Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.95 KB, 12 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂNKHOA KH XÃ HỘI & NHÂN VĂN</b>
<b>BÀI TIỂU LUẬN</b>
<b>MÔN HỌC: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC</b>
<b>ĐỀ TÀI: LÝ LUẬN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN </b>
<b>VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ THỰC TIỄN XÂYDỰNG XÃ HỘI XHCN Ở VIỆT NAM</b>
<b>GVHD: THS.NGUYỄN THỊ HẢI LÊNLỚP: POS 351</b>
<b> DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM :Phan Trần Thiện Ân </b>
<b>-Ngô Vinh Thắng - 27201245568Lê Minh Tuấn - 27211201692Nguyễn Hữu Sơn - 27211221798Lê ÁI Nhi - 26202234989</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>LỜI MỞ ĐẦU</b>
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội, từ quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lê-nin đến thực tiễn thế giới hiện nay, đã, đang và sẽ tiếp tục là vấn đề thu hút sự quan tâm của các chính đảng, các nhà nghiên cứu thuộc những xu hướng chính trị khác nhau. Với Việt Nam, khẳng định tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước ta hiện nay.
Nói đến con đường lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) một cách khoa học, hợp quy luật, thì phải đề cập tới thời kỳ quá độ (TKQĐ) từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNXH. Nói đến TKQĐ ở Việt Nam một cách phù hợp, hiệu quả, thì phải đề cập tới TKQĐ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) - TKQĐ gián tiếp. Nói đến các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hay CNXH hiện thực trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây, Trung Quốc hiện nay theo đúng lý luận Mác - Lê-nin, thì phải thấy đó đều là các xã hội ở TKQĐ gián tiếp với những trình độ khác nhau.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b>I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN</b>
1. Lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin Vận dụng triệt để quan niệm duy vật về lịch sử vào nghiên cứu đời sống xã hội, chủ nghĩa Mác - Lênin để lại một hệ thống lý luận cơ bản, lịch sử, cụ thể về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, có giá trị định hướng con đường phát triển đi lên của các dân tộc theo quy luật phát triển chung của thời đại và đặc thù của các quốc gia - dân tộc. Hệ thống đó dựa trên cơ sở khoa học và bao gồm:
Học thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen phát minh tạo nên cuộc cách mạng trong quan niệm về lịch sử xã hội loài người, là cơ sở khoa học để nhận thức chân thực về thời kì quá độ. Trên cơ sở quan điểm sản xuất vật chất là cơ sở của đời sống xã hội, phương thức sản xuất quyết định các mặt của đời sống xã hội, đồng thời là cơ sở quyết định sự hình thành, phát triển, thay thế lẫn nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội, các ơng làm sáng tỏ, xã hội lồi người đã và sẽ tuần tự trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao,đỉnh cao tiến bộ nhất là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa (CSCN). Giữa các hình thái ấy ln có một thời kỳ chuyển tiếp được gọi là thời kì quá độ
Lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CSCN. Phân tích TKQĐ từ xã hội TBCN sang xã hội CSCN ở các nước TBCN đã phát triển cao nhất, C.Mác chỉ ra và xác định hai giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CSCN: Giai đoạn thấp là XHCN, giai đoạn cao là CSCN. Ở giai đoạn XHCN, chế độ kinh tế và sự phát triển của văn
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">hóa mới đạt tới giới hạn và chỉ bảo đảm cho xã hội thực hiện nguyên tắc “Làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Ở giai đoạn CSCN, con người khơng cịn bị lệ thuộc vào sự phát triển của lao động; lao động vừa là phương tiện sống, vừa trở thành nhu cầu bậc nhất của cuộc sống; sự phát triển phi thường của lực lượng sản xuất tạo ra năng suất lao động ngày càng tăng, của cải tuôn ra dào dạt… xã hội đủ các điều kiện vật chất và tinh thần để thực hiện nguyên tắc“Làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”; sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.
Xác định, luận giải về XHCN là TKQĐ từ CNTB lên CNCS được C.Mác phân tích: 1. Khơng gian và thời gian là “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia
2. Thực chất xã hội thời kỳ đó “khơng phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế, đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt lịng ra.Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy khơng thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản 3. Công cụ để thực hiện sự cải biến đó là nhà nước chun chính cách mạng của giai cấp vô sản.
Thống nhất với chủ nghĩa Mác về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội CNCS, vận dụng vào phân tích, xem xét ở những nước chưa có lực lượng sản xuất phát triển cao như nước Nga Xô viết, hoặc chưa trải qua CNTB mà lại đang và sẽ bỏ qua chế độ CNTB; cùng sự phân tích những thành phần, bộ phận, đặc điểm không thuần nhất, đan xen, thâm nhập lẫn nhau của các yếu tố của CNTB và CNXH, thấy được sự lấn át của xã hội cũ đối với xã hội mới và tính chất lâu dài, khó khăn, phức tạp của thời kỳ này, V.I.Lênin đã phân chia quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội CNCS thành ba giai đoạn:
- I “những cơn đau đẻ kéo dài”
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">- II “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa”,
- III “giai đoạn cao của xã hội cộng sản chủ nghĩa”. Ở đó, xác định: “giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa, là xã hội vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ nghĩa sau những cơn đau đẻ kéo dài”
Từ sự phân tích, đánh giá trên đây, V.I.Lênin đã đưa ra khái niệm về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, đó là: “Về lý luận, khơng thể nghi ngờ gì được rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất định. Thời kỳ đó khơng thể khơng bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của cả hai kết cấu kinh tế xã hội ấy. Thời kỳ quá độ ấy không thể nào lại không phải là một thời kỳ đấu tranh giữa chủ nghĩa tư bản đang giãy chết và chủ nghĩa cộng sản đang phát sinh, hay nói một cách khác, giữa chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng chưa bị tiêu diệt hẳn, và chủ nghĩa cộng sản đã phát sinh nhưng vẫn còn rất non yếu”
Nghiên cứu, phát triển chủ nghĩa Mác, V.I.Lênin làm sâu sắc tính chất lâu dài, phức tạp của TKQĐ lên CNXH ở những nước trình độ phát triển khác nhau, rằng: Với những nước chưa có CNTB phát triển cao mà đi lên CNXH, “cần phải có một thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
Tính chất đó được quy định bởi chỗ thời kỳ đó khơng chỉ phải làm nhiệm vụ của TKQĐ từ CNTB lên CNXH mà còn phải thực hiện cả một loạt nhiệm vụ mà đáng lẽ CNTB đã phải làm trước khi cách mạng vơ sản nổ ra, như xóa bỏ các tàn tích phong kiến, kiến lập nền cơng nghiệp cơ khí hóa… Với những nước càng ít phát triển, “tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ xã hội tư bản chủ nghĩa (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài),… chỉ là một trong những bước đầu tiên tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”
.Đây là giá trị lý luận khoa học đặc sắc được đúc rút từ tính quy luật: CNXH ra đời trên cơ sở của sự phát triển đến đỉnh cao của CNTB; đồng thời, tuân thủ tính khách
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">quan: CNXH có thể ra đời từ xuất phát điểm thấp hơn CNTB khi có những điều kiện, tiền đề và thời cơ chín muồi (những khả năng, con đường hiện thực của một xã hội mới - xã hội XHCN mà thực tiễn tất yếu cách mạng đã đem lại).
Với thực tiễn những năm đầu của TKQĐ lên CNXH ở nước Nga Xô viết giúp cho V.I.Lênin đưa ra kết luận khoa học: “Tất cả các dân tộc đều sẽ đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là điều khơng tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghĩa xã hội khơng phải một cách hồn tồn giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chun chính vơ sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã hội”
… Từ đó, xác lập nên hai hình thức cơ bản của TKQĐ lên CNXH: - 1) Quá độ trực tiếp - từ những nước tư bản phát triển lên CNXH;
- 2) Quá độ gián tiếp - từ những nước chưa qua giai đoạn phát triển TBCN lên CNXH. Ở hình thức quá độ thứ hai - quá độ bỏ qua CNTB lên CNXH, V.I.Lênin chỉ ra, nhiệm vụ của TKQĐ sẽ nặng nề, khó khăn, phức tạp hơn, bởi phải thực hiện “kép” cả hai nhiệm vụ là xây dựng CNXH về mặt chính trị, xã hội và đạt được những thành tựu cơ bản của CNTB về mặt khoa học, lực lượng và trình độ sản xuất. Do vậy, ông nhấn mạnh và đòi hỏi sự cần thiết phải trải qua nhiều bước trung gian, quá độ mới có thể xây dựng thành cơng CNXH, ví như, phải “bắc những nhịp cầu nhỏ” đi xuyên qua kinh tế tư bản để từng bước xây dựng CNXH. Đồng thời, lưu ý “chúng ta phải hiểu những đường lối, thể thức, thủ đoạn và phương sách trung gian cần thiết để chuyển từ những quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa lên chủ nghĩa xã hội. Đó là mấu chốt của vấn đề”
<b>2.1 Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ cáccăn cứ sau đây</b>
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đềunhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ cịn có sựđan xen lẫn
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nóichung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản vềchất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra tronglịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là đối với những nước cịn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủnghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này cịn có thể rất dài với nhiều bước quanhco.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuậtđã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại cơngnghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phảilà nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độcủa bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua q trình cơng nghiệp hóa tiến lên chủnghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủnghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành cơngnghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vơ cùng to lớn và đầy khó khăn,khơng thể “đốt cháy giai đoạn” được.
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển những quan hệ đó. Bốn là, cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân dân lao
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">động khơng thể ngay lập tức có thể đảm đương được cơng việc ấy, nó cần phải có thời gian nhất dịnh.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xãhội thì thời kỳ q độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước cịn ở trìnhđộ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
<b>2.2 Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩaxã hội</b>
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, khơng thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước cịn ở trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nólà những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ vai trị là hình thức phân phối chủ đạo.
+ Trên lĩnh vực chính trị:
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung, thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau. + Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểutư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới, chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại khơng cịn là giaicấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyềnvận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
- Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất địnk không thể theo ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tn theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Đối với những nước chưa trải qua quá trình cơng nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất yếu phải tiến hành cơng nghiệp hố xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ q độ phải là tiến hành cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theođịnh hướng xã hội chủ nghĩa.
Q trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến trình cơng nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội làtiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động; xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp cơng nhân trong tồn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trênthế giới.
</div>