc nằm trên địa bàn trọng yếu chiến lược ở cửa ngõ phía Tây của thủ
đô Hà Nội, giáp tỉnh lỵ Hà Đông, nơi mà theo Hoàng Trọng Phu là: “một trong
những tỉnh ở Bắc Kì mà những biến cố về chính trị gây được ảnh hưởng và tiếng
vang nhiều nhất”[18-8]. Vạn Phúc nằm tiếp giáp với các đường giao thông quan
trọng nên có thể giao lưu rộng rãi với các tỉnh lân cận như Hà Nội, Sơn Tây, Hoà
Bình… và xa hơn nữa là các miền trong nước. Đó cũng là một lợi thế để Vạn Phúc
có điều kiện phát triển nghề dệt thủ công truyền thống. Đặc biệt Vạn Phúc chịu ảnh
12


hưởng sâu sắc về chính trị, văn hoá của Hà Đông, Hà Nội và trở thành nơi có vị trí
quan trọng trong nhiều mặt chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng…của tỉnh Hà
Đông.
Vạn Phúc nằm ở trung tâm châu thổ Bắc Bộ, không có tài nguyên biển, tài
nguyên rừng và tài nguyên khoáng sản nên khó có điều kiện phát triển đồng bộ các
ngành. Nhưng Vạn Phúc lại có vị trí địa lý tương đối thuận lợi, làng lại có nghề dệt
lụa lâu đời “vua biết mặt, nước biết tên”, người dân tháo vát, thông minh, nhạy cảm
với các vấn đề kinh tế, chính trị xã hội, đặc biệt là tính kiên trì, tỉ mỉ, chịu khó làm
ăn nên đời sống nhân dân làng Vạn Phúc có phần ổn định và có thể coi là khá so
với nhiều làng nghề khác của Hà Tây. Người Vạn Phúc có đặc tính nổi bật là “
đoàn kết, cương trực và tự trọng”. Khi có ánh sáng của cách mạng soi đường, nơi
đây đã trở thành cái nôi của cách mạng, nơi hoạt động và nuôi dưỡng các vị lãnh tụ
cao cấp của Đảng và Nhà nước. Cũng tại đây, ngày 19/12/1946, chủ tịch Hồ Chí
Minh đã chủ trì Hội nghị trung ương Đảng và ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng

chiến” chống thực dân Pháp xâm lược. Từ đây cả nước biết đến Vạn Phúc, quê hương dệt lụa, cái nôi của phong trào cách mạng nước ta trong cuộc kháng chiến
chống Pháp xâm lược.
Cũng như bao làngViệt cổ khác ở đồng bằng Bắc Bộ, làng Vạn Phúc được
phân thành 5 xóm với những cái tên mộc mạc thân quen như xóm Ngoài, xóm
Trong, xóm Giữa, xóm Lẻ và xóm Quán. Các xóm là những cộng đồng dân cư tập
hợp với nhau thành một khối và được cách biệt nhau bằng những con đường ngoằn
ngoèo. Đặc biệt xã Vạn Phúc cũng là làng Vạn Phúc, thuộc mô hình “nhất xã nhất
thôn”.
Trước 1945, làng có 3 cổng là cổng phía Nam, phía Tây và phía Đông. Trong
đó hai cổng chính là cổng phía Đông và cổng phía Tây, trấn hai con đường chính đi
vào đình làng và chợ làng. Cổng phía Đông còn vế đối “ Khuyển phệ kê minh cơ
thanh viễn cận” (tạm dịch là: ngay từ lúc chó sủa, gà gáy đã nghe tiếng máy dệt lúc

13


xa lúc gần). Vế câu đối này đã thể hiện rất rõ cái thần của làng Vạn Phúc. Trên nóc
cổng có bức đại tự với 4 chữ Hán đắp nổi: “Vạn Phúc lai cầu” có nghĩa là: “ đến
đây với muôn vàn hạnh phúc”. ý nói làng Vạn Phúc đây có nghề dệt nên cuộc sống
ấm no vui tươi. Hiện nay cổng phía Tây được xây thành cổng mới dẫn vào đình
làng và cổng phía Nam dẫn vào nhà lưu niệm Bác Hồ.
Ngoài ra, làng Vạn Phúc còn một hệ thống các công trình tín ngưỡng tôn
giáo như bao làng Việt cổ khác.
Đình làng Vạn Phúc nằm ở trung tâm làng có giá trị về mặt kiến trúc, vừa là
một di tích cách mạng. Theo sử sách, đình Vạn Phúc được xây từ thời nhà Lê,
nhưng kiến trúc và điêu khắc của đình hiện thấy thì có niên đại thời Nguyễn. Đình
nằm trên một doi đất cao giữa làng, được xây theo hình chữ “Quốc” trông bề thế và
hoành tráng. Nơi đây thờ Thành hoàng làng là bà ả Lã Đê Nương. Đình là nơi hội
họp của các chức sắc trong làng và của dân làng từ xưa cho đến nay, đặc biệt là
trong những ngày lễ hội. Đình cũng là nơi quần chúng nhân dân làng Vạn Phúc tập

chung biểu tình chống thuế khoá nặng nề, chống âm mưu chiếm đoạt ruộng đất
công của thực dân phong kiến, phản đối bọn hào lý thủ cựu, xoá bỏ tệ cỗ bàn chè
chén khi hội hè đình đám…
Nằm cạnh đền Vạn Phúc là đền Phường Cửi, nơi đây thờ bà cụ giỏi nghề dệt
gấm vóc, lụa , được bà ả Lã mời về cùng dạy nghề cho dân. Sau khi bà ả Lã mất, bà
cụ về quê mình. Đến khi bà cụ mất, dân làng Vạn Phúc nhớ ơn bà lập đền thờ. Theo
ông Nguyễn Hữu Chỉnh (Chủ tịch Hiệp hội làng nghề Vạn Phúc) thì đền có từ 300
năm trước. Hiện nay đền đã được xây dựng lại khang trang, đẹp đẽ.
Làng Vạn Phúc có một ngôi miếu nằm bên bờ Nhuệ Giang, thờ Thành
hoàng làng. Tương truyền đây là nơi Thành hoàng làng hoá vào ngày 25 tháng
Chạp.
Chùa Vạn Phúc nằm ở đầu làng, bên ngoài khu dân cư. ở đây đã diễn ra cuộc
biểu tình đưa dân nguyện cho Gô đa- đại diện Mặt trận dân chủ bình dân Pháp khi
14


tổng đốc Hà Đông đưa Gô đa về thăm Vạn Phúc (7- 1937). Đây là cuộc đấu tranh
lớn, sôi nổi và rộng lớn của tỉnh Hà Đông, có tới gần 1000 quần chúng ở vùng Nam
Hoài Đức tham gia. Ngoài ra làng còn có đền Phường Rèn, Văn Chỉ, Tảo Vũ để thờ
cúng, biểu thị lòng biết ơn đối với người sáng tạo ra nghề nghiệp, nuôi dân.
1.1.2. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của làng Vạn Phúc đến đầu
thế kỷ XX
Làng Vạn Phúc xưa có tên gọi là Vạn Bảo, vốn là trang Vạn Bảo, xã Thượng
Thanh Oai, tổng Thượng Thanh Oai, trấn Sơn Nam. Hiện trên tấm bia đá ở Văn chỉ
của làng được xây dựng từ thời Tây Sơn cũng ghi thôn Vạn Bảo xã Thượng Thanh
Oai. Sang thời Nguyễn xã Thượng Thanh Oai có bốn thôn là Cầu Đơ, Kiều Trì,
Văn Quán, Vạn Bảo, riêng làng Vạn Bảo nằm biệt lập ở bên kia sông Cầu Am nên
khi chia lại địa giới hành chính đổi sang thuộc tổng Thiên Mỗ, huyện Từ Liêm phủ
Quốc Oai, trấn Sơn Tây. Đến đầu thế kỉ XX do kiêng huý tên vua Thành Thái
(1889- 1906) là Bảo Lân nên mới đổi thành Vạn Phúc. Sau cách mạng tháng Tám

1945, Vạn Phúc thuộc thị xã Hà Đông, tỉnh Hà Tây.
Theo lời kể của các cụ cao tuổi làng Vạn Phúc thì từ xa xưa, người Mỗ Lao ở
bên kia sông Nhuệ đã chuyển sang bên này sông lập trại sinh sống. Khi mới định
cư, người Vạn Phúc chỉ sống bằng nghề trồng cây lương thực và chăn nuôi. Hoàn
cảnh kinh tế tự cấp, tự túc đã đưa người dân làng Vạn Phúc đến với nghề trồng dâu
nuôi tằm, ươm tơ dệt lụa. Trong quá trình phát triển, bên cạnh nghề nông, nghề dệt
dần dần trở thành nguồn sống chính của làng.
Hiện ở đình làng Vạn Phúc còn lưu giữ được 11 đạo sắc phong, phân bố như
sau: đời Lê 3 đạo, đời Tây Sơn 2 đạo, đời Nguyễn 6 đạo. Trong điều kiện tư liệu
còn ít ỏi về sự phát triển của làng Vạn Phúc trong thời kỳ phong kiến thì 11 đạo sắc
phong này cũng đưa lại cho chúng ta một số nét về sự phát triển của làng. Đạo sắc
phong năm Bảo Hưng thứ nhất (1801) đời Tây Sơn thấy ghi duệ hiệu Đức thánh có
đến hơn hai mươi mỹ tự mà theo quy định xưa thì mỗi đợt gia phong thường chỉ là
15


hai đến ba mỹ tự. Đến triều Nguyễn, mặc dù đã có tiền lệ ban cấp sắc phong từ đời
Lê, Tây Sơn nhưng các vua đầu triều Nguyễn như Gia Long (1802- 1820), Minh
Mạng (1821- 1840), Thiệu Trị (1841- 1847) đều không ban sắc phong cho thành
hoàng làng Vạn Phúc. Mãi đến năm Tự Đức thứ 6 (1853) đình làng Vạn Phúc mới
tiếp tục nhận được sắc phong. Theo quy chế ban cấp sắc phong thời xưa, một địa
phương không được cấp sắc phong chỉ có hai lí do. Một là vị thần mà dân làng tôn
thờ không phải là chính thần mà thuộc loại tà thần, dâm thần không được phép thờ.
Hai là dân làng không chịu tuân theo giáo hoá của triều đình. Theo các cụ cao tuổi
làng Vạn Phúc thì nghiêng về lí do thứ hai. Thời Tây Sơn, dân làng Vạn Phúc dốc
sức ủng hộ phong trào. Nghĩa cử ủng hộ phong trào Tây Sơn ấy đã gây mối phản
cảm đối với các vua đầu triều Nguyễn vì thế nên không có sắc phong.
Khi thực dân Pháp đem quân sang xâm lược nước ta, hai lần đánh chiếm Bắc
Kỳ, lần thứ nhất (1873) và lần thứ hai (1883), nhân dân Vạn Phúc đã cùng với nhân
dân trong huyện Hoài Đức hết lòng, hết sức giúp đỡ và sát cánh chiến đấu cùng với

lực lượng kháng chiến đánh bại nhiều cuộc hành quân của thực dân Pháp, lập lên
chiến công lừng lẫy ở khu vực Cầu Giấy.
Tóm lại, làng Vạn Phúc cũng giống như nhiều làng Việt cổ khác ở châu thổ
sông Hồng, nông tang là nghề cơ bản đáp ứng nhu cầu ăn ở mặc của dân làng. Do
đất chật người đông, làng lại không có tài nguyên khoáng sản và để giải quyết vấn
đề nông nhàn, xuất phát từ nhu cầu tự cấp tự túc nghề dệt ra đời. Nhờ vị trí giao
thông thuận tiện nằm ở vùng sông ngòi bờ bãi nên nghề tằm tang phát triển và kéo
theo nó là sự phát triển của nghề tơ lụa. Chính sự phát triển đó cộng với các điều
kiện khác như tài khéo léo, chăm chỉ chịu khó đã tạo điều kiện cho sự ra đời của
các làng dệt, trong đó có Vạn Phúc. Làng dệt Vạn Phúc ra đời và phát triển với ý
nghĩa đặc trưng của một làng nghề truyền thống rất nổi tiếng. Lụa Vạn Phúc cùng
với các làng dệt có tiếng suốt một dải sông Hồng, sông Đáy từng góp mặt sản phẩm
của mình trên mọi miền đất nước. Vạn Phúc còn là mảnh đất giàu truyền thống yêu
nước kiên cường cách mạng, rất đỗi tự hào.
16


1.2. Kinh tế làng Vạn Phúc từ đầu thế kỷ XX đến năm 1954
1.2.1. Cơ cấu kinh tế làng Vạn Phúc
Ngành nông nghiệp dưới thời phong kiến, trong sử sách và các văn kiện khác
thường gọi là nông tang. Cách gọi đó là rất đúng, bởi vì nền sản xuất nông nghiệp
trước đây mang tính chất tự cung tự cấp gồm có hai bộ phận gắn bó với nhau: trồng
lúa để lấy cái ăn và trồng dâu, chăn tằm, dệt lụa để lấy cái mặc. Ăn mặc từ bao đời
nay vẫn là hai vấn đề kinh tế chủ chốt. Làng Vạn Phúc cũng như bao làng Việt cổ
khác lấy nghề nông làm gốc. Nhưng Vạn Phúc không trồng dâu chăn tằm mà chỉ
dệt lụa. Nghề nông và nghề dệt là hai nghề tồn tại lâu đời, bổ sung và hỗ trợ cho
nhau về kinh tế để đảm bảo cho người dân một cuộc sống no đủ. Nhưng ở đây, mỗi
nghề có một vị trí khác nhau, đưa lại lợi ích kinh tế khác nhau mà trong quá trình
phát triển, làng Vạn Phúc không loại bỏ một hình thức nào, ngược lại phát triển cả
hai nghề: Nghề nông và nghề dệt.

1.2.1.1. Nghề nông
Nghề nông giữ vị trí quan trọng, là một bộ phận cấu thành của nền kinh tế
tiểu nông, tự cấp tự túc. Đối với làng nghề nông, ruộng đất là tư liệu sản xuất quan
trọng nhất không thể thiếu được. ở làng Vạn Phúc, không có địa chủ vì ruộng đất ít.
Tổng diện tích đất gieo trồng của làng có 285 mẫu Bắc bộ ở 18 xứ đồng, bao gồm
các hình thức sở hữu sau:
Bảng phân bố sở hữu ruộng đất làng Vạn Phúc trước 1945
Hình thức sở hữu

Diện tích

Chiếm tỷ lệ

Ruộng công

25 mẫu

8,8%

Ruộng chùa

0,7 mẫu

0,2%

Ruộng phe giáp

4,3 mẫu

1,5%


Ruộng tư

255 mẫu

89,5%

(Nguồn: Uỷ ban nhân dân phường Vạn Phúc)
17


Ruộng công làng xã chỉ có 25 mẫu trong tổng số 285 mẫu của làng, chiếm tỷ
lệ 8,8%. So với các làng Việt khác thì tỷ lệ ruộng tư nhiều gấp 10 lần ruộng công.
Vì ruộng công quá ít ỏi nên làng không chia đều cho các suất đinh mà bán mầu mỗi
năm một lần vào ngày 13 tháng Giêng (Âm lịch) theo lối đấu thầu. Tiền bán được
giao cho thủ quỹ của làng giữ để chi tiêu vào các việc làng, hội hè hàng năm.
Ruộng chùa rất ít, chỉ có khoảng 7 sào, chiếm tỷ lệ 0,2%, bao gồm cả ruộng
cúng hậu. Ruộng chùa do nhà chùa cày cấy, hoa mầu thu được dùng vào việc thờ
tự. Đặc biệt, làng Vạn Phúc không có ruộng đình, tiền hương khói do nhân dân
quyên góp và có thủ quỹ quản lý chi dùng.
Ruộng phe giáp có khoảng 4,3 mẫu của 14 giáp. Mỗi giáp có khoảng 3 sào
ruộng. Ruộng này các giáp lại giao cho các gia đình trong giáp luôn phiên nhau cày
cấy, hoa màu thu hoạch được dùng vào công việc chung của phe giáp.
Ruộng tư của cả làng có 255 mẫu, chiếm tỷ lệ 89,5% trong tổng quỹ đất của
làng. Vì ruộng đất ít nên Vạn Phúc không có địa chủ, những hộ có nhiều ruộng đất
nhất trong làng cũng chỉ có từ 4 đến 5 mẫu. Số hộ có nhiều ruộng, đồng thời cũng
là số hộ có nhiều khung dệt, đó là 16 hộ tiểu chủ của làng. Số hộ tiểu chủ này sở
hữu một số lượng ruộng khá lớn khoảng 72 mẫu, chiếm tỷ lệ 28% trong tổng số
ruộng đất tư của làng.
Một số ít hộ có từ 0,3 – 0,5 mẫu trở xuống đều bán đi để sắm khung dệt và

mua nguyên liệu. Một số hộ còn lại có từ 0,7 – 0,8 mẫu trở lên thì “kiêm doanh”
nghĩa là vẫn còn làm ruộng nhưng giành phần lớn thời gian và sức lao động cho
nghề dệt. Mức độ sở hữu ruộng tư của làng Vạn Phúc có thể phân thành hai nhóm
khác biệt nhau, đó là hộ tiểu chủ và những hộ còn lại.
Bảng phân bố sở hữu ruộng tư làng Vạn Phúc
Hộ tiểu chủ

Những hộ còn lại

16

662

Số lượng hộ

18


Tổng số ruộng

72 mẫu

183 mẫu

28%

72%

4,5 mẫu


 0,28 mẫu

Chiếm tỷ lệ trong tổng quỹ ruộng
Sở hữu trung bình/hộ

(Nguồn : UBND Phường Vạn Phúc)
Như vậy, ngoài 16 hộ tiểu chủ có nhiều ruộng đất thì đa số các hộ còn lại là
rất ít ruộng đất, trung bình mỗi hộ khoảng 0,28 mẫu, tương đương với 2,8 sào. Nếu
tính trung bình mỗi hộ ở làng Vạn Phúc có 5 người thì bình quân mỗi nhân khẩu
chỉ còn được nửa sào.
Ruộng đất ít, năng suất lúa lại thấp. Sản lượng lúa thu được hàng năm của
làng Vạn Phúc bình quân 2,5 tấn/ha. Theo số liệu của UBND phường Vạn Phúc,
lương thực của cả làng thu hoạch được là 262 tấn/năm, trong đó nhu cầu lương
thực thực tế cần có là 900 tấn/năm. Số lương thực sản xuất ra chỉ đủ cho gần 1/3
dân số. Người dân Vạn Phúc cho rằng số thóc gạo do nông dân địa phương làm ra
chỉ đủ để hồ lụa, còn thóc gạo để nuôi sống con người thì phải nhờ vào tiền công
dệt. Vì thế, phần lớn các gia đình sống hoàn toàn bằng nghề dệt và nghề dệt chiếm
ưu thế trong tổng thu nhập. Hiện tượng này không chỉ thấy ở riêng Vạn Phúc mà
thấy ở một số các làng dệt truyền thống khác của tỉnh Hà Đông (cũ). Để tiện theo
dõi, dưới đây là bảng so sánh hoạt động nông nghiệp và thủ công nghiệp (dệt) ở các
làng làm nghề dệt của tỉnh Hà Đông trước năm 1945.
Địa danh

Diện tích canh tác

Tổng số hộ

Số hộ làm
nghề dệt


Tư điền

Công điền

Vạn Phúc

255

25

678

638

La Khê

626

45

100%

95%

Hoà Xá

284

78


457

300

19


(Nguồn: Lâm Bá Nam, Nghề dệt cổ truyền ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam,
NXB Khoa học xã hội, H, 1999, trang 423)
Mặc dù vậy, vẫn phải khẳng định rằng nghề nông giữ vị trí quan trọng. Đó là
nghề truyền thống của cư dân nông nghiệp. Ngoài giá trị đảm bảo đời sống nhân
dân, mỗi khi hàng ế – tơ cao, vừa làm ruộng vừa làm nghề dệt đời sống nhân dân
có phần ổn định hơn.
1.2.1.2. Nghề dệt
 Sự ra đời nghề dệt ở làng Vạn Phúc
Nghề dệt ở làng Vạn Phúc có từ rất lâu đời: hiện nay không còn tài liệu nào
nói đến sự ra đời của nghề dệt ở Vạn Phúc. Trong dân gian chỉ còn lưu truyền lại
những truyền thuyết phản ánh về vấn đề này.
Dân làng còn lưu lại câu vè:
“Gặp cô quê ở La Khê (1)
Nhân vui nói chuyện về nghề làm the
Nghề này khởi tận triều Lê
Tướng quân mười vị dạy nghề mới sang”
Căn cứ vào câu vè trên, một số người cho rằng nghề dệt do mười vị tướng
quân người Tứ Xuyên, Trung Quốc sang dạy cho làng La Khê rồi sau đó mới
truyền sang làng Vạn Phúc. Còn thời gian truyền nghề, câu vè chỉ nói “khởi tận
triều Lê”, còn thời Lê hay Lê Sơ thì không nói rõ.Một truyền thuyết khác được lưu
truyền rộng rãi trong dân làng Vạn Phúc, được nhiều người chấp nhận hơn là
truyền thuyết về bà tổ nghề Lã Thị Nga. Hiện dân làng vẫn còn giữ được bản thần
tích do lễ Bộ Thượng Thư Đông Các Đại học sĩ Nguyễn Bính biên soạn năm 1739

nói về bà Lã Thị Nga truyền nghề cho dân chúng như thế nào.
Có thể tóm tắt truyền thuyết về bà như sau:
(1)

Làng La Khê, một làng chuyên làm nghề dệt, trớc cách mạng Tháng Tám năm
1945 làng thuộc Tổng La Nội, huyện Từ Liêm, Phủ Hoài Đức. Nay là xã La Khê,
huyện Hoài Đức, Hà Tây

20


Thời con gái bà nổi tiếng xinh đẹp và là cô thợ may khéo ở đất Kinh Kỳ. Khi
Cao Biền nhà Đường (Trung Quốc) được cử sang nước ta làm tiết độ sứ, xây thành
Đại La (Hà Nội ngày nay) đã lấy bà làm vợ để trông nom khu vực phường cửi
trong thành. Sau khi Cao Biền về nước Bà rời đến làng Vạn Phúc ở. Bà Lã Thị Nga
còn mời thêm một bà cụ giỏi nghề dệt lụa về dạy cho dân làng. Sau khi bà hoá, dân
làng nhớ ơn xây miếu thờ tại chỗ hoá và tôn bà làm Thành Hoàng làng. Tại đình
làng Vạn Phúc nơi thờ Bà, trong hậu cung còn đặt một cái kéo, một cái vạch và một
cái thước sơn son thiếp vàng đặt trước bài vị. Sau khi bà Lã Thị Nga hoá, bà cụ thợ
già cũng trở về quê và mất tại quê. Dân làng nhớ ơn lập đền thờ bà gọi là Đền Phường cửi.
Hiện nay trong Đình làng, nơi thờ bà còn lưu giữ được 11 sắc phong tuy
không nói rõ quá trình bà dạy nghề cho dân làng như thế nào nhưng đều ca ngợi
công đức, phẩm hạnh của bà và tôn bà là Thành Hoàng của làng “Lã Thị Nương
nương Nga Hoàng Đại Vương”. Đây là một cơ sở để chúng ta xác định rõ hơn về vị
tổ nghề dệt làng Vạn Phúc và sự ra đời của nghề dệt ở làng. Ngoài ra ở đình làng
còn có đôi câu đối nói về hành trạng của Bà, dịch nghĩa như sau:
Theo lòng trời thần ban đất, gia ân cho dân, một ấp sống chung duy phép
thần mới bảo vệ được.
Đức lớn như lòng đất, trừ tai cản hoạ cho tứ dân


(1)

mới an cư lạc nghiệp

chỉ có lòng người mẹ mới giúp được dân như vậy (2).
Từ những cứ liệu trình bày ở trên, cho phép ta đoán định rằng nghề dệt ở
làng Vạn Phúc đã ra đời từ rất sớm, có thể từ thế kỷ VIII vào lúc nhà Đường đô hộ
nước ta. Trong sử cũ còn chép lại lúc bấy giờ nước ta gọi là “An Nam đô hộ phủ”,
dân ta phải cống nộp cho vương triều phương Bắc những cống phẩm quý giá như:
tơ, lụa, the, đồ mây… Nhưng nếu muộn hơn thì nghề dệt ở đây cũng đã có từ thời
Lê sơ (thế kỷ XV) và bề dày thời gian là khoảng 500 năm cách ngày nay.
(1)
(2)

: Tứ dân: Sĩ, Nông. Công, Thương
: Lời dịch do cụ Nguyễn Văn Bút, sinh năm 1928, xóm Chiến Thắng cung cấp

21


Vậy nguyên nhân nào đã dẫn đến sự ra đời của nghề dệt?
Từ xa xưa khi mới đến lập cư, người Vạn Phúc mới chỉ sống bằng nghề
trồng trọt và chăn nuôi. Cùng với quá trình phát triển của lịch sử, dân số ngày càng
đông, ruộng đất ít, năng suất lúa thấp… Điều kiện trên buộc người nông dân nơi
đây không chỉ sống dựa vào nghề nông mà phải có thêm nghề phụ. Do gần nguồn
tơ tằm từ sông Đáy, gần trung tâm kinh tế chính trị sầm uất của tỉnh Hà Đông, lại
có giao thông thuỷ bộ đều thuận tiện nên từ lâu nghề dệt ở làng Vạn Phúc đã sớm
ra đời. Nhờ bàn tay tài hoa, khéo léo, nhờ trí thông minh và tài năng sáng tạo, người dân Vạn Phúc tự hào về nghề dệt nổi tiếng ở quê hương. Lụa Vạn Phúc có mặt
trên khắp mọi miền đất nước ta và thị trường quốc tế: Pháp, Inđônêxia, Thái Lan,
Campuchia…

 Quy trình sản xuất của nghề dệt cổ truyền ở làng Vạn Phúc
Để có được một tấm lụa, người thợ dệt phải trải qua một quy trình kỹ thuật
phúc tạp, tốn nhiều công sức với rất nhiều công đoạn. Có thể chia thành các khâu
chính như: Khâu tơ, khâu hồ, khâu dệt, khâu chuội và nhuộm.
Khâu tơ:
Mục đích chính là chọn những sợi dọc và sợi ngang để dệt. Khâu tơ bao gồm
các bước: chọn tơ, đẽo tơ, móc tơ.
Đầu tiên người thợ dệt mua về những “lô tơ” (tơ được guồng thành từng
nọn). Thời kỳ này, phần lớn chỉ có tơ thủ công là tơ kéo bằng tay, nên sợi không
đều, đoạn to, đoạn nhỏ, nhiều mấu. Loại tơ máy (tức tơ công nghiệp) đều sợi, ít
mấu cục, thời này rất hiếm và đắt, được đưa từ Trung Quốc hay Nhật Bản sang…
Vì là tơ thủ công nên bước đầu tiên là phải chọn sợi. Người ta chọn và phân tơ ra
thành 4 loại ở 4 ống: sợi mành, sợi mắc, mốt son, mốt cục. Một khung cửi cần có 2
– 3 người quay tơ phục vụ.
Sợi mành là sợi nhỏ nhất (màu vàng nhạt) dùng làm sợi ngang. Sợi mắc là
sợi tơ trung bình dùng để làm sợi dọc. To hơn nữa là mốt son ( màu vàng đậm) có ít
22


ghẻ

(1)

. Mốt cục là loại sợi to nhất có nhiều cục. Sau khi phân tơ, mỗi loại tơ được

dùng vào một công việc khác nhau. Sợi mành dùng làm sợi ngang nhưng không
phải cứ thế là dùng được ngay mà tuỳ theo từng loại mặt hàng dệt mà người thợ
phải chập 2- 4 sợi mành hay nhiều hơn nữa làm một hột. Khâu chập sợi này người
ta gọi là khâu “đẽo tơ ”. Mốt son dùng để dệt ở đầu hoặc cuối tấm vải. Mốt cục
dùng để dệt hàng: đũi, sồi, nái hoặc làm go ngang. Vì thế ở Vạn Phúc có câu ca dao

“…Quay tơ ra mắc, ra mành,
Mắc thì mắc dọc, mành thì dệt ngang
Mốt son thì dệt đầu hàng
Mốt cục thì đánh go ngang cho bền”
Cách làm hàng tơ như vừa mô tả ở trên phải rất cẩn thận. Sợi loại nào chỉ
dùng vào đúng việc nấy, có như vậy hàng mới đảm bảo phẩm chất. Những người
ham lời cứ ken vào ba sợi mắc, một sợi mốt hoặc khổ vải đáng 3000 sợi chỉ làm
2800 sợi thì hàng vừa thưa lại vừa gặp mấu, sờ rát tay, không được mịn, lại mau xổ
lông.
Khâu hồ
Sợi ngang sau khi suốt là xong, chỉ việc gài vào thoi đem dệt. Riêng đối với
sợi dọc, sau khi chập đôi xong phải hồ rồi mới dệt. Hồ nhằm làm cho sợi dệt khi
dệt không bị xơ xước, có độ bền và độ bóng cao. Hồ sợi là một nghệ thuật, không
có làng nào ở Hà Đông có kĩ thuật hồ tốt như ở Vạn Phúc. Người thợ hồ ở đây nấu
hồ hết sức công phu, từ khâu chọn gạo đến khâu quấy hồ đều làm rất cẩn thận khi
nấu hồ người ta thường thêm một ít sáp ong, đồng thời sử dụng bí quyết riêng làm
cho sợi hồ vừa dẻo dai lại vừa bóng. Khi hồ sợi, làng Vạn Phúc chỉ hồ sợi trong nhà
nên sợi khô rất chậm lại mất nhiều công để quạt cho khô, mỗi ngày chỉ làm được 45 nước hồ ( nếu làm hồ ngoài trời thì được 10 nước hồ một ngày). Sau khi hồ xong,
sợi khô, cuộn sợi đã hồ vào trục bên kia, tiếp tục hồ quãng sau. Kĩ thuật hồ sợi ở
(1)

Ghẻ: Là những mấu nhỏ trên sợi tơ, mấu to gọi là cục.

23


Vạn Phúc, nhất là của các nghệ nhân bậc thầy ở đây không bao giờ tiết lộ bí quyết
ra ngoài. Chính vì thế sợi hồ của Vạn Phúc bao đời nay vẫn đẹp hơn sợi hồ của các
nơi khác.
Khâu dệt

Dệt là khâu quan trọng nhất của nghề dệt lụa thủ công ở Vạn Phúc. Có hai
hình thức dệt chính là dệt hàng trơn và dệt hàng hoa.
Dệt hàng trơn là dệt các mặt hàng không có hoa, bao gồm các hàng nền lụa
(hàng không thủng) và loại hàng thủng. Loại hàng nền lụa như: lụa trơn, lĩnh, sa
tanh được dệt bằng go thẳng, còn muốn dệt hàng thủng phải có go võng.
Để tạo nên được nhiều mặt hàng khác nhau, người thợ dệt phải luôn thay đổi
những yếu tố: số lượng sợi dọc nhiều hay ít, độ to của sợi ngang ( chập đôi, chập ba
hay bốn sợi) ; cách thăm go: thăm thuận, thăm nghịch, thăm một miệng go hay hai
miệng go; cách dận chân đòn, chân nào trước chân nào sau; dùng go võng hay go
thẳng… Cùng một khung cửi, chỉ cần thay đổi những yếu tố kĩ thuật trên, người thợ
dệt có thể tạo ra nên nhiều mặt hàng khác nhau.
Dệt hàng hoa các thao tác dệt giống như mặt hàng trơn, nhưng trước khi dệt
hoa gì phải có kiểu hoa đó vẽ lên giấy, đặt lên một miếng vải sa thưa, sau đó mới
đặt lên bàn khâu hoa (như khung thêu) để khâu. Dùng kim khâu đếm từng sợi dọc,
sợi ngang - tính xem số lượng (hoa) bao nhiêu sợi. Khâu xong người ta vỗ nước, rút
hết sợi dọc và sợi ngang của miếng vải ra. Như thế ta được một “vốn hoa”

(1)

. Khi

đã có vốn hoa bước tiếp theo là “vào hoa” để dệt.
Thao tác dệt hàng hoa phức tạp hơn dệt hàng trơn. Dệt hàng hoa đòi hỏi phải
có hai người: một người dệt, một người kéo hoa. Các động tác khi dệt của hai người phải nhịp nhàng ăn khớp với nhau. Người dệt là người đóng vai trò điều khiển
chính. Đối với người kéo hoa, do có sẵn “vốn hoa” nên chỉ việc kéo lần lượt từng
sợi go ngang, đến khi hết một lượt lại đẩy nó lên vị trí cũ. Và lặp lại từ đầu cho đến
(1)

Vốn hoa: Một kiểu hoa khi dệt xong ngời ta lại đem cất đi, lần sau muốn dệt
loại hoa đó thì đem ra dệt tiếp.


24


khi hết đoạn dệt hoa, người kéo hoa có thể đi làm việc khác. Để tiết kiệm thời gian
hai khung dệt hoa chỉ cần một người kéo hoa là đủ. Nhưng khi dệt những hàng dày
như lụa vân thì một khung cửi cần một người kéo hoa liên tục.
Trong tất cả các sản phẩm hàng hoa ở Vạn Phúc thì gấm là mặt hàng quý
nhất, đắt nhất. Gấm là bà chúa của mọi mặt hàng. Hàng gấm thời phong kiến chỉ có
vua quan và tầng lớp thượng lưu mới được dùng. Nghề dệt gấm đòi hỏi người thợ
không những phải có kỹ thuật tinh xảo mà còn phải có cả óc thẩm mỹ tuyệt vời
trong cách bố trí hoa văn và màu. Vì thế không phải bất cứ ai học là biết dệt. Đã có
không ít người sau bao nhiêu năm theo học mà vẫn không thành công lại phải quay
về với công việc quay tơ, hồ sợi. Dệt gấm cũng cần phải có hai người, một người
dệt, một người kéo hoa. Người thợ dệt phải nhớ thứ tự các màu khi lao thoi, có khi
dệt tới 7 màu. Cách dận chân đòn cũng rất khó. Một khung cửi dệt gấm có 16 chân
đòn (8 chân đòn ngang và 8 chân đòn dọc): 8 chân đòn ngang ăn với 8 bàn go lân, 8
chân đòn dọc cứ một chân đòn buộc với hai bàn go đè. Khi dận một chân đòn dọc
thì một chân đòn ngang kéo xuống, một bàn go lên kéo lên và một bàn go đè, đè
xuống. Người dệt phải luôn luôn theo dõi xem hàng có bị sai màu và hoa của người
kéo có đúng màu không. Nghề dệt gấm tinh xảo là vậy và dệt gấm cũng là nghề cao
quý nhất trong các mặt hàng dệt ở làng Vạn Phúc.
Khâu chuội
Các mặt hàng tơ lụa sau khi dệt xong phải đem chuội cho mềm mại và bóng.
Chuội có nhiều phương pháp khác nhau nhưng phương pháp cổ truyền phổ biến
rộng rãi trong dân làng Vạn Phúc là chuội bằng gio rơm nếp. Cách thức chuội như
sau: gio rơm nếp cho vào rá vo gạo, bên dưới để cái xoong, dội nước lã vào rá
(không được xát), lấy lượng nước vừa đủ với số lượng vải cần chuội. Vải lụa ngâm
vào nước lã cho ngấm ướt đều, sau đó cho vào nồi nước gio đã lọc đun sôi 15 phút,
lấy đũa lật nhẹ rồi lại đun sôi 15 phút nữa là được. Sau đó đem lụa giặt sạch bằng

nước lã. Tấm vải có màu mỡ gà và bóng mịn, trông rất đẹp mắt.

25


Nhuộm thâm
Lụa dệt xong có mầu mỡ gà, nếu không thích vải màu mỡ gà thì đem vải
nhuộm thâm. Cách thức làm đơn giản như sau: vải lụa nấu sạch hồ bằng nước bồ
hòn, sau đó nhúng vào nước lá băng, lá sồi, đun sôi nhiều lần trong một ngày. Tiếp
đó đem dấm bùn nhuyễn, cứ làm thế trong 3 ngày thì được. Sau cùng đem tấm hàng
giặt sạch rồi nhúng vào nước thóc nếp rang cháy đem đun sôi cho bóng vải, ta sẽ có
được tấm hàng thâm bền màu và bóng.
 Các sản phẩm chính:
Mặt hàng dệt Vạn Phúc đa dạng, phong phú với nhiều chủng loại, lụa, là,
gấm vóc vân, the, lĩnh, băng quế, đoạn sa, kỳ cầu, tít so, đũi… nhưng lụa và gấm là
hai mặt hàng nổi tiếng nhất. Lụa Vạn Phúc mịn màng với đủ các màu và nhiều loại
hoa văn, kỹ thuật dệt lại rất tinh xảo, hoa có cái chìm, cái nổi, có cái nhìn thấy ngay
nhưng cũng có cái phải soi lên ánh sáng mới thấy hết cái hay cái đẹp. (Xem thêm
phần phụ lục).
Các sản phẩm truyền thống của làng Vạn Phúc
Gấm là mặt hàng có nền dày bóng như satanh. Nền gấm thường là các màu:
lam, hồng cánh chấu, huyền. Hoa có sắc màu tươi, sặc sỡ, được dệt như thêu trên
nền sa tanh. Một tấm gấm thường có nhiều màu, phổ biến là 5 màu hay 7 màu, còn
được gọi là gấm ngũ thể hay thất thể. Do sợi ngang và sợi dọc mỗi góc nhìn khác
nhau, thấy có những sắc màu khác nhau. Đứng ở góc này thấy gấm màu hồng rực
rỡ, đứng ở góc khác lại thấy gấm màu xanh lơ hay xanh lam. Gấm có vẻ đẹp rực rỡ
và lộng lẫy, được coi là bà hoàng của các sản phẩm dệt.
Vân là mặt hàng nền lụa mỏng hơn satanh. Mặt hàng này bao giờ cũng có
hai kiểu hoa dệt trên một tấm lụa: hoa nổi và hoa chìm. Hoa nổi bóng mịn trông rất
đẹp, còn hoa chìm phải soi lên ánh sáng mới thấy được. Nét độc đáo của hàng vân

là ở chỗ hoa chìm (dệt thưng) nhưng khi dệt không bị xô, bị dạt bởi vì khi dệt được

26


dệt bằng go võng, các sợi của cánh hoa được bện chặt với nhau thành từng đố. Vân
là mặt hàng xếp thứ hai sau gấm.
Lụa có hai loại: lụa trơn và lụa dệt bằng hoa tơ nõn. Đây là mặt hàng dệt
theo kiểu đan “lóng mốt” cho sợi dọc và sợi ngang khít vào nhau tạo nên vẻ mịn
màng óng ả, có độ dày vừa phải.
The, lương, sa, xuyến, băng, quế là những mặt hàng dệt thưng. Sợi dệt the
bóng và mảnh. Sợi dọc ít từ 3000 – 3500 sợi nên the thưa. Dệt the là bố trí các sợi
dọc, ngang không khít nhau, tạo nên hình thưng theo hàng ngang. Có loại the trơn
và the hoa. Sa tựa như the nhưng dệt rất mỏng. Dệt xuyến thì cứ dệt sợi ngang mấy
sợi mau lại đến mấy sợi thưa, trông mỏng và thoáng tựa như mành mành, mỏng
hơn the trơn, có khi đắt hơn cả the hoa. Băng, quế cũng là mặt hàng thưng nhưng
lại mỏng hơn the, sa, trông tựa như mắt dần, trong suốt, có cài hoa lác đác. Băng sử
dụng 3000 – 3500 sợi dọc, nhẹ chỉ bằng 0,7 lần the. Mỗi mặt hàng một vẻ, không
loại nào giống nhau nhưng đều có đặc tính chung là bền và khi giặt không bị xô
sợi.
Lĩnh, đoạn, vóc, satanh là những mặt hàng dày, có số lượng sợi dọc nhiều
hơn lụa, nhưng mỗi loại có những nét khác nhau. Lĩnh có số lượng sợi dọc tới 8000
sợi, khi dệt sợi dọc đưa lên nhiều tạo nên sự bóng nhoáng cho mặt hàng. Đoạn, vóc,
satanh cũng dệt theo nguyên tắc như dệt lĩnh nhưng dày hơn, sợi dọc nhiều hơn cả
gấm, đặc biệt là sợi dọc và sợi ngang nổi đều nhau, mịn màng, óng ả, trông rất đẹp.
Lượt là mặt hàng dệt thưa, mỏng, mịn, rất mềm. Là dệt bằng tơ nõn, có những
đường dọc nhỏ đều. Nhiễu là thứ lụa dệt bằng sợi đã se nên mặt nổi cát trông tựa
như kếp. Cấp mỏng gần như the, lượt và thường hay cài hoa. Sồi dệt bằng tơ gốc.
Nái được dệt từ sợi kéo từ vỏ kén bên ngoài nên sợi to, thô có nhiều lông và ghẻ,
thường có màu vàng đậm, cứng nhưng bền. Đũi được dệt từ tơ trong cùng của kén

tằm, dày và bền như nái nhưng mềm và mịn hơn.

27


×