Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

phân tích chế độ kinh tế theo quy định của hiến pháp năm 2013 so sánh với mô hình kinh tế trong các bản hiến pháp năm 1959 hiến pháp năm 1980 hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.97 MB, 29 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ NỘI VỤ</b>

<b>HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA</b>

<b>BÀI TẬP</b>

<b>PHÂN TÍCH CHẾ ĐỘ KINH TẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA HIẾN PHÁP NĂM 2013.SO SÁNH VỚI MƠ HÌNH KINH TẾ TRONG CÁC BẢN HIẾN PHÁP NĂM 1959,HIẾN PHÁP NĂM 1980, HIẾN PHÁP NĂM 1992 (SỬA ĐỔI BỔ SUNG NĂM 2001)</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU... 2</b>

<b>I. CHẾ ĐỘ KINH TẾ VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ...3</b>

1. Chế độ kinh tế...3

2. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1946...3

3. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1959...3

4. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1980...4

5. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1992...5

6.Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 2013...5

7. Chế độ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội...5

8. Quy định trong Hiến pháp 2013 về kinh tế trong quá trình đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển bền vững ...8

<b>II. TÍNH CHẤT, MƠ HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONGHIẾN PHÁP NĂM 2013 SO VỚI CÁC BẢN HIẾN PHÁP TRƯỚCĐĨ... 11</b>

1.Tính chất...11

2. Mơ hình kinh tế...11

<b>III. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐỔI MỚI MƠHÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ, THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP</b> ... 15

1. Quan điểm và chủ trương...15

2. Thực trạng đổi mới mơ hình tăng trưởng kinh tế thời gian qua

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

Tồn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan của thời đại, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng cường sức ép cạnh tranh và tùy thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế.Việc hội nhập kinh tế quốc tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với các nước đang phát triển, nhất là đối với Việt Nam, khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường mà chúng ta đang theo đuổi thể hiện ở mục tiêu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời phải đảm bảo được vai trò định hướng và điều tiết nền kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình phát triển kinh tế tổng qt của nước ta hiện nay. Đây là quá trình nhận thức, hoàn thiện tư duy lý luận và tổng kết thực tiễn của Đảng để thấy rõ hơn về sự tất yếu khách quan, những nội dung và đặc trưng cơ bản, những việc cần thực hiện để đẩy mạnh phát triển kinh tế ở nước ta. Lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự nắm bắt và vận dụng xu thế vận động khách quan của kinh tế thị trường trong thời đại ngày nay. Đảng Cộng sản Việt Nam trên cơ sở nhận thức tính quy luật phát triển của thời đại và sự khái quát, đúc rút từ kinh nghiệm phát triển kinh tế thị trường thế giới, đặc biệt là từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và ở Trung Quốc, để đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm sử dụng kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình tất yếu phù hợp với quy luật phát triển của thời đại và đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Nó cũng là con đường để thực hiện chiến lược phát triển rút ngắn, để thu hẹp khoảng cách tụt hậu và

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

nhanh chóng hội nhập, phát triển. Tuy nhiên, đây là sự nghiệp vơ cùng khó khăn, phức tạp, lâu dài, bởi lẽ nó rất mới mẻ, chưa có tiền lệ, phải vừa làm vừa rút kinh nghiệm. Riêng về mặt lý luận cũng cịn khơng ít vấn đề phải tiếp tục đi sâu nghiên cứu, tổng kết, làm sáng tỏ. Chẳng hạn như: các vấn đề về chế độ sở hữu và các thành phần kinh tế; về lao động và bóc lột; về quản lý doanh nghiệp nhà nước ra sao để nó đóng được vai trị chủ đạo; làm thế nào để thực hiện được công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế còn thấp kém; vấn đề bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện phát triển kinh tế nhiều thành phần; các giải pháp tăng cường sức mạnh và hiệu lực của Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chống quan liêu, tham nhũng, v.v.

<b>I. CHẾ ĐỘ KINH TẾ VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ1. Chế độ kinh tế </b>

Chế độ kinh tế là Chế độ pháp lý gồm tổng thể các quy phạm luật hiến pháp điều chỉnh các quan hệ xã hội về kinh tế liên quan đến việc xác định mục đích chính sách của nền kinh tế, phương hướng phát triển nền kinh tế, quy định chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế và nguyên tắc quản lý nền kinh tế quốc dân.

<b>2. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1946</b>

Do hoàn cảnh, điều kiện lịch sử khi xây dựng bản Hiến pháp năm 1946 nên quy định về chế dộ kinh tế chưa được quan tâm trong Hiến pháp 1946. Những nội dung về mục đích, phương hướng phát triển kinh tế, hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, cũng như nguyên tắc cơ bản trong quản lý nhà nước về kinh tế chưa được định hình. Hiến pháp 1946 chỉ có đề cập đến một quyền tư hữu tài sản (Đ.12). Tuy nhiên, qua nghiên cứu về hoàn cảnh ra đời của Hiến pháp 1946, có thể thấy mục đích của việc phát triển kinh tế là nhằm đem lại ấm no, hạnh phúc cho người dân như đã được nhắc đến trong tuyên ngôn độc lập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

Phương thức phát triển kinh tế để đạt được mục đích trên chưa được đình hình và quy định rõ. Các hình thức sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất tồn tại, nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động của nền kinh tế lúc bấy giờ. Trong đó, các nhà tư sản và người lao động riêng lẻ được phép hoạt động mãi cho đến giai đoạn về sau khi có Hiến pháp 1959 và Hiến pháp 1980. Trong chế độ kinh tế của Hiến pháp 1959 và Hiếp pháp 1980 có xác định nhiệm vụ phải cải tạo những thành phần kinh tế này.

<b>3. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1959</b>

Mục đích của phát triển kinh tế là khơng ngừng phát triển sức sản xuất nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân. Để đạt được mục đích đó, Hiến pháp 1959 xác định phương hướng phát triển kinh tế là tiến dần từ chế độ dân chủ nhân dân lên CNXH bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo CNXH, biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế XHCN với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học kỹ thuật tiên tiến. Về các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất, Hiến pháp 1959 ghi nhận các hình thức sở hữu của nhà nước; sở hữu tập thể của nhân dân lao động; sở hữu của người lao động riêng lẻ; và sở hữu của nhà tư sản dân tộc.

Trên cơ sở ghi nhận các hình thức sở hữu khác nhau đối với tư liệu sản xuất nêu trên, các thành phần kinh tế chủ yếu được xác định là: thành phần kinh tế quốc doanh và thành phần kinh tế hợp tác xã. Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò lãnh đạo trong nền kinh tế quốc dân và được nhà nước bảo đảm phát triển ưu tiên.

Ngồi hai thành phần cơ bản nói trên, cịn có những người lao động riêng lẻ và các nhà tư sản dân tộc cũng tham gia hoạt động kinh tế.

Về phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, Hiến pháp 1959 xác định nhà nước sử dụng phương pháp kế hoạch hóa tập trung bao cấp.

<b>4. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1980</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Về mục đích và phương hướng phát triển kinh tế, Hiến pháp 1980 xác định mục đích phát triển kinh tế là thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và văn hoá ngày càng tăng của cả xã hội. Về các hình thức sở hữu đối với tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế, Hiến pháp 1980 xác định chế độ làm chủ tập thể đối với tư liệu sản xuất, nhà nước tiến hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu XHCN về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và được phát triển ưu tiên.

Phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế, Hiến pháp 1980 xác định nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân theo kế hoạch thống nhất, nhà nước giữ độc quyền về ngoại thương và mọi quan hệ kinh tế khác đối với nước ngoài

<b>5. Chế độ kinh tế theo Hiến pháp 1992 </b>

Mục đích phát triển kinh tế là làm cho dân giàu, nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của nhân dân. Phương hướng phát triển kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa.

Hiến pháp 1992 xác định chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Các thành phần kinh tế được ghi nhận gồm có: thành phần kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển, nhất là trong những ngành, lĩnh vực then chốt, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Cơ sở kinh tế quốc doanh được quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, bảo đảm sản xuất kinh doanh có hiệu quả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Phương pháp quản lý của nhà nước về kinh tế được Hiến pháp 1992 xác định là nhà nước quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách

<b>6.TChế độ kinh tế theo Hiến pháp 2013</b>

Hiến pháp 2013 xác định nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và khơng bị quốc hữu hóa.

Hiến pháp 2013 xác định phương pháp quản lý của Nhà nước đối với nền kinh tế là: Nhà nước xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật thị trường; thực hiện phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước; thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân.

<b>7. Chế độ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội</b>

Trong nền kinh tế quá độ của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay do trình độ phát triển chưa cao, chưa đồng đều của lực lượng sản xuất mà còn tồn tại khách quan cảchế độ sở hữu tư nhân(chế độ tư hữu) với nhiều hình thức sở hữu như: hình thức sở hữu tư nhân của cá thể, của hộ gia đình, của tiểu chủ, của nhà tư bản (sở hữu tư nhân tư bản), của tập đoàn tư bản… và cảchế độ sở hữu xã hội(chế độ cơng hữu) với các hình thức sở hữu như: sở hữu toàn dân, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể…, đồng thời cịn có hình thức sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu đan xen các hình thức sở hữu trong cùng một đơn vị kinh tế. Đó là cơ sở tồn tại của nhiều thành phần kinh tế.

Nền kinh tế quá độ trong thời kỳ quá độ ở nước ta được phân thành ba thành phần: kinh tế công, kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn hợp:

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Thành phần kinh tế công bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, giữ vị trí, vai trị then chốt trong nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là Nhà nước (được Nhân dân ủy quyền). Nhà nước thông qua Ủy ban quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp đầu tư vốn (cả vốn bằng hiện vật và vốn bằng tiền) cho các doanh nghiệp nhà nướcthông qua hợp đồng tín dụng. Ban Lãnh đạo Doanh nghiệp Nhà nước được giao quyền quản lý, sử dụng vốn một cách hiệu quả theo cơ chế thị trường.

Các Doanh nghiệp Nhà nước tập trung phát triển trong những ngành và lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Các Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động theo cơ chế thị trường, lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu, tự chủ, tự chịu trách nhiệm và cạnh tranh bình đẳng với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác theo quy định của pháp luật.

Bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của Doanh nghiệp Nhà nước. Nhà nước không can thiệp vào hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước, mà Nhà nước thông qua những hợp đồng kinh tế để đặt hàng cho Doanh nghiệp Nhà nước sản xuất những hàng hóa có vai trị quan trọng đến quốc kế dân sinh, kể cả những hàng qn sự, quốc phịng. Nhà nước chỉ đóng vai trị là “nhạc trưởng”, “bà đỡ”, quản lý vĩ mơ nền kinh tế, chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, kể cả Doanh nghiệp Nhà nước. Doanh nghiệp Nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất – kinh doanh của mình… Cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của Doanh nghiệp Nhà nước trên nền tảng công nghệ hiện đại, năng lực đổi mới sáng tạo, quản trị doanh nghiệp theo chuẩn mực tiên tiến của quốc tế, thực sự hoạt động theo cơ chế thị trường, nhằm huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, bảo toàn, phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp…

Thành phần kinh tế tư nhânlà một động lực quan trọng của nền kinh tế. Chủ thể của thành phần kinh tế này là các chủ sở hữu tư nhân như: các hộ kinh doanh cá thể, các hộ tiểu chủ, các chủ tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

nhân, các nhà tư bản, các tập đồn tư bản… với các loại hình kinh doanh tương ứng như hộ sản xuất, kinh doanh cá thể (hộ nông dân, hộ tiểu – thủ công nghiệp, hộ kinh doanh dịch vụ…), chủ trang trại, hộ tiểu chủ, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân tư bản (tư bản trong nước và tư bản ngoài nước), tập đồn tư bản. “Hồn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế…”. Hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Thúc đẩy hình thành, phát triển các tập đoàn kinh tế tư nhân mạnh, có cơng nghệ hiện đại, năng lực quản trị tiên tiến của thế giới.

Thành phần kinh tế hỗn hợp(một phần trong đó là chủ nghĩa tư bản nhà nước theo cách gọi của V.I.Lênin) bao gồm các công ty, các doanh nghiệp, các hợp tác xã, các tổ chức kinh tế được hình thành trên cơ sở liên kết các chủ sở hữu khác nhau với nhau: giữa chủ thể kinh tế công và chủ thể kinh tế tư nhân trong nước; giữa chủ thể kinh tế cơng và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngồi; giữa các chủ thể kinh tế tư nhân trong nước với nhau; giữa chủ thể kinh tế tư nhân trong nước và chủ thể kinh tế tư nhân nước ngoài… để thúc đẩy phát triển mọi hình thức liên kết sản xuất kinh doanh, cung cấp hàng hóa, dịch vụ theo mạng sản xuất và chuỗi giá trị thị trường nhằm tiếp nhận, chuyển giao, tạo sự lan tỏa về công nghệ tiên tiến và quản trị hiện đại, nâng cao giá trị gia tăng và mở rộng thị trường tiêu thụ.

Loại hình tổ chức sản xuất – kinh doanh thường là công ty liên doanh, công ty hợp doanh, công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai chủ sở hữu trở lên, các loại hình hợp tác xã… Khuyến khích hình thành các tập đồn kinh tế đa sở hữu có đủ khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực, tồn cầu. Điểm chung của các loại hình tổ chức sản xuất – kinh doanh này là đối tượng sở hữu gồm tài sản hữu hình và vơ hình của các tổ chức sản xuất – kinh doanh được hình thành từ sự đóng góp của các chủ sở hữu riêng theo nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Mỗi chủ sở hữu được hưởng lợi ích khi cơng ty, doanh nghiệp hỗn hợp này hoạt động có hiệu quả hoặc chịu trách nhiệm khi bị thua lỗ tương ứng với tỷ lệ tài sản đóng góp. Ngồi tài sản đóng góp từ

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

các chủ sở hữu, cịn có các tài sản từ các nguồn khác (được hỗ trợ, tài trợ, được cho, tặng, hoặc từ kết quả sản xuất – kinh doanh tích lũy lại…) thuộc sở hữu chung của các thành viên trong tổ chức kinh tế này. Các tổ chức sản xuất – kinh doanh hỗn hợp thuộc loại này có điều lệ hoạt động và bầu ra Ban Lãnh đạo theo nguyên tắc nhất định do Điều lệ công ty, doanh nghiệp, hợp tác xã quy định, để thay mặt các chủ sở hữu quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả tài sản chung của tổ chức sản xuất – kinh doanh, mang lại lợi ích cho các chủ thể và đóng góp vào lợi ích chung.

Có quy chế chặt chẽ ràng buộc trách nhiệm của những người trong Ban Lãnh đạo được ủy quyền quản lý sản xuất – kinh doanh với kết quả, hiệu quả hoạt động của tổ chức sản xuất – kinh doanh. Loại hình tổ chức sản xuất – kinh doanh hỗn hợp rất đa dạng, từ các tập đoàn đa quốc gia, xuyên quốc gia đến các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, có quy mơ nhỏ.

<b>8. Quy định trong Hiến pháp 2013 về kinh tế trong quá trình đổi mới toàn diện, hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển bền vững</b>

Về phát triển kinh tế, Hiến pháp sửa đổi tiếp tục khẳng định đường lối, nhiệm vụ xây dựng nền kinh tế nước ta là nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát huy nội lực, hội nhập, hợp tác quốc tế, thực hiện CNH, HÐH đất nước. Vấn đề hội nhập kinh tế cũng đặt trong bối cảnh mới, đó là chủ động và tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng trên các lĩnh vực vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Ðồng thời, Hiến pháp sửa đổi đã hiến định mục tiêu phát triển bền vững, trong đó thể hiện rõ quan điểm là phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội, bảo vệ mơi trường (Ðiều 50).

Về tính chất, mơ hình, các thành phần của nền kinh tế Việt Nam, Hiến pháp sửa đổi xác định nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Các thành phần kinh tế đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật. Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước (Ðiều 51). Khác với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp sửa đổi thể hiện tư duy mới về các thành phần kinh tế, quy định rất khái quát, không đề cập từng thành phần mà để luật và các văn bản khác quy định cụ thể. Cách thể hiện này phù hợp với tính chất của đạo luật cơ bản, bảo đảm tính ổn định lâu dài của Hiến pháp, đồng thời phù hợp với sự vận động, phát triển của nền kinh tế thị trường. Tinh thần của Hiến pháp là không đồng nhất kinh tế nhà nước (trong đó có ngân sách nhà nước và các nguồn lực kinh tế - tài chính khác của Nhà nước) với doanh nghiệp nhà nước, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo chứ không phải doanh nghiệp nhà nước là chủ đạo. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế khác được đối xử bình đẳng với doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp ngoài nhà nước cùng hoạt động trong một hành lang pháp lý chung và theo cơ chế thị trường, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật.

Cũng lần đầu tiên, vị trí, vai trị của doanh nhân, doanh nghiệp được ghi nhận trong Hiến pháp. Ðây là cơ sở để phát huy vai trò của doanh nhân, doanh nghiệp đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà nhiệm vụ xây dựng kinh tế là trung tâm và doanh nghiệp, doanh nhân là đội quân xung kích.

Theo quy định của Hiến pháp sửa đổi, Nhà nước trong nền kinh tế thị trường ở nước ta có vai trị xây dựng và hồn thiện thể chế

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị trường; thực hiện sự phân công, phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước, thúc đẩy liên kết kinh tế vùng, bảo đảm tính thống nhất của nền kinh tế quốc dân (Ðiều 52). Nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tư, sản xuất, kinh doanh và phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất nước (Ðiều 51). Nhà nước cịn có chức năng đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý đối với các loại tài nguyên thiên thiên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân để các loại tài nguyên, tài sản này được sử dụng vì lợi ích của nhân dân (Ðiều 53).

Liên quan đến vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế, tại các chương về bộ máy nhà nước, Hiến pháp sửa đổi đã có những quy định nhiệm vụ, quyền hạn tương ứng của Quốc hội, Chính phủ, chính quyền địa phương, Kiểm toán Nhà nước, như: Ðiều 70, Chương V quy định Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; Ðiều 96, Chương VII quy định Chính phủ thống nhất quản lý về kinh tế - xã hội,...

Về chế độ sở hữu, Hiến pháp sửa đổi ghi nhận, tơn trọng đa hình thức sở hữu, bảo hộ quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác (Ðiều 32) và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ (Ðiều 62). Tài sản hợp pháp của cá nhân, tổ chức đầu tư, sản xuất, kinh doanh được pháp luật bảo hộ và không bị quốc hữu hóa (Ðiều 51). Ðây là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế ở mỗi quốc gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Về tài sản thuộc sở hữu toàn dân, kế thừa quy định về sở hữu toàn dân của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, trên cơ sở tiếp cận mới, đúng đắn và chính xác hơn về phạm vi, đối tượng các loại tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu toàn dân, Hiến pháp sửa đổi quy định đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản, nguồn lợi ở vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý.

Ðất đai là lãnh thổ thiêng liêng, là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, nguồn lực quan trọng phát triển đất nước thuộc sở hữu toàn dân, nhưng Hiến pháp sửa đổi đã quy định Nhà nước bảo đảm cho tổ chức, cá nhân được giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất. Quyền sử dụng đất được pháp luật bảo hộ. Theo đó, Nhà nước chỉ thu hồi đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phịng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, cơng cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật; Nhà nước trưng dụng đất trong trường hợp thật cần thiết do luật định để thực hiện nhiệm vụ quốc phịng, an ninh hoặc trong tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, phòng, chống thiên tai (Ðiều 54).

Về tài chính - tiền tệ, Hiến pháp sửa đổi bổ sung một điều mới quy định về ngân sách nhà nước, dự trữ quốc gia, quỹ tài chính nhà nước và các nguồn tài chính cơng khác do Nhà nước thống nhất quản lý và phải được sử dụng hiệu quả, công bằng, công khai, minh bạch, đúng pháp luật. Ngân sách nhà nước gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách trung ương giữ vai trò chủ đạo, bảo đảm nhiệm vụ chi của quốc gia. Các khoản thu, chi ngân sách nhà nước phải được dự toán và do luật

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

định. Lần đầu tiên, đơn vị tiền tệ quốc gia được hiến định là đồng Việt Nam, đồng thời quy định trách nhiệm của Nhà nước là bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền quốc gia.

Liên quan đến tài chính - tiền tệ, tại Chương V Hiến pháp sửa đổi quy định Quốc hội quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an tồn nợ quốc gia, nợ cơng, nợ Chính phủ; quyết định dự tốn ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước (Ðiều 55).

<b>II. TÍNH CHẤT, MƠ HÌNH NỀN KINH TẾ VIỆT NAM TRONG HIẾN PHÁP NĂM 2013 SO VỚI CÁC BẢN HIẾN PHÁP TRƯỚC ĐĨ</b>

<b>1.Tính chất</b>

So với các bản Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã tạo cơ sở vững chắc cho cơng cuộc đổi mới tồn diện đất nước trong thời kỳ mới. Đây là bản Hiến pháp vừa kế thừa được những giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992; vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng phát triển đất nước đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 bổ sung, phát triển năm 2011 (Cương lĩnh 1991). Trong Hiến pháp năm 2013, một trong những nội dung quan trọng là nội dung quy định tại Chương III về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, cơng nghệ và mơi trường. Nội dung Chương này đã thể chế hóa chủ trương phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nước ta hiện nay.

<b>2. Mơ hình kinh tế </b>

Chế độ kinh tế là sự tập trung nhất của chính trị, khơng có một chế độ kinh tế nào lại không mang nội dung chính trị, chính trong kinh tế phản ánh rõ nét nhất các quan hệ chính trị. Theo đó, đối với mỗi bản Hiến pháp của nhà nước ta đều đặc biệt coi trọng chế độ kinh tế. Sự thể hiện chế độ kinh tế trong Hiến pháp là sự thể chế

</div>

×