Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 22 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<i><b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO ĐẠO</b></i>
<b>ĐẠI HỌC DUY TÂNKhoa: Lý Luận Pháp Luật Chính Trị</b>
MÔN HỌC: Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học
<b>Dân chủ và vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩacủa dân, do dân và vì dân ở Việt Nam</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>MỤC LỤC</b>
<b>A.LỜI MỞ ĐẦU...3</b>
<b>B.NỘI DUNG...5</b>
CHƯƠNG I. Cơ sở lý luận chung...5
1. Khái quát quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lenin về dân chủ...5
2. Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa...5
2.1 Bản chất chính trị...6
2.2 Bản chất kinh tế...6
2.3 Bản chất tư tưởng - văn hóa- xã hội...6
CHƯƠNG II. Thực trạng phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền
1. Những kết quả đạt được...7
1.1 Dân chủ trong Đảng...7
1.2 Dân chủ trong Nhà nước ...7
1.3 Dân chủ trong xã hội...8
2. Hạn chế...8
2.1 Dân chủ trong Đảng…...9
2.2 Dân chủ trong Nhà nước ...9
2.3 Dân chủ trong xã hội…...10
3.Nguyên nhân của mọi hạn chế...11
CHƯƠNG III. Giải pháp xây dựng, hoàn thiện, phát triển...11
1.Giải pháp xây dựng hoàn thiện, phát triển nhà nước pháp quyền XHCN.12 2.Nâng cao chất lượng hoạt động và kiện toàn tổ chức quốc hội ta...14
3.Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương...17
4. Đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương...17
5. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức...18
6. Đẩy mạnh cải cách tư pháp...18
7. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước...20
<b>C. KẾT LUẬN ...21 </b>
<b>D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...22</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3"><b> </b>
<b>A. LỜI MỞ ĐẦU</b>
Dân chủ là một chế độ chính trị, trong đó quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và được thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do nhân dân bầu ra. Có nhiều loại dân chủ khác nhau, bao gồm dân chủ cộng hoà, dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Dân chủ cộng hoà đã được thành lập từ thời chiếm hữu nơ lệ ở nhà nước Cộng hồ Aphina, nơi vai trị chủ yếu trong quản lí nhà nước thuộc Hội nghị quốc dân được lập để giải quyết các vấn đề chính sách đối nội và đối ngoại của đất nước. Tất cả những người có chức trách trong nhà nước Aphina đều được dân bầu ra và được thay đổi, bãi miễn nhiệm theo nguyên tắc đa số. Tuy nhiên, trong chế độ này, các nhóm thiểu số như phụ nữ, người nước ngồi, nơ lệ được giải phóng và nơ lệ khơng được phép hưởng các quyền chính trị.
Dân chủ tư sản được ra đời cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở các nước châu Âu. Dân chủ tư sản đã mang lại nhiều tiến bộ so với chế độ chuyên chế phong kiến trước đó, nhưng vẫn là hình thức thống trị chính trị của giai cấp tư sản, bị cắt xén và dành cho thiểu số. Các quyền dân chủ đã được tuyên bố trong các hiến pháp tư sản nhưng các đối tượng lao động nghèo khổ thường bị hạn chế trong việc thực hiện các quyền này.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập ở các nước đã hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ và bắt đầu tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ này, quyền lực thuộc về nhân dân và được thực hiện thông qua các cơ quan đại diện của nhân dân. Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa là đảm bảo quyền lợi của tồn bộ nhân dân và loại bỏ sự bất bình đẳng xã hội.
<b>B.NỘI DUNG</b>
<b>CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA VIỆC PHÁT HUY DÂN CHỦVÀ XÂY DỰNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM.</b>
<b> 1.Khái quát quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về dân chủ.</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">CN Mác-Lenin đã kế thừa và phát triển những nhân tố hợp lý, nhận thức và hoạt động thực tiễn của nhân loại về dân chủ. Điểm nhấn của họ là đề cao quan điểm rằng dân chủ là một nhu cầu khách quan của nhân dân lao động, và quyền lực dân chủ thuộc về nhân dân. Tuy nhiên, trong một Xã hội có sự chia thành các giai cấp và có nhà nước - tức là một chế độ dân chủ thể hiện chủ yếu qua nhà nước - dân chủ khơng cịn là một khái niệm chung chung, phi giai cấp, hay siêu giai cấp, hay "dân chủ thuần túy". Thay vào đó, mỗi chế độ dân chủ gắn liền với nhà nước đều mang bản chất giai cấp thống trị của Xã hội. Do đó, dân chủ trong XH có giai cấp nó mang tính giai cấp, gắn liền với các giai cấp đã thiết lập nền dân chủ đó, như: Dân chủ nơ lệ, dân chủ thượng tầng, dân chủ vô sản (dân chủ của các quốc gia XHCN).
Do đó, từ khi có chế độ dân chủ thì dân chủ luôn luôn tồn tại với tư cách một phạm trù lịch sử và chính trị. Từ khi có nhà nước dân chủ, thì dân chủ cịn có ý nghĩa là một hình thức nhà nước, trong đó có chế độ bầu cử, cách chức các thành viên của nhà nước, và quản lý XH theo pháp luật nhà nước và thừa nhận "quyền lực thuộc về nhân dân" (dân là ai thì do giai cấp thống trị quy định), gắn liền với một hệ thống chuyên chính của giai cấp thống trị xã hội. Với một chế độ dân chủ và nhà nước tương ứng đều do một giai cấp thống trị cầm quyền chi phối tất cả các lĩnh vực của tồn XH. Do vậy, tính giai cấp thống trị cũng gắn liền và chi phối tính dân tộc, tính chính trị, kinh tế, văn hóa, XH...ở mỗi quốc gia, dân tộc cụ thể.
<b>2.Bản chất của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. 2.1 Bản chất chính trị. </b>
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp cơng nhân thơng qua đấu tranh của nó đối với tồn xã hội. Tuy nhiên, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ thực thi quyền lợi riêng cho giai cấp công nhân mà chủ yếu là quyền lợi của đại đa số nhân dân. Mặc dù đây là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử cho đến nay nhưng vẫn mang ban chất giai cấp và giai cấp đại diện cho xã hội chủ nghĩa là giai cấp công nhân. Bản chất chính trị của xã hội XHCN mà Việt Nam xây dựng là xã hội của dân, do dân, vì dân và quyền lực thuộc về Nhân dân. Mơ hình chính trị và cơ chế vận hành tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân là chủ. Hệ thống chính trị này phục vụ cho lợi ích của Nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân và xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh tồn diện là một trong những nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng Việt Nam.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Trong chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật và hoạt động của Nhà nước đều vì lợi ích của Nhân dân, lấy hạnh phúc của Nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.
Sự khác nhau giữa Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà nước pháp quyền tư sản là:"pháp quyền dưới chế độ tư bản chủ nghĩa về thực chất là công cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, cịn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân". Sự khác biệt này được thể hiện rõ qua các điểm sau:
Đầu tiên, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam không chỉ đảm bảo quyền lợi của giai cấp cơng nhân mà cịn của đại đa số Nhân dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang cố gắng xây dựng một nền kinh tế thịnh vượng, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, nhằm đáp ứng đầy đủ các nhu cầu cơ bản của Nhân dân. Đồng thời, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng đảm bảo các quyền lợi cơ bản của công dân, bao gồm quyền tự do ngôn luận, tôn giáo và các quyền khác, trừ những hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động trên cơ sở quyền làm chủ của Nhân dân. Điều này có nghĩa là, các quyết định quan trọng của Nhà nước sẽ được đưa ra sau khi tham khảo ý kiến của Nhân dân, đặc biệt là các nhóm dân tộc thiểu số và các tầng lớp bị bỏ lại phía sau. Việc này đảm bảo sự minh bạch, công khai và tránh xa tình trạng quyết định chỉ phục vụ cho một nhóm người giàu có và quyền lực.
Thứ ba, pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam cũng được đặt ra để bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của Nhân dân. Các quy tắc pháp luật được đưa ra nhằm đảm bảo sự công bằng, tránh việc các cá nhân hoặc tổ chức sử dụng quyền lực của mình để cưỡng đoạt tài sản và quy định là cơng cụ bảo vệ và phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chế độ xã hội chủ nghĩa là công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ lợi ích của đại đa số Nhân dân.
Ngoài ra, trong chế độ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước đóng vai trị quan trọng trong việc quản lý và điều hành các ngành kinh tế, giáo dục, văn hóa và khoa học kỹ thuật. Điều này giúp đảm bảo rằng các ngành này được phát triển một cách bền vững và đồng đều, không chỉ tập trung vào lợi ích của một số nhóm lợi ích nhất định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Ngoài ra, chế độ xã hội chủ nghĩa cũng đặc biệt chú trọng đến sự phát triển của người lao động và quan tâm đến chất lượng cuộc sống của các tầng lớp nhân dân. Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, người lao động được đảm bảo về việc làm, thu nhập và điều kiện làm việc. Các chính sách xã hội như chăm sóc sức khỏe, giáo dục, bảo hiểm xã hội và nghỉ phép được đặc biệt quan tâm và thực hiện một cách có hiệu quả.
Trên cơ sở đó, chế độ xã hội chủ nghĩa có thể đạt được sự công bằng xã hội và tiến tới một xã hội không giai cấp. Tuy nhiên, để đạt được điều này địi hỏi sự nỗ lực và đóng góp của tất cả các tầng lớp nhân dân, cùng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
<b> 2.2 Bản chất kinh tế</b>
Bản chất kinh tế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là thực hiện chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu và thực hiện chế độ phân phối lợi ích theo kết quả lao động. Điều này đảm bảo quyền làm chủ của nhân dân đối với tư liệu sản xuất chủ yếu trong quá trình sản xuất, kinh doanh và phân phối. Lợi ích kinh tế của người lao động được coi là động lực cơ bản thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Để có sự ra đời của nền kinh tế dân chủ xã hội chủ nghĩa, chế độ công hữu và phân phối theo kết quả lao động là cơ sở của nó. Tuy nhiên, cần kế thừa và phát triển những thành tựu mà nhân loại đã tạo ra trong lịch sử. Việc kế thừa này phải được lựa chọn và có tính hợp lý, đồng thời cần loại bỏ các yếu tố lạc hậu, tiêu cực và hạn chế sự phát triển của kinh tế từ các chế độ kinh tế trước đó.
Nền kinh tế dân chủ tư sản dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Việc này duy trì sự bất bình đẳng, áp bức, bóc lột và bất cơng, và quyền làm chủ trong quá trình sản xuất và kinh doanh thuộc về thiểu số trong xã hội. Giai cấp tư sản, cụ thể là các tập đoàn tư bản, sử dụng quyền lực của mình để thực hiện sự phối hợp và lũng đoạn.
Trong khi đó, nền kinh tế dân chủ xã hội chủ nghĩa đặt nhân dân, đặc biệt là người lao động, là người làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và quyết định quá trình sản xuất, phân phối và lợi ích kinh tế của mình. Việc này đảm bảo rằng lợi ích của người lao động là động lực cơ bản cho sự phát triển kinh tế.
<b>2.3 Bản chất tư tưởng-văn hóa-xã hội.</b>
Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa lấy hệ tư tưởng Mác - Lênin - hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, làm chủ đạo đối với mọi hình thái ý thức xã hội khác trong xã hội mới. Đồng thời, nó kế thừa và phát huy những tinh hoa văn hóa truyền thống dân tộc,
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">tiếp thu những giá trị tư tưởng, văn hóa, văn minh, và tiến bộ xã hội mà nhân loại đã tạo ra ở tất cả các quốc gia, dân tộc.
Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được làm chủ những giá trị văn hoá tinh thần, được nâng cao trình độ văn hố và có điều kiện để phát triển cá nhân. Dưới góc độ này, dân chủ được coi là một thành tựu văn hoá, một q trình sáng tạo văn hố, thể hiện khát vọng tự do được sáng tạo và phát triển của con người. Trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, có sự kết hợp hài hịa về lợi ích giữa cá nhân, tập thể và lợi ích của tồn xã hội. Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa động viên sức sáng tạo và thu hút mọi tiềm năng tích cực xã hội của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới. Trong đó, tập thể và cá nhân có trách nhiệm tham gia tích cực vào q trình xây dựng xã hội mới, đóng góp vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, bảo vệ và phát triển quyền lợi của nhân dân.
Điều này giúp tạo nên một môi trường tốt để khai thác và phát huy tối đa tiềm năng của con người, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của mọi người.
<b>CHƯƠNG II. Thực trạng phát huy dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền 1. Những kết quả đạt được</b>
<b> 1.1 Dân chủ trong Đảng</b>
Việc thực hiện dân chủ trong các hoạt động của Đảng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Đầu tiên, các thành tựu lịch sử của Đảng trong vòng 30 năm qua được đạt được nhờ việc thực hiện các chủ trương, đường lối đúng đắn, đó là kết quả của việc dân chủ thảo luận và Đảng lắng nghe ý kiến đóng góp của hàng triệu cán bộ, đảng viên, các nhà khoa học và nhân dân.
Thứ hai, công tác tư tưởng của Đảng đã được đổi mới và nâng cao chất lượng hoạt động tuyên truyền, thuyết phục và vận động quần chúng. Kết quả của công tác tư tưởng thể hiện ở việc giữ vững ổn định chính trị và người dân được thông tin rõ hơn về các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước.
Thứ ba, công tác tổ chức và cán bộ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Các cơ quan Đảng, Nhà nước và các đoàn thể đã được sắp xếp lại và kiện toàn theo hướng tỉnh gọn, nâng cao hiệu quả. Nhiều chủ trương, quan điểm và giải pháp về công tác cán bộ được thể chế hóa và cụ thể hóa thành các quy chế, quy định. Đảng đã triển khai đồng bộ các khâu đánh giá, tuyển chọn, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Công tác tổ chức và cán bộ đã chuyển hướng theo hướng dân chủ hóa.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8"><b> 1.2 Dân Chủ Trong Nhà Nước.</b>
Dân chủ là một giá trị quan trọng trong cả Đảng và Nhà nước. Các thành tựu và hạn chế của việc thực hiện dân chủ trong Đảng cũng đồng nghĩa với việc đánh giá thành tựu và hạn chế của việc thực hiện dân chủ trong Nhà nước. Đặc biệt, dân chủ trong Nhà nước có một số đặc thù riêng, đặc biệt trong giai đoạn cách mạng công nhân, khi giai cấp vô sản đã trở thành giai cấp thống trị và đấu tranh cho quyền lực dân chủ.
Theo V.I. Lênin, chính quyền Xơ viết là một kiểu Nhà nước đặc biệt, là một chế độ dân chủ vô sản ưu việt gấp triệu lần so với các chế độ dân chủ tư sản. Tuy nhiên, việc thực hiện dân chủ trong các hoạt động của Đảng cũng đã có nhiều chuyển biến tích cực, chẳng hạn như công tác lý luận, công tác tư tưởng, công tác tổ chức và cán bộ, công tác kiểm tra, v.v.
Với quan điểm của tư sản, chế độ dân chủ vơ sản cịn dân chủ hơn gấp triệu lần so với bất kỳ chế độ dân chủ tư sản nào. Chính quyền Xơ viết cũng được đánh giá là dân chủ hơn gấp triệu lần so với nước cộng hoà dân chủ nhất.
<b> 1.3 Dân chủ trong xã hội</b>
Chủ nghĩa xã hội là một hệ thống xã hội với nền kinh tế phát triển cao, phụ thuộc vào lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Mục tiêu chính của chủ nghĩa xã hội là giải phóng con người khỏi bó buộc của điều kiện kinh tế - xã hội phát triển, đặc biệt là trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất. Xã hội chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao, với lực lượng sản xuất hiện đại, quan hệ sản xuất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, được tổ chức và quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao và phân phối chủ yếu dựa trên lao động. Theo V.I. Lenin, "từ chủ nghĩa tư bản, nhân loại chỉ có thể tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, tức là chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất và chế độ phân phối theo lao động của mỗi người".
<b>2.Hạn Chế</b>
<b> 2.1 Dân chủ trong đảng</b>
Các hoạt động công tác tư tưởng vẫn chưa đạt được sự sắc bén, sức thuyết phục, tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sâu sát thực tế và chưa linh hoạt. Cán bộ đảng viên vẫn còn một phần suy thối về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống do công tác tư tưởng chưa thực hiện tốt chức năng giáo dục chính trị và tư tưởng. Thông tin chưa được cung cấp thường xuyên cho dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chưa
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">thực sự được mở rộng dân chủ trong tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt. Tình trạng nói nhiều, làm ít hoặc nói nhưng không làm vẫn tồn tại.
Công tác tổ chức và đổi mới cán bộ vẫn chậm chạp và còn một số biểu hiện trì trệ, yếu kém, bất cập. Tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị có q nhiều đầu mối, trách nhiệm tập thể và cá nhân không rõ ràng, chất lượng hoạt động và hiệu quả thấp. Bộ máy còn cồng kềnh, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhiều cơ quan còn chồng chéo; cơ chế vận hành và nhiều quan hệ còn bất hợp lý. Chưa thực sự lắng nghe ý kiến của nhân dân về tuyển chọn, đào tạo, sắp xếp, sử dụng và đánh giá cán bộ. Chưa thực hành dân chủ trong công tác tổ chức, cán bộ. Chưa thực hiện cơ chế lựa chọn có số dư cho việc tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ, đặc biệt là chưa mở rộng dân chủ để tạo ra môi trường cho tài năng được phát huy. Chưa thực hiện cơng khai hóa, minh bạch hóa các khâu trong cơng tác cán bộ để nhân dân được biết và có điều kiện theo dõi, giám sát quá trình triển khai thực hiện.
Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là chưa thực hiện đầy đủ dân chủ trong công tác này. Hầu hết các vụ tham nhũng, tiêu cực không phải do cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan kiểm tra phát hiện được mà chủ yếu do nhân dân phát hiện, tố cáo hoặc báo chí nêu. Vì vậy, phải xây dựng đầy đủ, đồng bộ cơ chế, chính sách để nhân dân tham gia kiểm tra, giám sát đối với tổ chức đảng và đảng viên. Nếu khơng có cơ chế, chính sách cụ thể, đồng bộ thì nhân dân khơng thể giám sát và kiểm tra được.
Trong Đảng vẫn cịn tệ gia trưởng, độc đốn, dân chủ hình thức và đồng thời vơ tổ chức, vô kỷ luật. Nhiều việc đưa ra tập thể cấp ủy bàn bạc, nhưng chỉ cốt để hợp thức hóa ý đồ của cá nhân người đứng đầu. Vì người đứng đầu không thực sự mở rộng dân chủ, không tơn trọng lắng nghe ý kiến trái với mình, thậm chí thành kiến, trù dập một cách khơn khéo, nên cấp dưới khơng dám nói thẳng, nói thật. Ngun tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức, do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới, giữa tập thể và cá nhân, khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm.
2.2. Dân chủ trong Nhà nước
Trong chế độ dân chủ và pháp quyền, quyền lực nhà nước không phải là quyết định tự có của Nhà nước, mà quyền lực đó được nhân dân ủy quyền. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, giao cho những con người cụ thể. Tuy nhiên, khi các dục vọng, thói quen nổi lên trong con người cụ thể, khả năng sai lầm trong việc thực thi quyền lực càng lớn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">Do đó, để hạn chế sự lộng quyền và lạm quyền, cần phải kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách thực hiện dân chủ rộng rãi. Tuy nhiên, dân chủ vẫn chưa được thực hành rộng rãi, dẫn đến sự lộng quyền và lạm quyền, cùng với tình trạng quan liêu, cửa quyền, phiền hà đối với nhân dân, chưa khắc phục được bệnh tham ơ, lãng phí, v.v..
Bên cạnh đó, Nhà nước cịn chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ thành pháp luật, thành quy chế, gây ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước.
<b> 2.3. Dân chủ trong xã hội</b>
Thực hành dân chủ trong xã hội Việt Nam vẫn đang mắc phải một số hạn chế như sau:
Đầu tiên, nhận thức về dân chủ trong một số cán bộ, đảng viên và nhân dân vẫn còn hạn chế, dẫn đến việc thiếu trách nhiệm trong việc triển khai thực hiện dân chủ ở cơ sở.
<i>Thứ hai</i>, nhiều chủ trương về thực hành dân chủ chưa được thể chế hóa, khiến thực tế thực hành dân chủ chưa đạt được hiệu quả cao. Quyền làm chủ của nhân dân chưa được tôn trọng và phát huy đầy đủ, thậm chí bị vi phạm ở một số nơi và trên một số lĩnh vực. Có tình trạng lợi dụng dân chủ để gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội.
<i>Thứ ba</i>, việc giải quyết yêu cầu phát huy dân chủ, tự do ngôn luận, lắng nghe các ý kiến khác biệt, tư duy phản biện trong xã hội với việc giữ vững kỷ luật, kỷ cương, phép nước cịn nhiều bất cập. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương, dân chủ và pháp luật còn xuất hiện ở một số người. Trong xã hội vẫn còn hiện tượng chuyên quyền, độc đốn, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức, lại vừa dân chủ quá trớn, cực đoan.
<i> Thứ tư, vẫn chưa có cơ chế bảo đảm để nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của</i>
quyền lực. Quyền lực vẫn nằm trong tay các cơ quan nhà nước, việc giám sát chính quyền cũng chưa được cơ chế rõ ràng. Tình trạng quan liêu của bộ máy hành chính làm cho yêu cầu quản lý các quá trình kinh tế - xã hội và phát huy quyền làm chủ của nhân dân chưa thật nhanh, nhạy và hiệu quả. Trong nhiều trường hợp, “hành chính” trở thành “hành dân là chính”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><i>Thứ năm</i>, trong hơn 30 năm qua, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có nhiều đổi mới, Nhà nước đã cố gắng xây dựng, ban hành pháp luật và đưa pháp luật trở thành công cụ quan trọng trong quản lý đất nước, thực hành dân chủ trong xã hội. Tuy nhiên, nhìn chung, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa đồng bộ, không thống nhất, hay thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân, ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội.
<i> Thứ sáu, bên cạnh đó, tình trạng tham nhũng và thất thoát ngân sách trong việc</i>
triển khai thực hiện dân chủ vẫn diễn ra phổ biến, gây ảnh hưởng đến sự công bằng, minh bạch, và sự phát triển của xã hội. Việc đưa ra quyết định và thi hành công lý chưa được đảm bảo tốt, trong một số trường hợp, bị lệch lạc và ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người dân.
<b>3. Nguyên nhân của mặt hạn chế về dân chủ ở nước ta</b>
Việc giải quyết vấn đề dân chủ ở Việt Nam vẫn còn nhiều khó khăn cả về lý luận lẫn thực tiễn. Có nhiều vấn đề chưa được giải quyết rõ ràng, gây khó khăn cho việc thực hành dân chủ. Vấn đề đầu tiên là cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ chưa được phân rõ chức năng lãnh đạo với chức năng quản lý. Việc thực hiện cơ chế này vẫn chồng chéo lên nhau và còn thiếu cơ chế rõ ràng để nhân dân tham gia làm chủ.
<i> Thứ hai, mặc dù dân chủ được coi là mục tiêu và động lực của sự phát triển xã</i>
hội, nhưng vẫn chưa có lộ trình để đạt được mục tiêu đó. Thực hành dân chủ hiện tại vẫn bị coi thường và không được đặt lên một vị trí quan trọng. Ngồi ra, chúng ta cũng chưa có đầy đủ nhận thức về mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương. Do đó, cả hai đều thực hiện chưa tốt và không phát huy được động lực của sự phát triển xã hội.
<i> Thứ ba, việc thực hành dân chủ trong Đảng và Nhà nước còn nhiều vấn đề chưa</i>
được giải quyết, ảnh hưởng đến thực hành dân chủ trong xã hội. Đảng chưa nêu được tấm gương về thực hành dân chủ, trong khi đó việc thể chế hóa các chủ trương của Đảng về dân chủ cũng chưa được kịp thời.
<i> Thứ tư, Nhà nước pháp quyền đang trong giai đoạn hình thành, vì vậy, việc xây</i>
dựng các chế độ xã hội để giám sát và phản biện các vấn đề xã hội vẫn còn chưa đủ. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội cũng chưa thực hiện triệt để vai trò
</div>