Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

LỒNG GHÉP KIẾN THỨC VỀ VĂN HÓA VÀ GIAO VĂN HÓA TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NHẬT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.05 KB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRONG GIẢNG DẠY TIẾNG VIỆT CHO NGƯỜI NHẬT</b>

<b>ThS. Nguyễn Thị Hồng Hoa*, ThS. Lê Thị Ngọc Uyên**<small>1</small></b>

<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ</b>

Gần đây, nhờ quá trình hội nhập, giao lưu trao đổi về kinh tế, văn hóa, giáo dục nên số lượng học viên người nước ngoài học tiếng Việt nói chung và người Nhật học tiếng Việt nói riêng tại các trường đại học ngoại ngữ và các trung tâm đào tạo tiếng Việt cho người nước ngoài ở Việt Nam cũng tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, trong quá trình giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ thì giáo viên khơng chỉ chú trọng vào các nội dung liên quan giữa ngơn ngữ nguồn và ngơn ngữ đích (liên quan đến ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) mà cần chú trọng đến mối liên hệ về văn hóa và giao văn hóa trong các bài thực hành tiếng Việt. Lý do là bởi sự khác biệt giữa nền văn hoá riêng của người học/văn hoá nguồn (home culture) và nền văn hố mà trong đó ngơn ngữ đích đang hoạt động/văn hố đích (target culture) có thể gây mâu thuẫn và hiểu lầm khi giao tiếp. Điều đó có thể được lý giải là khi giao tiếp bằng ngơn ngữ thì những giá trị văn hóa của từng dân tộc được người nói sử dụng một cách vô thức trong giao tiếp liên văn hóa.

Thực tế cho thấy, điều khó khăn đối với người học ngoại ngữ không chỉ là do khác biệt về ngôn ngữ, mà là khác biệt văn hoá. Cụ thể là đối với việc thiết kế những bài học cho học viên người Nhật thì giáo viên cần chú trọng những kiến thức về văn hóa Nhật Bản và giao văn hóa Nhật - Việt vào nội dung bài học như: văn hóa chào hỏi, văn hóa cảm ơn và xin lỗi, văn hóa khi đi nhà hàng, mua sắm… Qua những tình huống cụ thể đó giáo viên có thể thiết kế những mẫu câu luyện và các hội thoại phù hợp với văn hóa của người học.

Như vậy, cốt lõi vấn đề ở đây là cần rèn luyện cho người học có được năng lực giao tiếp, nghĩa là có khả năng đạt được mục đích giao tiếp nhất định bằng phương tiện ngôn ngữ hay phi ngơn ngữ. Những phương tiện phi ngơn ngữ đó chính là những bối cảnh văn hóa mà người học sử dụng trong giao tiếp. Người học phải biết cách <small>*,** Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

thích hợp để xưng hơ, tỏ lịng biết ơn, đưa ra yêu cầu, bày tỏ thái độ…; nghĩa là phải biết kết hợp ngôn ngữ với các hành vi phù hợp với văn hoá. Bài viết thảo luận về cách tiếp cận và mục tiêu chuyển tải văn hoá trong dạy tiếng nhằm nâng cao năng lực giao tiếp liên văn hoá cho người học. Bài viết cũng tập trung vào việc trình bày một số cách thức và nội dung chuyển tải văn hoá trong giảng dạy tiếng Việt cho học viên nước ngoài và cụ thể với đối tượng là học viên Nhật Bản nhằm giúp cho học viên có thể diễn đạt kiến thức văn hoá - xã hội này vào trong tiếng Việt một cách tự nhiên và hiệu quả hơn.

<b>2. CƠ SỞ LÝ LUẬN</b>

<b>2.1. Mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ và ngoại ngữ</b>

Theo quan điểm khoa học thì văn hóa là tổng hịa các giá trị vật chất và tinh thần do xã hội sáng tạo ra. Văn hóa là hạ tầng cơ sở và cũng là thượng tầng kiến trúc của một dân tộc. Theo tác giả Trịnh Kim Ngọc từ góc độ nghiên cứu về con người nói chung đã cho rằng: “Khơng thể nghiên cứu con người và văn hóa nếu bỏ qua ngôn ngữ của họ” (Trịnh Thị Kim Ngọc, 2002, tr. 42 - 50).

Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa là mối quan hệ biện chứng qua lại rất chặt chẽ. Ngơn ngữ có nhiệm vụ biểu đạt nền văn hóa đặc trưng của dân tộc. Một sự biến đổi bất kỳ của văn hóa cũng dẫn đến sự xuất hiện trong ngơn ngữ những từ hay những thuật ngữ mới. Ngược lại, trong ngơn ngữ có nhiều thành tố văn hóa. Văn hóa ngày càng phát triển, địi hỏi ngơn ngữ cần có sự biểu đạt rất sinh động và cụ thể. Trong ngơn ngữ có rất nhiều từ mang đậm bản sắc dân tộc. Sự xuất hiện đó thấy rõ nhất ở phương diện từ vựng. Ví dụ trong tiếng Nhật có các từ như: 桜(sakura - hoa anh đào; 相撲(sumo - võ sĩ đấu vật; 寿司(sushi - cơm cuộn… và cũng có một số từ mà đối với người bản ngữ, những từ ấy không chỉ truyền đạt ý nghĩa đơn thuần mà còn mang sắc thái tượng trưng và biểu cảm. Ví dụ: từ 侍(samurai - võ sĩ đạo) trong tiếng Nhật và từ “cây tre” trong tiếng Việt là những từ tượng trưng cho tính cách của mỗi dân tộc.

Nhằm mục đích giảng dạy ngoại ngữ, có thể phân định văn hoá thành hai loại: Loại thứ nhất được gọi là văn hố tiên tiến/cao cấp (high culture), có liên quan thành tựu về văn học, nghệ thuật, giáo dục, triết học... và được xem như tinh hoa của dân tộc. Loại thứ hai gọi là văn hoá đại chúng/bình dân (popular culture), liên quan đến cuộc sống hàng ngày bao gồm lối sống, kiểu mẫu ứng xử, tín ngưỡng, tập quán... Loại này được nhiều người xem như là nội dung văn hoá cơ bản trong giảng dạy ngoại ngữ. Về mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hố, Humboldt đã viết: “Những đặc điểm tinh thần và cấu trúc ngôn ngữ của một người hồ quyện nhau rất mật thiết... Ngơn ngữ là biểu hiện bên ngoài của tinh thần dân tộc: ngôn ngữ là linh hồn dân tộc, và linh hồn của họ

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

cũng chính là ngơn ngữ của họ, khó mà tưởng tượng có bất kỳ hai cái nào giống hệt nhau như là tinh thần và ngơn ngữ” (Humboldt, 1907).

Có thể nói mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa là phạm trù triết học giữa hình thức (ngơn ngữ) và nội dung (văn hóa). Điều đó có thể hiểu được rằng: Muốn nắm vững một ngôn ngữ (thông hiểu và sử dụng chính xác ngơn ngữ của dân tộc khác) thì đồng thời phải nắm vững những nội hàm văn hóa mà ngơn ngữ ấy biểu đạt. Chính vì vậy ranh giới giữa ngơn ngữ và văn hóa rất khó nhận diện và được chú ý kỹ càng từ cả hai phía là giáo viên và học viên. Đây cũng chính là một trong những trở ngại cho việc giảng dạy song hành văn hóa và ngơn ngữ.

Đối với học viên người nước ngồi học tiếng Việt thì sự khác biệt về óc thẩm mĩ, cách tư duy, đặc trưng tâm lí và tập quán của từng dân tộc, cách giải thích và diễn đạt cùng một sự vật cũng sẽ khác nhau. Một người đã nắm được những kiến thức ngôn ngữ mà khơng giải thích thỏa đáng được ngoại ngữ là vì họ khơng có đủ kiến thức về bối cảnh ngơn ngữ đó. Theo Giáo sư Bùi Khánh Thế, việc dạy tiếng Việt cho người nước ngồi cần phải chú ý đến phương diện văn hóa - ngôn ngữ của tiếng Việt cũng như tiếng mẹ đẻ của học viên, việc dạy tiếng Việt cần được quan niệm như dạy một ngôn ngữ thứ hai cho học viên (Bùi Khánh Thế, 2003, tr. 43 - 48).

<b>2.2. Các mục tiêu và cách tiếp cận để tích hợp văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ</b>

<i><b>2.2.1. Mục tiêu của giảng dạy văn hoá </b></i>

Thông qua các mối quan hệ biện chứng qua lại giữa ngơn ngữ và văn hóa trong dạy và học ngoại ngữ nói chung và dạy tiếng Việt cho người nước ngồi như một ngoại ngữ nói riêng thì có thể thấy những mục đích và mục tiêu của việc giảng dạy văn hóa như sau:

Về mục đích: Học để hiểu một nền văn hóa mới; Nắm ngôn ngữ để giao tiếp giữa những nền văn hóa khác nhau, có nghĩa là nắm kĩ năng giao tiếp với người bản ngữ của một nền văn hóa khác.

Về mục tiêu: Chủ yếu là giúp học viên gia tăng nhận thức và phát triển sự tò mò

<i><b>học tập đối với nền văn hố đích và nguồn, giúp học viên so sánh giữa các nền văn hoá </b></i>

bằng cách so sánh các nền văn hoá khác nhau, học viên hiểu biết sâu hơn về văn hoá đích, nâng cao năng lực giao tiếp và có được sự “nhạy cảm” về đa dạng văn hoá: “Sự đa dạng này sau đó phải được hiểu và tơn trọng, và không bao giờ... đánh giá quá cao hoặc quá thấp nó” (Dẫn theo Tavares R. & Cavalcanti I., 1996). Theo Tomalin (1993) có các mục tiêu trong giảng dạy văn hoá như sau:

- Giúp học viên thông hiểu các yếu tố xã hội như tuổi tác, giới tính, tầng lớp xã hội, nơi cư trú ảnh hưởng đến cách thức nói năng và ứng xử;

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

- Giúp học viên ý thức hơn về khn mẫu hành vi ở các tình huống phổ biến trong văn hố đích;

- Giúp học viên nâng cao nhận thức về ý nghĩa văn hoá của các từ/cụm từ trong ngơn ngữ đích;

- Giúp phát triển khả năng để xác định và đánh giá thơng tin về văn hố đích; - Kích thích sự tị mị học hỏi và khuyến khích sự đồng cảm của học viên đối với văn hố đích.

<i><b>2.2.2. Cách tiếp cận tích hợp văn hố trong dạy tiếng Việt, có ba cách sau</b></i>

<b>Giảng dạy văn hố một cách tường minh: trang bị cho học viên cơ sở phát triển </b>

kiến thức văn hố đích. Nhược điểm của nó là nội dung văn hố đích chỉ biểu hiện ở mức độ tương đối, cách tích hợp cũng như cách dạy văn hố như thế nào thì vẫn chưa được giải quyết thỏa đáng; Ví dụ như người Nhật sẽ không thể nào hiểu việc sắp xếp các cuộc hẹn trước ngày hẹn chỉ 2, 3 ngày hoặc thậm chí chỉ trước một ngày hay vài giờ trong khi đối với họ việc sắp xếp một cuộc hẹn thì cần thời gian ít nhất là trước 2 tuần hoặc xa hơn là 1 tháng. Trong khi giảng dạy những nội dung này, giáo viên cần nhiều kinh nghiệm về vốn sống cũng như hiểu biết về văn hóa nguồn của người học.

<b>Giảng dạy văn hố theo phương pháp giao tiếp: Thơng qua phương pháp này, </b>

giáo viên có thể dạy văn hố cho học viên theo phương châm “học đi đôi với hành”. Qua việc nhấn mạnh vào chức năng giao tiếp, văn hố được tích hợp một cách tự nhiên với ngôn ngữ, không gắn kết một cách “giả tạo” như cách thức giảng dạy tường minh trên. Thông qua thực hành, giáo viên lồng ghép nội dung văn hoá vào việc sử dụng ngôn ngữ, giúp người học tiếp thu kiến thức văn hoá bằng trải nghiệm sử dụng ngơn ngữ của chính mình.

<b>Giảng dạy văn hoá theo phương pháp giao tiếp liên văn hoá: Phương pháp </b>

này vận dụng ưu điểm của hai phương pháp nêu trên. Học viên không chỉ học hỏi các kiến thức về ngơn ngữ đích, mà cịn phải quan tâm đến việc phát triển nhận thức và thẩm năng văn hoá ở các nền văn hoá khác nhau. Quá trình phát triển của học viên liên tục và năng động, từ chưa biết đến biết, từ kinh nghiệm hiện có đến kiến thức mới; đồng thời tương tác giao tiếp gồm nhiều học viên ở các nền văn hoá khác nhau.

Phương pháp thứ 2 và 3 được khuyến khích ưu tiên vì hai phương pháp này không chỉ giúp học viên nắm vững được từng tình huống cụ thể liên quan đến văn hóa nguồn và văn hóa đích mà cịn vận dụng nó một cách linh hoạt trong q trình rèn luyện các kĩ năng ngơn ngữ của mình.

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU</b>

Bài nghiên cứu được tiến hành dựa vào phương pháp phân tích và mơ tả kết hợp với phương pháp so sánh và phương pháp định tính dựa trên những tổng hợp từ những ví dụ thực tiễn trong giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ cho học viên người Nhật.

<b>4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU </b>

Bài nghiên cứu tiếp nối những nền tảng và cơ sở lý luận của những nghiên cứu của các tác giả đi trước. Thông qua các mục đích và mục tiêu cụ thể của việc lồng ghép văn hóa vào giảng dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ, chúng tôi đưa ra những đề xuất cụ thể trong việc lồng ghép văn hóa vào việc giảng dạy tiếng Việt cho người Nhật vào từng bình diện văn hóa cụ thể như: cách xưng hơ, chào hỏi, thể hiện lịng biết ơn và sự quan tâm. Qua các bình diện này, bài viết cũng đưa ra các ví dụ và các tình huống giao tiếp cụ thể giữa học viên và giáo viên có thể xử lý các tình huống liên văn hóa trong nội dung bài giảng của mình.

<b>4.1. Lồng ghép nội dung văn hóa và giao văn hóa Nhật - Việt trong giảng dạy tiếng Việt cho người Nhật thơng qua các bình diện văn hóa tiêu biểu</b>

Trong q trình dạy tiếng Việt như một ngoại ngữ nói chung và với học viên người Nhật nói riêng thì có rất nhiều cách truyền thụ văn hóa, nhiệm vụ đầu tiên quan trọng của người giáo viên là vận dụng nhiều cách khác nhau để truyền thụ kiến thức văn hóa, nâng cao sự nhạy cảm đối với văn hóa của học viên, bồi dưỡng ý thức văn hóa khiến cho học viên có thể chủ động tự giác lĩnh hội và hội nhập vào môi trường văn hóa mới. Nổi bật lên đó là phương pháp so sánh, nội dung chính của phương pháp này là giáo viên cần lồng ghép những kiến thức văn hóa và giao văn hóa vào trong các hoạt động giảng dạy thơng qua các bình diện văn hóa gần gũi với các tình huống giao tiếp thông thường như: cách xưng hô, chào hỏi; thể hiện sự quan tâm. Nội dung chi tiết các bình diện văn hóa đó sẽ được nêu dưới đây.

<b>4.2. Cách sử dụng từ xưng hơ</b>

Tiếng Việt có nhiều từ phân biệt mối quan hệ họ hàng hơn người Nhật: ơng nội/ ơng ngoại, bà nội/bà ngoại, bác/chú/cậu/dượng và cơ/dì/thím/mợ... Tuổi tác rất quan trọng trong việc chọn từ xưng hơ. Do vậy người Việt có thể hỏi tuổi người mới quen để xưng hô cho “phải phép”. Cách xưng hô trong tiếng Việt là một trong những khó khăn đối với học viên người Nhật bởi vì họ chỉ có những đại từ nhân xưng trung tính như: 私=わたし=watashi: “Tơi” - dùng trong hồn cảnh thông thường hoặc lịch sự,

<b>trang trọng; あなた=anata: “Anh, chị, em, bạn”: Đây là cách gọi lịch sự người mà </b>

mình khơng thân thiết lắm hoặc là cách gọi thân mật của vợ với chồng. Ngồi ra cịn

<b>một số đại từ như: 君=きみ=kimi: “Em” (gần gũi, thân mật - dùng cho giới nữ), 僕</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

=ぼく=<b>boku: “Tôi” (gần gũi, thân mật - dùng cho nam). Một ví dụ lưu ý về văn hóa </b>

ở bình diện này đó là khi đi mua sắm có thể người bán hàng là một phụ nữ hay một người đàn ông trung tuổi trở lên thì người Nhật sẽ rất lúng túng lựa chọn đại từ nhân xưng phù hợp như: cơ, dì, bác hay là chú, bác, ơng. Khi đó giáo viên chỉ định hướng cho học viên có thể dùng hai đại từ nhân xưng trung tính đại diện cho hai giới là: “cơ” và “chú” hoặc trung tính hơn có thể xưng là “ơng” và “bà” là có thể chấp nhận được.

Vd: Hội thoại mẫu:

Bà bán hàng: Anh mua cam đi! Cam ngọt lắm

Tanaka: Bà có bưởi khơng? Bà bán hàng: Hết rồi anh ạ

Tanaka: Tiếc quá nhỉ! Bạn tơi thích ăn bưởi. Tơi muốn mua cho chị ấy

Ở bình diện này trong tiếng Việt sẽ là những mẫu câu chào hỏi trực tiếp và gián tiếp như: Chào + Đại từ nhân xưng + Tên [Thêm những từ ngữ chỉ sự kính trọng như: xin, kính, ạ] hoặc những kiểu “hỏi” để mà chào theo kiểu chào hỏi gián tiếp như: “Anh đi đâu đấy? Anh làm gì ở đây vậy?

Ngồi ra khi gặp người quen thì người Việt thường đưa ra câu hỏi: Chị đi đâu vậy?; Em đi học hả?; Chà, lâu quá không gặp! Mới đi đâu về đấy?... Đối với người Việt, các phát ngơn trên là lời chào rất đỗi bình thường. Tuy vậy, nhiều người nước ngoài thấy bối rối và khó xử trước kiểu “chào hỏi” như vậy. Giáo viên cần giải thích và cho học viên biết nên trả lời thế nào trong tình huống này.

Có thể tham khảo thêm một tình huống như sau:

Tình huống: Sandy mới đến Việt Nam để thực tập tiếng Việt. Cơ ấy nói chuyện với một người bạn Việt Nam.

Sandy: Chắc tôi phải về nước sớm thôi. Tôi không thể… Mai: Sao vậy? Chị định ở đây 6 tháng mà.

Sandy: Chỗ tôi ở trọ không tốt. Bà chủ nhà trọ q tị mị. Ơng chủ nhà trọ cũng vậy. Họ luôn luôn hỏi tôi: “Cô đi đâu vậy?”

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

Mai: Ồ, cái đó khơng phải là tị mị đâu!

Sandy: Cịn đi ra đường, tơi thường bị hỏi: “Bao nhiêu tuổi? Có gia đình chưa?”. Tơi ln ln tự hỏi tại sao người ta tị mị q vậy.

Mai: Ồ, khơng phải như chị nghĩ đâu.

Sandy: Ở nước tôi, người ta không hỏi tuổi phụ nữ hay hỏi về chuyện gia đình một cách tọc mạch như vậy. Người ta cũng ít khi hỏi “Đi đâu đấy?”

Mai: Ở Việt Nam, câu hỏi “Đi đâu đấy?” thường được dùng thay cho lời chào khi gặp nhau, chứ khơng phải tị mị đâu.

Sandy: Thú thật, tơi thấy khó quen được với cách chào hỏi kiểu như vậy. Chính vì thế mà tôi định về nước sớm.

Mai: Cố gắng thêm một, hai lần nữa, chị sẽ quen ngay thôi mà. Sandy: Tôi cũng mong như vậy. Thôi, chúng ta đi ăn tối đi.

Mai: Được, nhưng hôm nay chúng ta sẽ trả tiền theo “kiểu Việt Nam”. Tôi sẽ đãi chị bữa ăn tối nay. Đồng ý không? (Tiếng Việt 4, bài 9, tr. 93).

Đối với học viên người Nhật thì họ cũng rất “lúng túng” trong những tình huống như vậy. Các hình thức chào hỏi trong tiếng Nhật tập trung vào thời gian của buổi gặp mặt và các nghi thức cúi chào và đưa danh thiếp. Ví dụ như: おはようござい ます;こんにちは;こんばんは(chào buổi sáng, chào vào giữa buổi, chào buổi tối). Vì vậy, bao giờ khi mới bắt đầu học tiếng Việt họ hay mắc lỗi như: “Chào anh buổi sáng”… Ngoài ra họ cũng không quen khi được hỏi những câu mang tính riêng tư như: “Bạn đi đâu đấy, bạn làm gì đấy? Bạn bao nhiêu tuổi rồi? Chính vì thế khi dạy các đoạn hội thoại về chào hỏi thì giáo viên nên giải thích rõ về vấn đề này.

Ví dụ: Hội thoại mẫu:

<small>Hà: Chủ nhật vừa rồi, anh làm gì?Hùng: Tơi đi chơi với các bạn Nhật</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>4.4. Thể hiện sự quan tâm</b>

Khi gặp người nước ngồi, người Việt có thể đặt câu hỏi Em đã có gia đình chưa? Em đi làm có xa khơng, có vất vả khơng?... Trước những câu hỏi như vậy, người nước ngoài sẽ cảm thấy khó chịu, thậm chí bị sốc vì những câu hỏi trên có vẻ “săm soi” vào “đời tư” của mình. Với tình huống này, giáo viên cần giải thích cho học viên hiểu rằng các câu hỏi trên chỉ là lời hỏi thăm, hành vi ngôn ngữ gián tiếp là bày tỏ sự quan tâm chứ khơng muốn biết thơng tin về người đối thoại.

Tình huống: Lan hỏi Chi về hồn cảnh gia đình người yêu của Chi [ …] Lan: À, chị hiểu rồi. Thế, gia đình anh ấy có mấy người?

Chi: 10 người. Bố mẹ anh ấy sinh 8 người con, 2 trai, 6 gái. Anh ấy là con cả trong gia đình. Em út anh ấy năm nay mới 6 tuổi.

Lan: Quê anh ấy ở xa quá! Gia đình anh ấy đông quá! Em không sợ à? Chi: Không. Tại sao phải sợ, hả chị? (tiếng Việt 1, bài 12, tr. 159).

Các phát ngôn trong hội thoại có từ vựng và cấu trúc đơn giản. Tuy nhiên, nếu không biết được là ở Việt Nam, khi cha mẹ đã già, người con cả thường thay mặt cha mẹ chăm sóc các em thì học viên sẽ không hiểu lý do tại sao Chi phải sợ.

Hoặc xét mẩu hội thoại dưới đây dạy cho học viên người Nhật: Lân: Từ tuần sau, chúng mình được

nghỉ hè rồi, thích nhỉ?

Ca: Ừ, mấy hơm nay trời nóng bức, khó chịu quá, tớ chỉ muốn nghỉ học thơi.

Lân: Cậu đã thi xong mơn Tốn chưa? Ca: Chưa. Tớ sắp thi. Trước khi nghỉ hè sẽ thi.

Lân: Người ta bảo: thời sinh viên là sướng nhất. Chỉ có học thơi. Chẳng phải lo gì cả. Nhưng tớ lại thấy khổ: vừa thi xong môn này lại phải lo thi môn khác.

Ca: Thế à?

Lân: Thế cậu không nghĩ thế sao? Ca: Tớ cũng chẳng biết nữa. Tớ thấy thi cũng tốt. Khơng có thi tớ khơng

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

Ở ví dụ trên đây có thể học viên người Nhật sẽ thấy cách biểu hiện sự quan tâm và bộc lộ cảm xúc của hai bạn sinh viên kia sẽ vượt qua một mẫu hội thoại trò chuyện về tình hình thi cử thơng thường bởi vì văn hóa của họ khơng có thói quen phàn nàn, than vãn hay bộc lộ những cảm xúc tiêu cực một cách trực tiếp khác với văn hóa Việt. Vì vậy trong tình huống này giáo viên cần có những cách lý giải liên văn hóa rằng đây hồn tồn khơng giống như những lời than vãn tiêu cực mà chẳng qua chỉ là cách bộc lộ cảm xúc thơng thường khi giao tiếp trong văn hóa Việt Nam.

<b>5. ĐỀ XUẤT</b>

Nhằm giúp học viên cảm thụ được văn hóa nguồn hiệu quả thì vai trị của giáo viên rất quan trọng. Ngồi việc có kiến thức về chun mơn thì giáo viên cần phải chú ý bồi dưỡng khả năng giao tiếp và kiến thức về văn hóa xã hội một cách sâu rộng và việc truyền thụ kiến thức về bối cảnh văn hóa cần phải cụ thể hóa, hình tượng hóa và có thể tích hợp qua các hình thức và hoạt động dạy học dưới đây:

- Giáo viên đưa ra tình huống có liên quan đến văn hố và u cầu học viên giải quyết. Mỗi học viên tự đưa ra quyết định, sau đó họp lại thành nhóm để cùng trao đổi ý kiến.

- Học viên trình bày ngắn gọn một chủ đề hoặc ý tưởng cụ thể về khác biệt giữa văn hoá nguồn và văn hố đích, thường kèm tranh minh hoạ; sau đó đưa ra câu hỏi cho lớp thảo luận.

- Đóng vai: Hoạt động này có thể sử dụng sau khi học một bài hội thoại. Học viên tưởng tượng mình ở trong một tình huống giao tiếp liên quan đến văn hố. Ví dụ: sau khi học từ xưng hơ, học viên đóng vai trong cuộc thoại có cách xưng hơ khơng thích hợp. Học viên khác quan sát, phát hiện chỗ sai; sau đó đóng vai trong tình huống tương tự nhưng sử dụng hình thức xưng hơ phù hợp.

- Thơng qua các tác phẩm văn học: Tác phẩm văn học sẽ là kênh kết nối văn hóa dân tộc một cách toàn diện nhất. Loại văn bản này thường mang đậm thơng tin văn hố và gợi lên cảm xúc đáng nhớ cho người đọc. Văn bản được lựa chọn cẩn thận cho nhóm học viên cụ thể sẽ giúp học viên có được kiến thức ngơn ngữ - văn hố sâu sắc.

- Phương tiện nghe nhìn: Phim, video, truyền hình… trình bày các chủ điểm văn hố trực tiếp và ấn tượng; giúp học viên nhận thức các hành vi văn hoá một cách sống động đồng thời phương tiện này cũng rất hữu ích trong việc dạy văn hố liên quan đến hình thức giao tiếp không lời như cử chỉ, thái độ, nét mặt... trong văn hố đích.

<b>6. KẾT LUẬN</b>

Lồng ghép kiến thức văn hóa và giao văn hóa trong giảng dạy tiếng Việt cho người nước ngồi nói chung và đối tượng là học viên người Nhật nói riêng được cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

là phương pháp phù hợp theo xu thế hiện nay. Nó cho thấy ngơn ngữ được tạo lập như thế nào để truyền đạt nội dung văn hóa, cũng như văn hố tác động đến việc sử dụng ngôn ngữ ra sao. Phương pháp này địi hỏi nhiều nỗ lực về phía giáo viên: thứ nhất, giáo viên phải nắm vững kiến thức chun mơn tiếng Việt và văn hóa Việt ẩn sau yếu tố ngơn ngữ; thứ hai, khi giải thích chủ điểm ngôn ngữ giáo viên nên cung cấp kiến thức văn hố có liên quan cùng một lúc; thứ ba, để giúp học viên hiểu sâu hơn về văn hố, có thể so sánh những tương đồng và dị biệt giữa văn hoá Việt và văn hoá Nhật Bản. Đặc biệt, giáo viên không nên định kiến, không phán xét sự khác biệt giữa hai nền văn hoá, đồng thời phải nhớ rằng mục tiêu giảng dạy là nâng cao kiến thức ngôn ngữ lẫn năng lực giao tiếp. Mục tiêu cần đạt được đó là giúp học viên hiểu được văn hóa Việt Nam và biết cách sử dụng tiếng Việt một cách tự nhiên và hiệu quả nhất. Đó cũng là mục đích cuối cùng mà các nhà giáo dục muốn học viên của mình đạt được.

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>

1. Bùi Khánh Thế (2003). “Đi tìm một mơ hình thỏa đáng để dạy - học tiếng Việt như

<i>ngơn ngữ thứ hai”. Tạp chí Ngơn ngữ. Số 12. Tr. 43 - 48.</i>

<i>2. Dimitrios Thanasoulas (2001). The Importance of Teaching Culture in The Foreign </i>

<i>Language Classroom. Radical Pedagogy. </i>

<i>3. Hồ Hải Thụy (2005). Dạy và học ngoại ngữ - một số vấn đề nên cân nhắc, Tài liệu hội </i>

<i>thảo khoa học dùng tiếng nước ngồi làm chuyển ngữ (ngơn ngữ giảng dạy) trong q trình hội nhập. Hội Ngơn ngữ học Việt Nam & Viện Đại học Mở Hà Nội. Hà Nội.</i>

<i>4. Hội Ngôn ngữ học Việt Nam và Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội (1993). Việt Nam </i>

<i>- Những vấn đề ngơn ngữ và văn hóa.</i>

<i>5. Lê A (Chủ biên), Nguyễn Quang Ninh, Bùi Minh Toán. (2010). Phương pháp dạy </i>

<i>học tiếng Việt. NXB Giáo dục.</i>

6. Lý Tồn Thắng. (2012). “Bản sắc văn hố: thử nhìn từ góc độ tâm lý - ngơn ngữ”.

<i>Một số vấn đề về lý luận ngôn ngữ học và tiếng Việt. NXB Khoa học Xã hội.</i>

<i>7. Ngàn Trùng Dương (2003). tiếng Việt có thể trở thành ngơn ngữ toàn cầu?. NXB </i>

Lao động.

<i>8. Nguyễn Văn Huệ (Chủ biên) (2010). Giáo trình tiếng Việt cho người nước ngoài </i>

<i>(sách 1). Tái bản. NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh [viết tắt: TV1]; Nguyễn </i>

<i>Văn Huệ (cb) (2004). Giáo trình tiếng Việt cho người nước ngồi (sách 4). NXB </i>

Giáo dục [viết tắt: TV4].

<i>9. Nguyễn Anh Quế (2007). tiếng Việt cho người nước ngoài. NXB Văn hóa thơng tin.10. Trần Trí Dõi (2001). Ngơn ngữ và sự phát triển văn hóa xã hội. NXB Văn hóa thơng tin.</i>

11. Murakami Yutaro (Ibaraki University), Japanese Language Teaching Seminar, 2018/3/5 (アスペクト的な意味表すベトナム語 “đi” と日本語の「行く」

</div>

×