Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.97 MB, 94 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
VŨ MINH TRANG
<small>Tôi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên</small>
cứu khoa học của riêng tơi. Các số liệu, ví du và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được ai cơng bố
trong bat kỳ cơng trình nào khác.
<small>Tác giả luận văn</small>
<small>Vũ Minh Trang</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">CONG TO VA KIEM SAT DIEU TRA CAC VU AN GAY ROI CONG <small>CỘNG...---«c- 7</small>
1.1.Khái niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố các vụ án gây rỗi <small>trAt TW CONG CONG 7... 7</small>
1.2. Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát điều tra các vụ án gây rỗi trật tự
<small>CONG CONG 00077. . ằỐ... 10</small>
1.3. Nhận thức chung về tội phạm gây rối trật tự công cộng...---- 14 1.4. Đặc điểm thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối
<small>trAt TW CONG CONG 0... ƠŒÖỒ... 18</small> 1.5. Mối quan hệ giữa thực hành quyên công tố và kiểm sát điều tra các vu án
gây rối trật tự CONG CỘng...---:-- 2 s+Ek+EE2E19E1E71121111101111111111 11.1111 19 1.6. Qui định của pháp luật về thực hành quyền công tổ va kiểm sát điều tra .21 Kết luận chương | ...- -- 2 k s+E+EEEEEEEE2EEEEEE71121121111111111 111111111 xe 32 Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HANH QUYEN CÔNG TO VÀ KIEM SÁT DIEU TRA CAC VU ÁN GAY ROI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG Ở THÀNH PHO HA NỘII...-- 2-2-5522 EEEEE211271221121111111111 11.1 33 2.1. Thực trạng thực hành quyền công tô và kiểm sát điều tra đối với các vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội ...-- 2-2 5© ++x+£xezsez 33 2.1.1. Thực hành quyền cơng tố và kiểm sát điều tra trong khởi tố vụ án, khởi tô bị can đối với các vụ án gây rỗi trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội... 35
2.1.2. Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong việc áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn đối với các vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội... 2-2 2£ S2 EE£9SE£EEE9EEE2EEEEE1971121171171121111111. xe 38 2.1.3. Thực hành quyền công tổ và kiểm sát các hoạt động điều tra cụ thé trong vụ án gây tối trật tự công cộng...---¿--s-+s+++keEkeEE2E1911111211211111111 1x1 te 40 2.2. Nhận xét đánh giá chung về hoạt động thực hành quyền công tố và kiêm
sát điều tra các vụ án gây tối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội... 42
2.2.1. Những ưu điểm chính đạt được ...- -- 2-2 2+ + ++£k+xzzxsrxerree 42
2.2.2. Một sơ tồn tại, thiếu sót và ngun nhân của hạn chế...---- 45
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">CONG TO VÀ KIEM SÁT DIEU TRA CÁC VU AN GAY ROI TRAT TỰ CÔNG CONG Ở THÀNH PHO HA NỘI...--- 2-csz+cSeere 66
3.1. Hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án
gây rối trật tự công cỘng...---¿- + s++Ek+Ek2EEEEE197112711211711211211111 11.1 e6 66
3.1.1. Hoan thiện pháp luật về thực hành quyền công tổ và kiểm sát điều tra ..66 3.1.2. Tăng cường cơng tác hướng dẫn, giải thích các qui định của Bộ luật hình 3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng...---: 73 3.2.1. Tăng cường trách nhiệm công tố, gan công tô với hoạt động điều tra....73 3.2.2. Nâng cao kỹ năng thực hành quyền công t6 và kiểm sát điều tra... 75 3.2.3. Vận dụng linh hoạt và tích cực thực hiện quyên hạn trực tiếp tiễn hành
một số hoạt động điều tra của Viện kiểm sát khi cần thiết...--- 77
3.2.4. Đôi mới phương thức phối hop với Cơ quan điều tra...--- 77 3.2.5. Đổi mới phương thức đào tao, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác thực hành quyền cơng t6 và kiểm sát điều tra...-- 2-5 sz©5e+¿ 78 Kết luận chương 3...- -- 2-5 S219 19E112112111112111111.1111111 11.1111 e6 79 KET LUẬN...- 80 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 83
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5"><small>BLHS : Bộ luật Hình sự</small>
BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự
CQDT : Cơ quan điều tra
ĐTV : Điều tra viên
KSDT : Kiểm sát điều tra
KSV : Kiểm sát viên
THQCT : Thực hành quyền công tố
VKS : Viện kiểm sát
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">2.1 Tình hình giải quyết án gây rối trật tự cơng cộng 36
2.2 Tình hình bắt, giữ trong vụ án gây rối trật tự công cộng 39
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><small>Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm phạm an tồn cơng cộng,</small>
trật tự cơng cộng nói riêng và đặc biệt là tội gây rỗi trật tự công cộng đang là van đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này có tính nguy hiểm khơng cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phố biến, đa dang và ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an tồn xã hội. Hành vi
gây rối trật tự công cộng xâm phạm các quan hệ xã hội trong lĩnh vực công cộng, gây tơn hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân,
hành vi này được thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, thê hiện ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước. Hình thức biểu hiện của hành vi gây rối thường là: Hành hung, đánh lộn, đập phá, gây lộn xộn ở nơi đông người, tụ tập điều khiển xe máy tốc độ cao, lạng lách, đánh võng, gây huyên náo đường phố... và ngày càng có xu hướng gia tăng, kèm theo đó là các hành vi hủy hoại tai sản, chống người thi hành cơng vụ, cố ý gây thương
tích, thậm chí là giết nguoi... Nam trong xu thé chung của ca nước, Ha Nội là
thành phố tiễn tới mạnh mẽ nhất trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, mật độ dân số rất cao, tình trạng đất chật người đơng, số dân đông đảo từ các tinh khác đồ về làm ăn, sinh sống dẫn đến khó quản lý kiểm sốt gây bất 6n
trong một bộ phận nhân dân. Bên cạnh đó, Hà Nội là thành phó tập trung các cơ
quan Nhà nước Trung ương đầu não, trường hợp người dân tụ tập với số lượng đơng biểu tình, cản trở, gây sức ép và phản đối các chủ trương chính sách của Nhà nước, các cơng trình đầu tư thi công, tụ tập trước các trụ sở Cơ quan nhà nước, cản trở giao thông, gây mất trật tự công cộng ngày càng nhiều nhưng con số xử ly thì q ít và đường như cịn nhiều e ngại khơng xử lý triệt dé.
Với chức năng thực hành quyên công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, VKS phải là đơn vị đi đầu, định hướng quan trọng trong việc điều tra xác định tội danh gây rỗi trật tự cơng cộng. Góp phần củng cơ tình hình an ninh địa phương, trật tự an tồn xã hội, khơng dé bỏ lọt tội phạm hay làm oan
<small>người vô tội. Do đó, hơn lúc nào hét vân dé thực hành quyên công tô và kiêm</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">án gây rối trật tự cơng cộng nói riêng cần được nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Với mong muốn góp phan làm sáng tỏ hơn một số van đề lý luận và thực tiễn hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rôi trật tự công cộng, đồng thời đề xuất một số giải pháp để nâng cao chất
lượng của hoạt động này trong xu hướng cải cách tư pháp, tác giả chọn đề tài "Thực hành quyên công to và kiểm sát điều tra các vụ án gây rỗi trật tự
công cộng ở thành phố Hà Nội” làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Thực hành qun cơng tố và kiểm sát điều tra là chủ đề đã được nhiều học giả nghiên cứu dưới góc độ lý luận và từ nhiều phương diện khác nhau, trong đó phải kê đến một số cơng trình điển hình như sau:
- Lê Cảm (2001), "Những vấn dé lý luận về chế định quyển công to", Kỷ yếu dé tài khoa học cấp Bộ: Những vấn dé lý luận về quyên công to và việc tổ chức thực hiện quyền công to ở Việt Nam, Viện kiểm sát nhân dân tôi <small>cao, Hà Nội.</small>
- Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thuc hành quyên công tô và kiểm sát
các hoạt động tu pháp trong giai đoạn diéu tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Trịnh Duy Tám (2005), áp dung pháp luật trong thực hành quyên công 166 giai doan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt nam hiện nay,
<small>Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.</small>
- Hà Thị Minh Hạnh (2011), Chất lượng thực hành quyên công tô và kiểm sát diéu tra các vụ án hình sự theo yêu câu cải cách tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội, Luận văn thạc sĩ
<small>Luật học, Hà Nội.</small>
- Bùi Mạnh Cường (2012), Gắn công tố với hoạt động điều tra trong
to tụng hình sự theo tỉnh thân Nghị quyết Đại hội Đảng lan thứ X - Một số
<small>van dé ly luận và thực tiên, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">tổ tụng hình sự. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình khoa học nào nghiên cứu
hoạt động thực hành công tố và kiểm sát điều tra cụ thê đối với vụ án gây rỗi trật tự cơng cộng. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài "Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội" là một
địi hỏi cấp thiết, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc.
3. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài. - Mục dich của dé tài.
Luận văn nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận thực trạng và đưa ra các đề xuất, phương hướng để nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều các tra vụ án gây rối trật tự cơng cộng nói riêng và các vụ án hình sự nói chung. Qua đó góp phần hồn thiện các qui định của pháp luật hình sự về tội gây rỗi trật tự công cộng, pháp luật t6 tụng hình sự trong thực hành quyền cơng tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp mà Nghị quyết số 49/NQ/TW của Bộ Chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) đề ra.
- Nhiệm vụ của đ tài
Đề đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
+ Phân tích cơ sở lý luận về thực hành quyền công tố và kiêm sát điều tra.
<small>+ Phân tích thực trạng thực hành quyền cơng tơ và kiểm sát điều tra vụ</small>
án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội, những khó khăn, vướng mắc gặp phải, ngun nhân dẫn đến tình trạng đó.
+ Đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thực hành quyền công tô và kiểm sát điều tra.
+ Đưa ra được những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành
quyền cơng tố và kiểm sát điều tra nói chung, chất lượng thực hành quyền công tô và kiểm sát điều tra đối với vụ án gây rối trật tự cơng cộng ở thành
<small>phơ Hà Nội nói riêng.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">tụng hình sự Việt Nam về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự và hoạt động thực hành quyền cơng tố và kiểm sát điều tra các vụ
án gây rối trật tự công cộng của Viện kiêm sát nhân dân thành phố Hà Nội. <small>- Phạm vi nghién cứu</small>
Luận văn nghiên cứu lý luận về thực hành quyền công tô và kiểm sát điều tra và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây
rỗi trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội. Đánh giá những ton tại, hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế của hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng. Dua ra những van dé cần làm sáng tỏ trong khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng, đồng thời đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền cơng tố và hồn thiện các qui định của
pháp luật hình sự và tố tụng hình sự liên quan.
Về thời gian: Luận văn nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án gây tối trật tự công cộng trong 05 năm
<small>(2011 - 2015).</small>
<small>5. Phương pháp nghiên cứu</small>
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyên, về chính sách tố tụng hình sự và hình sự, về van dé nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố trong cải cách tư pháp mà Nghị quyết
Đại hội Dang VIII, IX, X và các Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002,
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến
<small>năm 2020 của Bộ Chính tri.</small>
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thé và đặc thù của khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê dé tong hợp các tri thức khoa học luật tố tụng hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu
<small>trong luận văn.</small>
6. Những điểm mới và đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện lý luận và thực tiễn, vi đây là cơng trình nghiên cứu dau tiên và có hệ thống Ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học về hoạt động thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự cơng cộng mà trong đó giải quyết nhiều vấn đề quan trọng trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự và hình sự dé làm sáng tỏ các van đề cần chứng minh trong vụ án hình sự thơng qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của VKS. Những điểm mới cơ bản của luận văn là:
- Phản ánh được thực trạng thực hành quyên công tố và kiểm sát điều
tra vụ án gây rỗi trật tự công cộng;
- Phân tích, đánh giá, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế mà hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng <small>thường gặp phải;</small>
- Đưa ra những vấn đề cần lưu ý, những kinh nghiệm khi thực hành quyên công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây tối trật tự cơng cộng.
- Đề xuất hồn thiện các qui định của pháp luật tố tụng hình sự cũng như pháp luật hình sự liên quan đến thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra vụ án gây rối trật tự công cộng trong chiến lược cải cách tư pháp hiện nay.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo cần thiết và bố ích
<small>dành cho khơng chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cánbộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc</small> chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật. Kết quả nghiên cứu
của luận văn còn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cán bộ đang công tac tại các Cơ quan điều tra, VKS trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">thêm lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra. Đồng <small>thời còn được sử dụng như một tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu</small> giảng dạy và học tập tại các trường đào tạo luật và Trường Đại học Kiểm sát.
- Y nghĩa thực tiễn của luận văn.
Kết quả nghiên cứu của luận văn được sử dụng trong thực tiễn nhằm
góp phần giúp VKS nhân dân thành phố Hà Nội cũng như VKS nhân dân các
địa phương trong cả nước nâng cao được chất lượng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các vụ án gây rối trật tự cơng cộng.
8. Cau trúc của đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số van đề chung về thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng.
Chương 2: Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội
Chương 3: Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">1.1. Khai niệm, đối tượng, phạm vi thực hành quyền công tố các vụ án gây roi trật tự công cộng
<small>Quyên công tô</small>
Ở Việt Nam, theo lịch sử lập hiến thì Hiến pháp năm 1980 là văn bản pháp lý đầu tiên của nhà nước ta đề cập đến thuật ngữ “thực hành quyền công tố” khi đề cập đến chức năng của VKS nhân dân (Điều 138). Sau đó thuật ngữ
này tiếp tục được nhắc lại trong Hiến pháp năm 1992 (sửa đối, b6 sung năm 2001, 2013), Hién pháp năm 2013, BLTTHS năm 1988, BLTTHS năm 2003,
Luật tổ chức VKS nhân dân năm 1981, Luật tổ chức VKS nhân dân năm 1992, Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2002, pháp lệnh KSV 2011... Tuy nhiên, ké từ đó đến nay, mặc dù đã có nhiều tài liệu nghiên cứu, bài viết trên các tạp chí đề cập đến các khái niệm này với những mức độ khác nhau, song cho đến nay khi chúng ta đang trong quá trình day mạnh cải cách tư pháp, vẫn chưa có sự thống nhất cao trong nhận thức về van dé này, do đó vẫn chưa có
một khái niệm chính thống.
Từ điển luật học ghi: Công tô “!à quyén của Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm lội vr
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy tồn tại một số quan điểm
về khái niệm quyền công tố, mỗi quan điểm trong số đó đều có những hạt nhân hợp lý của nó nhưng cũng đều bộc lộ những bat cập: Hoặc là coi quyền
công tố chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, dẫn đến việc xem nhẹ bản chất của quyên công tố như là hoạt động độc lập của VKS nhân danh quyền lực
công. Hoặc là quá thu hẹp phạm vi quyền công tố, coi quyền công tổ là quyền của VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án và thực hiện việc buộc tội tại phiên tịa
hình sự sơ thấm. Mặt khác, các quan điểm đó khơng phân định rõ ràng khái
<small>' Viện khoa học pháp lý — Bộ tư pháp (2006), Tir điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa — Nxb Tư pháp, tr.188</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Dé dua ra được quan niệm dung về quyên công tô can phải xem
xét no trong moi quan hệ với tính đặc thù cua một lĩnh vực pháp luật cu
thể, qun cơng tơ chỉ có thé được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật mà từ đó cội nguồn lịch sử của nó đã gắn lién, không thể
tách rời việc nhân danh nhà nước (nhân danh cơng qun) chống lại
hình thức vi phạm pháp luật nghiêm trong nhất đó (do là tội phạm) tức lĩnh vực tổ tụng hình sự z
Quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tdi. Quyền cơng tơ được thực hiện bởi một cơ quan nhất định (ở nước ta là VKS), có trách nhiệm đảm bảo việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ để xác định tội phạm và người phạm tội, trên cơ sở đó quyết định việc truy tố bị can ra trước Tòa án bang bản cáo
trạng và bảo vệ sự buộc tội tại phiên tịa”.
Có thể hiểu: Quyền cơng tố là quyền nhân danh Nhà nước thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Quyền này thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho một cơ quan thực hiện (ở nước ta là VKS) để phát hiện tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. Dé làm được điều này, cơ quan có chức năng THQCT phải có trách nhiệm bảo đảm việc thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ dé xác định tội phạm và người phạm tội. Trên cơ sở đó quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án và <small>bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tịa.</small>
Từ những nội dung trên có thé rút ra định nghĩa: Qun cơng to là quyên nhân danh Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm
<small>> Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thuc hành quyén công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giaiđoạn điều tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.38.</small>
<small>3 Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giaiđoạn diéu tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.40</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">Khái niệm thực hành qun cơng tơ
Khái niệm THQCT hiện nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau đồng
nhất. Có quan điểm đồng nhất quyền cơng tố với THQCT. Có quan điểm gắn việc THQCT của Cơng tố viên trong tố tụng hình sự. Và cũng chưa phân biệt
rành mạch hành vi tố tụng nao là THQCT, hành vi tố tụng nao là thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tơ tụng hình sự. Cho đến nay, nhận thức của khơng ít người làm cơng tác nghiên cứu và thực tiễn của
các cơ quan tư pháp còn nhầm lẫn giữa quyền công tổ và THQCT, giữa thâm quyền của VKS và các quyền năng pháp lý dé thực hiện thâm quyền đó.
Từ điển Luật học giải thích:
Thực hành qun công tô là việc sử dụng tổng hop các quyén năng pháp lý thuộc nội dung quyên công tô để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn diéu tra, truy tô và xét xử `.
Từ Hiến pháp năm 1959, 1981, 1992, 2013 và các Luật tô chức VKS <small>nhân dân năm 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 thì chỉ có VKS là cơ quan duy</small> nhất THQCT. Pháp luật qui định một loạt những nhiệm vụ, quyền hạn nhằm
xác lập cho VKS các quyền năng pháp lý cần thiết để thực hiện chức năng của minh trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. THQCT là chức năng mà không cơ quan nhà nước nào làm thay VKS. Van dé này, tháng 7 năm 1967, khi Uy ban Thường vụ Quốc hội thảo luận báo cáo của VKS nhân dân tối cao, Đồng chí Trường Chinh, Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội lúc đó đã kết luận: "Khơng có cơ quan nhà nước nào có thể thay thế ngành kiểm sát để sử dụng
quyên công tố. Bắt giam, điều tra, tha, truy tố, xét xử có đúng người, đúng tội
hay khơng, có đúng đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước hay khơng, điều đó chính là việc VKS phải trông nom bảo đảm làm tốt". Việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
<small>* Viện khoa học pháp lý — Bộ tư pháp (2006), Tir điển luật học, Nxb Từ điển Bách khoa — Nxb Tư pháp, tr.188.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">kẻ phạm tội gọi là THQCT. Từ những nội dung trên, tôi đồng ý với quan
điểm: Thuc hành quyên công tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyên tiễn hành các hoạt động do Nhà nước qui định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm.
Như vậy, Thực hành quyên công tô trong diéu tra các vụ án gây rồi trật tự công cộng là việc cơ quan nhà nước có thầm quyền tiến hành các hoạt
động do Nhà nước qui định nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng.
Đối tượng thực hành quyên công tô trong điều tra vụ án hình sự là
hành vi phạm tội được qui định trong BLHS. Đối tượng của hoạt động
THQCT trong điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng là hành vi gây rối
<small>trật tự công cộng.</small>
Phạm vi thực hành quyển công tô trong diéu tra vụ án hình sự chính là việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội được giới hạn trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Pham vi THQCT trong điều tra các vụ án gây rỗi
trật tự công cộng chính là việc buộc tội của nhà nước đối với người phạm tội gây rối trật tự công cộng được giới hạn trong giai đoạn điều tra vụ án gây rối
trật tự công cộng. Pham vi THQCT bat dau từ khi khởi tố vụ án và kết thúc
<small>khi bản án có hiệu lực pháp luật, khơng bị kháng nghị hoặc vụ án được đình</small> chỉ khi có một trong những căn cứ do luật tổ tụng hình sự qui định.
1.2. Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng
KSĐT nói một cách đầy đủ đó là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
Kiểm sát hoạt động tu pháp
<small>Hoạt động tư pháp hình sự là hoạt động cua các cơ quan tu</small> pháp, bồ trợ tư pháp trong quá trình tiễn hành tơ tụng nhằm giải quyết các vụ an hình sự. Hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự là hoạt động của Cơ quan diéu tra, của các cơ quan duoc giao
<small>nhiệm vụ tiên hành một sô hoạt động điêu tra, hoạt động của các cơ</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">quan bổ trợ tr pháp và hoạt động chức năng của Viện kiểm sát nhằm dam bảo cho việc giải quyết vu án hình sự được đúng người, đúng tội, dung pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là một dạng giám sát về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát trực tiếp các hoạt động cụ thé của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được
giao một số thẩm quyên tư pháp trong quá trình tiến hành tố tụng. Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động thực hiện quyền lực Nhà nước, do Quốc hội
giao cho VKS nhăm mục đích bảo đảm pháp chế trong hoạt động tư pháp. Hoạt động tư pháp là các hoạt động liên quan đến quá trình giải quyết các vụ án và các tranh chấp bao gồm các hoạt động điều tra, thu thập tài liệu, chứng cứ như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành các quyết định của Tịa án trong cả lĩnh vực hình sự, dân sự và hành chính, kinh tế... Từ đó, hoạt động tư pháp hình sự có thé hiểu là hoạt động của cơ quan tư pháp trong việc thực thi quyền lực Nhà nước trong tố tụng hình sự.
Theo qui định của pháp luật, VKS thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gắn liền với các lĩnh vực khác nhau bao gồm kiểm sát các hoạt động của các cơ quan tiễn hành tố tụng hình sự và tố tụng tư pháp khác trong lĩnh vực giải quyết các vụ án dân sự, hơn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động... Gan liền với tố tụng hình sự là các công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án
hình sự của CQDT - KSDT, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét
xử các vụ án hình sự - Kiểm sát xét xử và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án và các quyết định của Tịa án nhân dân. Cả ba
lĩnh vực cơng tác đó hợp thành kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Mục đích của kiểm sát hoạt động tư pháp nhằm phát hiện kịp thời để loại trừ vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiễn hành
<small>> Lê Hữu Thể (Chủ biên) (2005), Thực hành quyên công tô và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giaiđoạn điêu tra, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.84.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">tố tụng và người tham gia tố tụng. Mục đích chung của hoạt động kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS là nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự và
các tranh chấp khác. Mục đích của kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự là nhằm đảm bảo các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử
đúng pháp luật, đúng người, đúng tội, không dé xảy ra việc oan, sai hay bỏ lọt <small>tội phạm.</small>
Đối tượng kiểm sát hoạt động tư pháp chủ yếu tập trung vào hoạt động
áp dụng pháp luật của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thâm quyên thực hiện một số hoạt động tư pháp theo qui định của pháp luật tô tụng. Phạm vi của kiểm sát hoạt động tư pháp bắt đầu từ khi vụ án hình sự được khởi tố và kết thúc khi người phạm tội đã thi hành xong bản án. Nội dung kiểm sát hoạt động tư pháp là kiểm tra và giám sát mọi hoạt động của các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao nhiệm vụ thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự và các
<small>hoạt động tư pháp khác theo qui định của pháp luật.</small>
Kiểm sát điều tra là một hình thức kiểm sát hoạt động tư pháp và là một nhiệm vụ, đồng thời cũng là chức năng của VKS. Theo qui định của pháp <small>luật, trong lĩnh vực hình sự, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ THQCT và</small>
kiểm sát các hoạt động tư pháp bằng các công tác khác nhau gan với các giai đoạn t6 tụng khác nhau: THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQDT; THỌCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành các bản án hình sự và các quyết định của Tòa án nhân dân (Điều 4 Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014). Ứng với mỗi công tác này,
Luật Tô chức VKS nhân dân năm 2014 qui định một chương riêng biệt. Trong
đó, tại chương II, các mục 2 (gồm các điều 14, 15) qui định cụ thể về nhiệm
vụ, quyền hạn của VKS nhân dân khi THỌCT và kiểm sát tuân theo pháp luật
trong việc điều tra các vụ án hình sự của CQDT (cơng tác thứ nhất) với tiêu
<small>đê "Thực hành quyên công tô và Kiém sát điêu tra vụ án hình su". Như vậy,</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">KSĐT là một bộ phận cau thành của kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mục
đích của hoạt động KSDT là nhằm cho pháp luật được thực hiện nghiêm
chỉnh, thống nhất.
Trong giai đoạn điều tra, đối tượng của KSĐT là hành vi và quyết
định của CQĐT và các cơ quan được giao tiễn hành một số hoạt động điều
tra. Sau khi vụ án được khởi tố, giữa các chủ thé tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng phát sinh những quan hệ tố tụng, các quan hệ này tồn
tại trong suốt cả quá trình giải quyết vụ án hình sự. Trong giai đoạn điều tra thì đó là mối quan hệ giữa CQDT và VKS, là các hoạt động của CQDT được thực hiện bởi các Điều tra viên, là các hành vi của các DTV, là các quyết định
của CQDT, là hành vi của những người tham gia tố tụng... Đồng thời với sự xuất hiện của các hoạt động t6 tụng cũng xuất hiện địi hỏi có sự giám sat việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo cho pháp luật được tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh. Pham vi của hoạt động KSDT vu án hình sự được bắt đầu từ khi hoạt động điều tra vụ án được tiến hành và kết thúc khi đạt được mục đích, yêu cầu dé truy t6 hoặc không truy tố người phạm tội ra trước Tòa án hoặc khi vụ án được đình chỉ theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự.
Nội dung của KSĐT chính là các nhiệm vụ và quyền hạn mà pháp luật
tố tụng hình sự qui định khi KSĐT. Theo Điều 113 BLTTHS năm 2003, nội
dung của KSĐT là: Kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQDT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tiễn hành và tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thâm quyền điều tra theo qui định của pháp luật; yêu cầu CQDT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh DTV có vi phạm kỷ luật khi tiễn hành điều tra; kiến nghị với cơ quan, tô <small>chức hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm va vi phạm phápluật....</small>
Như vậy, KSĐT các vụ án gây rồi trật tự cơng cộng là kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp các hoạt động tơ tụng hình sự được thực hiện bởi CODT và các cơ quan khác được giao tiễn hành một số hoạt động điều tra
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">trong vụ án gây rồi trật tự công cộng nhằm bảo đảm việc điều tra đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và không làm oan
<small>người vô lội.</small>
Đối tượng của KSĐT các vụ án gây rối trật tự công cộng là hành vi và quyết định của CQDT và các cơ quan được giao tiễn hành một số hoạt động
điều tra trong các vụ án gây rối trật tự công cộng.
Phạm vi của hoạt động KSĐT các vụ án gây roi trật tự công cộng được bắt đầu từ khi hoạt động điều tra vụ án được tiến hành và kết thúc khi đạt được mục đích, yêu cầu dé truy tố hoặc không truy tô người phạm tội ra trước Tòa án hoặc khi vụ án được đình chỉ theo qui định của pháp luật tố tụng
<small>hình sự.</small>
1.3. Nhận thức chung về tội phạm gây rối trật tự công cộng
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng với <small>sự ra đời của nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành các</small>
giai cấp đối kháng. BLHS Việt Nam năm 1999 qui định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được qui định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cổ ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyên, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thé Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nên văn hóa,
quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, quyên, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyên, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm
những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa".
<small>Trật tự công cộng là một mặt của trật tự, an toàn xã hội và có nội dung</small>
bao gồm những qui định chung về trật tự, vệ sinh, văn hóa, sự tuân thủ những
<small>qui định của pháp luật và phong tục, tập quán, sinh hoạt được mọi người thừa</small> nhận, tình trạng yên ôn, có trật tự, tôn trọng lẫn nhau trong lao động, sinh hoạt, nghỉ ngơi. Như vậy, trật tự công cộng cũng có thé hiểu là hệ thống các <small>° Quốc hội (1999), Bộ /uật hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">quan hệ xã hội được hình thành và điều chỉnh bởi các qui định của pháp luật
và các nội quy quy tắc về trật tự chung, an toàn chung mà đòi hỏi mọi thành viên của xã hội phải tuân thủ theo những qui định chung đó nhằm đảm bảo
cho cuộc sống, lao động, sinh hoạt bình thường của mọi người trong xã hội.
Như vậy, tội gây rỗi trật tự cơng cộng có thể hiểu là hành vi hò hét,
làm náo động, phá phách, hành hung người khác hoặc có hành vi khác làm rối
<small>loạn các hoạt động ở những nơi công cộng, gây thiệt hại cho trật tự an tồn</small> cơng cộng, do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách
<small>nhiệm hình sự thực hiện, gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành</small>
chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm. lội gây rỗi trật tự công cộng được qui định tại Điều 245 BLHS năm 2003’ như sau:
Diéu 245. Tội gáy rồi trật tự công cộng.
1. Người nào gây rồi trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa an tích mà cịn vi phạm, thì bị phat tiền từ một triệu đơng đến mười triệu dong, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
<small>2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt</small> tù từ hai năm đến bảy năm:
<small>a) Có dùng vũ khi hoặc có hành vi pha phách;</small> b) Có tổ chức;
<small>c) Gây can trở giao thơng nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạtđộng cơng cong;</small>
d) Xúi giục người khác gây rồi;
<small>đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;</small> e) Tái phạm nguy hiểm ”°.
<small>7 Quốc hội (2015), Bộ /uật hình sự, Hà Nội.Š Quốc hội (1999), Bộ ludt hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">So với Điều 245 BLHS năm 1999 thì Điều 318 BLHS năm 2015 qui
định về tội phạm nay có những sửa đối, bố sung như sau:
Nếu khoản 1 Điều 245 BLHS năm 1999 qui định “người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xố án tích mà cịn vi phạm” thì khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015 qui định “Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Việc sửa đổi, bố sung nay đã làm cho phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với hành vi gây rối trật tự cơng cộng rộng hơn nhiều.
Về hình phạt, khoản 1 Điều 245 BLHS năm 1999 có mức phạt tiền từ
một triệu đến mười triệu đồng, còn khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015 qui định mức phạt tiền từ năm triệu đến năm mươi triệu đồng.
Khách thể của tội phạm
Tội gây rỗi trật tự công cộng là tội xâm phạm đến an tồn cơng cộng, đến các quy tắc, sinh hoạt, đi lại, làm việc, vui chơi...ở nơi cơng cộng, gây ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của mọi người ở nơi cơng cộng. Ngồi
ra, tỘIi gây rỗi trật tự cơng cộng cịn gây khó khăn, trở ngại cho hoạt động của <small>những người trong cơ quan nhà nước và xã hội làm nhiệm vụ bảo vệ trật tựcông cộng.</small>
<small>Mặt khách quan của tội phạm</small>
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối băng nhiều phương thức khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự công cộng; có lời nói, cử chỉ tiếp xúc với người khác ở nơi công cộng
với thai độ tỏ ra coi thường trật tự xã hội chung; đi đánh nhau, hị hét gây <small>náo động ở nơi công cộng; đập pha các cơng trình ở nơi cơng cộng, đập phácác tài sản trong các, qn ăn, qn giải khát có đơng người v.v...</small>
Hành vi gây rối trật tự công cộng phải gáy hậu qua nghiêm trọng hoặc trong trường hợp đã bị xử lý hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về
tội này, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm. So sánh khoản 1 Điều 245
BLHS năm 1999, khoản 1 Điều 318 BLHS năm 2015 đã được lược bỏ dấu
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">hiệu hậu qua "gây hậu quả nghiêm trọng" mà trong luật cũ vừa là dau hiệu bắt
buộc, vừa là dau hiệu không bắt buộc mà thay vào đó là dấu hiệu “gáy ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Luật mới qui định như sau:
Người nào gây rồi trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về
hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa an tích mà cịn vi pham...’”.
Theo tơi, qui định mới như vậy sẽ gây khó khăn trong việc xác định thé nào là gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội bởi qui định <small>mang tính định tính như vậy phụ thuộc vào ý thức chủ quan của người ápdụng pháp luật, không rõ ràng ranh giới giữa hành vi bị xử lý hành chính vớitội phạm bị xử lý hình sự.</small>
Thực tiễn cho thấy, đối với hành vi gây rối trật tự công cộng thường là hành vi khởi đầu cho những hành vi phạm tội khác kế tiếp như: giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành cơng vụ, huỷ hoại hoặc cô ý làm hư <small>hỏng tài sản... Tuy nhiên, cũng có trường hợp từ hành vi phạm tội khác mà</small>
dẫn đến hành vi gây rỗi trật tự công cộng như: tổ chức dua xe trái phép, đua
xe trái phép, đánh bạc, vi phạm các qui định về điều khiển phương giao thông đường bộ... Những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trong các trường hợp này là người có liên quan đến hành vi phạm tội khác nhưng vì khơng đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đó.
Chủ thể của tội phạm
Chủ thé của tội phạm này là chủ thé thường, chỉ cần người có hành vi gây rỗi trật tự cơng cộng đạt độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thé là chủ thé của tội phạm này.
Tuy nhiên, theo qui định tại khoản 2 Điều 12 BLHS thì người từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội rất nghiêm trọng va đặc biệt
nghiêm trọng, trong khi tội gây rối theo phân loại tội tại Điều 8 BLHS thì thuộc <small>? Quốc hội (2015), Bộ /uật hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">loại tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng. Do đó, chỉ người đủ l6 tudi trở lên
mới là chủ thể của tội phạm này.
Ngoài ra, người có hành vi gây rối trật tự cơng cộng bị truy cứu trách
nhiệm hình sự nếu người đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã
bị kết án về tội này, chưa được xố án tích mà còn vi phạm.
<small>Mặt chủ quan của tội phạm</small>
Tội phạm này được thực hiện do lỗi cỗ ý và không có động cơ, mục
đích chống chính qun nhân dân.
1.4. Đặc điểm thực hành quyên công tô và kiểm sát điều tra vụ an gây rỗi trật tw công cộng
Từ nhận thức chung về hoạt động THQCT và KSDT, và đặc điểm riêng của tội gây rỗi trật tự công cộng, ta có thé rút ra được những đặc điểm sau của hoạt động THQCT và KSDT các vụ an gây rỗi trật tự công cộng:
- Hoạt động THQCT và KSDT các vụ án gây rỗi trật tự công cộng bắt đầu từ thời điểm giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố về hành vi gây rối trật tự công cộng.
- Chủ thê thực hiện hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối trật
tự cơng cộng chỉ có thé là KSV và Viện trưởng, Phó Viện trưởng có thầm quyên. Hoạt động nay gắn chặt với hoạt động điều tra của CQDT.
- Hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây rối trật tự công cộng
<small>luôn đặt trong sự so sánh, ly lai với các tội phạm khác khi mà sự việc xảy ra</small>
không phản ánh ngay cấu thành tội gây rối trật tự công cộng, cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự cơng cộng nhưng đã cấu thành một tội khác như Cổ ý gây thương tích, hủy hoại tài sản, giết người, dua xe trái
- Hoạt động THQCT và KSDT các vụ án gay rỗi trật tự công cộng <small>phải lưu ý việc thu thập chứng cứ chứng minh “hậu quả nghiêm trọng” của tội</small> phạm này thê hiện sự việc diễn ra ở nơi công cộng: hoạt động của cơ quan <small>nhà nước, tô chức kinh tê, tô chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân bị ảnh</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">hưởng nghiêm trọng bởi hành vi của người phạm tội; thời gian ùn tắc giao <small>thơng; tỷ lệ thương tích; định giá tài sản...</small>
- Tình tiết định tội “gây hậu quả nghiêm trong” ảnh hưởng xấu đến an <small>ninh, trật tự, an tồn xã hội mang tính định tính chứ khơng phải là một tình</small>
tiết mang tính định lượng như tỷ lệ thương tích như đối với tội cố ý gây
thương tích hay trị giá tài sản ở tội trộm cắp tài sản. Nên hoạt động THQCT
gặp nhiều khó khăn trong việc đánh giá, nó phụ thuộc khá nhiều vào ý thức chủ quan của mỗi người để định tội.
- Đề thực hiện hoạt động THQCT và KSDT các vụ án gây rỗi trật tự
công cộng, KSV chỉ được áp dụng các biện pháp theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự và tuân theo chức năng, quyền hạn theo qui định của pháp luật.
- Hoạt động THQCT và KSDT các vụ án gây rỗi trật tự công cộng được diễn ra trực tiếp, đồng thời và toàn điện nhằm mục đích bảo đảm tuân thủ pháp luật trong giai đoạn điều tra, củng cố chứng cứ chứng minh tội phạm, tạo điều kiện cho giai đoạn truy tố, xét xử sau này.
1.5. Mỗi quan hệ giữa thực hành quyền công to và kiểm sát điều tra các vụ án gây rồi trật tự công cộng
Theo qui định của BLTTHS năm 2003 và Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014, chức năng tổ tụng hình sự của VKS là THỌCTT và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự. Theo qui định khoản 1 Điều 2 Luật Tổ chức VKS nhân dân năm 2014, VKS nhân dân THỌCT và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra vụ án hình sự của CQDT và các cơ quan khác được giao nhiệm vu tiễn hành một số hoạt động điều tra.
Theo qui định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức VKS nhân
<small>dân năm 2014, VKS có hai chức năng trong lĩnh vực tư pháp hình sự là</small> THQCT và kiểm sát hoạt động tư pháp. Hai chức năng này độc lập nhưng có
mỗi quan hệ mật thiết với nhau. Tuy ở từng giai đoạn tố tụng, các chức năng
này thé hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau với các nội dung khác nhau nhưng du ở giai đoạn nào thì chúng cũng thé hiện mối quan hệ gắn bó
hữu cơ, đan xen và bố sung một cách tích cực cho nhau. Mục dich THQCT là
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">nhằm chứng minh tội phạm và xác định người phạm tội cịn mục đích của
cơng tác KSĐT để đảm bảo các hoạt động điều tra được đúng đắn, khách quan theo qui định của pháp luật. Cơng tác KSĐT có hiệu quả sẽ là điều kiện giúp cho việc THQCT được đúng đắn, kết quả hoạt động KSĐT sẽ là cơ sở cho việc thực hiện chức năng công tổ và THQCT trong giai đoạn điều tra một cách có hiệu quả và ngược lại, cơng tác THQCT có hiệu quả sẽ tạo điều kiện
<small>cho hoạt động KSDT xác định kip thời các vi phạm pháp luật trong quá trình</small> điều tra, đảm bảo việc điều tra phải khách quan, tồn diện, đây đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm trong quá trình điều tra phải được phát hiện,
khắc phục kịp thời và xử lý nghiêm minh. Chỉ thực hiện tốt đồng thời hoạt động THQCT và KSĐT thì VKS mới có thé hồn thành tốt được và đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đặt ra: Không dé người nao bi khởi t6, bi bat, bi tam giữ, tạm giam, bị hạn chế quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật; không dé lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với nguoi
phạm tội phải đúng pháp luật, có căn cứ; việc điều tra phải được tiến hành <small>một cách khách quan, tồn diện, chính xác..., những vi phạm pháp luật trong</small>
quá trình điều tra phải được phát hiện kịp thời và khắc phục ngay. Do vậy
không thé tách rời công tác THQCT và KSĐT. Mối quan hệ đó được thé hiện
<small>ở các phương diện sau:</small>
Đề thực hiện tốt việc THQCT các vụ án gay rỗi trật tự cơng cộng, có nghĩa là bảo đảm việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn việc áp dụng, thay
đối, huỷ bỏ các biện pháp ngăn chặn; phê chuẩn hoặc không phê chuẩn các
quyết định tố tụng khác của CQDT chính xác, đúng pháp luật, địi hỏi phải
kiểm tra chặt chẽ tính có căn cứ và tính hợp pháp của các biện pháp cưỡng
chế tố tụng hình sự mà CQDT quyết định áp dụng, hoạt động kiểm tra này
chính là thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trên cơ sở kết
quả của hoạt động KSĐT các vụ án gây rối trật tự công cộng thấy rằng, quyết định áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự có căn cứ và hợp pháp thì VKS sẽ quyết định phê chuẩn dé thi hành, ngược lại, nếu xét thấy khơng
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">có căn cứ và không hợp pháp, VKS sẽ quyết định không phê chuẩn hoặc quyết định huỷ bỏ quyết định tố tụng trái pháp luật của CQDT.
Việc thực hiện công tác KSĐT các vụ án gây rối trật tự công cộng sẽ làm tiền đề cho hoạt động THQCT được thực hiện một cách chính xac, nếu có sai sót, vi phạm trong việc thực hiện kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra sẽ kéo theo sự vi phạm pháp luật của hoạt động THQCT. Tuy
nhiên, trong giai đoạn điều tra khi hoạt động THQCT của VKS được thực hiện cũng sẽ làm tiền đề phát sinh hoạt động KSĐT. Ví dụ, khi VKS phê chuẩn lệnh bắt khan cấp của CQDT thì làm phát sinh hoạt động kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tam giữ người bị bắt của CQDT nhằm bảo đảm việc tạm giữ người phải có lệnh và quyết định phê chuẩn của VKS, đồng thời bao
<small>đảm thời hạn tạm giữ đúng theo qui định của pháp luật.</small>
THQCT và KSĐT các vu án gây rối trật tự công cộng luôn có mối quan hệ chặt chẽ, gan bó hữu co và biện chứng với nhau, nhiệm vu của hoạt động này làm tiền đề cho nhiệm vụ của hoạt động kia và ngược lại, kết quả của hoạt động này là cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động kia. Mối quan hệ biện chứng giữa hai hoạt động THQCT và KSĐT các vụ án gây tối trật tự công cộng chi song song tổn tại trong phạm vi bắt đầu từ khi khởi tố vụ án
gây rối trật tự cơng cộng cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật, không bị <small>kháng nghị.</small>
1.6. Qui định của pháp luật về thực hành quyên công to và kiểm sát điều tra
Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, hai chức năng THQCT và KSĐT được thé hiện thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của VKS nhân dân khi THQCT và KSDT, qui định tại các Điều 14, 15, 1ó, 17 Luật
Tổ chức VKS nhân dân năm 2014; các Điều 112, 113 BLTTHS năm 2003.
- Nhiệm vụ, quyên hạn của VKSND khi THỌCT trong giai đoạn điều tra vụ dn hình sự (Điễu 112 BLTTHS)
Một là, khởi t6 vụ án hình sự, khởi tổ bị can; yêu cầu CQDT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can. Khi THQCT
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự, tuỳ từng trường hợp ma VKS thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn tự mình khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can hoặc
yêu cầu CQDT khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự.
<small>+ Khởi tơ vụ án hình sự</small>
Theo qui định của BLTTHS năm 2003 thì việc khởi tố vụ án hình sự
do CQDT thực hiện là chủ yếu. Thủ trưởng đơn vị Bộ đội biên phòng, cơ
quan Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và Thủ trưởng các cơ quan khác của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiễn hành
một số hoạt động điều tra ra quyết định khởi tố vụ án trong những trường hợp qui định tại Điều 111 của BLTTHS. VKS chỉ trực tiếp khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS huy bỏ quyết định không khởi tố vụ án hình sự của CQDT và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự và trong thời hạn 24 giờ phải gửi quyết định đó đến CQDT để tiễn hành điều tra.
VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi tố vụ án. Nếu qua việc xét xử tại phiên tòa, phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra thì Hội đồng xét xử có quyền ra quyết định khởi tố hoặc yêu cầu VKS khởi t6 vụ án hình sự. Trong trường hợp Tịa án ra quyết định khởi tố vụ án hình sự thì phải gửi quyết định khởi tố tới VKS để xem xét, quyết định việc điều tra. Đối với quyết định khởi tơ vụ án hình sự của Tịa án khơng có căn cứ, VKS có quyền kháng nghị lên Tịa án cấp trên để xem xét giải quyết.
Mặc dù khoản 3 Điều 14 Luật tổ chức VKS nhân dân năm 2014 và điểm a khoản 2 Điều 36 BLTTHS năm 2003 qui định khi THQCT trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn khởi tố vụ án
hình sự, nhưng tại Điều 104 BLTTHS năm 2003 lại qui định: “VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình sự trong trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không
khởi t6 vụ án của các cơ quan qui định tại khoản này và trong trường hợp Hội đồng xét xử yêu cầu khởi t6 vụ án”. Chính vì sự khơng thống nhất trong qui
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">định như vậy dan đến thực tế VKS không thé trực tiếp ra quyết định khởi tố vụ án mà chỉ có thé ra yêu cầu khởi tố vụ án.
Điều 153 BLTTHS năm 2015 đã khắc phục được bất cập của Điều 104 BLTTHS năm 2003 khi bổ sung thêm hai căn cứ để VKS khởi tố vụ án
<small>đó là:</small>
b) VKS trực tiếp giải quyết tô giác, tin báo về tội phạm, kiến
nghị khởi to;
c) VKS trực tiếp phat hiện dấu hiệu tội phạm hoặc theo yêu cẩu
khởi tô của Hội đồng xét xử \° + Khởi tổ bị can
VKS chỉ trực tiếp khởi tố bị can trong trường hợp sau khi nhận hồ sơ vụ án và kết luận điều tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạm tội trong vụ án nhưng chưa bị khởi tố, trong các trường hợp khác, việc khởi tố bị can do CQDT thực hiện và VKS có trách nhiệm phê chuẩn việc khởi tố. Sau khi ra quyết định khởi tố bị can, trong thời han 24h, CQDT phải gửi quyết định khởi tố bị can và các tài liệu liên quan đến việc khởi tố bi can đó cho VKS cùng cấp phê chuẩn. Tại khoản 1 Điều 13 Quy chế KSĐT
[54] qui định trong thời hạn 03 ngày ké từ ngày nhận được quyết định khởi tố
bị can của CQDT hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, VKS cùng cấp quyết định phê chuẩn quyết định khởi tố bi can hoặc hủy bỏ quyết định khởi tổ bị can. Qua công tác KSĐT, nếu VKS
<small>phát hiện có người thực hiện hành vi phạm tội chưa bị phát hiện thì VKS yêu</small>
cầu CQDT ra quyết định khởi tố bị can.
Qui định mới của BLTTHS năm 2015 về việc VKS trực tiếp khởi tố bị can đã được sửa đổi theo hướng VKS có quyền ra quyết định khởi tố bị can
trong giai đoạn điều tra nếu phát hiện có người đã thực hiện hành vi ma BLHS qui định là tội phạm nhưng chưa bị khởi tố mà đã yêu cầu nhưng CQĐT không thực hiện, không phải chờ đến khi CQDT kết thúc điều tra và <small>© Quốc hội (2015), Bộ /uật tổ tụng hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">chuyên hồ sơ vụ án mới có quyền khởi tố bị can như hiện nay. Qui định tại
khoản 4 Điều 179 BLTTHS năm 2015 như sau:
<small>Trường hợp phat hiện có người đã thực hiện hành vi mà BLHS</small> qui định là tội phạm chưa bị khởi tơ thì VKS u cầu COPT ra quyết định khởi to bị can hoặc trực tiếp ra quyết định khởi to bị can nếu đã yêu cẩu nhưng CODT không thực hiện `.
Hai là, đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQDT tiễn hành điều tra; khi
xét thay can thiét, KSV truc tiếp tiễn hành một số hoạt động điều tra theo qui
định của pháp luật. Việc đề ra yêu cầu điều tra có thé trực tiếp băng lời nói, khi KSV trực tiếp cùng DTV tiến hành các hoạt động điều tra, như kiểm sát việc khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, khám xét, hỏi cung bị can, lay lời khai, đối chất, thực nghiệm điều tra; hoặc băng văn bản nêu rõ van đề cần điều tra. Nếu xét thấy cần thiết, KSV có thể trực tiếp tiễn hành một số hoạt động điều tra như: hỏi cung bị can, lay lời khai người bi hại, người làm chứng, nguoi CÓ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, đối chất, thực nghiệm điều tra. Việc trực tiếp tiễn hành các hoạt động điều tra phải đảm bảo tuân thủ qui định <small>của pháp luật.</small>
BLTTHS năm 2015 qui định cụ thể hơn các trường hợp VKS được
trực tiếp tiễn hành một số hoạt động điều tra thay vì “xét thấy cần thiết” như
trong qui định cũ tại BLTTHS năm 2003. Việc “xét thấy cần thiết” là qui định <small>còn mang tính định tính phụ thuộc vào nhận định chủ quan của VKS, qui định</small>
mới như vậy đã lượng hóa cụ thể và giới hạn các trường hợp VKS được phép
<small>áp dụng hoạt động này:</small>
7. Trực tiếp tiễn hành một số hoạt động diéu tra trong trường hợp dé kiểm tra, bồ sung tài liệu, chứng cứ khi xét phê chuẩn lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoại động diéu tra hoặc trường hợp phát hiện có dấu hiệu oan, sai, bỏ lọt tội phạm, vi phạm pháp luật mà VKS đã yêu cẩu bằng
<small>!! Quốc hội (2015), Bộ ludt tổ tụng hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">van ban nhưng không được khắc phục hoặc trường hop để kiểm tra, bỗ sung tài liệu, chứng cứ khi quyết định việc truy to.
Ba là, yêu cầu Thủ trưởng CQDT thay đổi DTV theo qui định của Bộ luật này; nếu hành vi của DTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự.
Khi phát hiện thay DTV được phân công tiến hành điều tra vụ án hình
sự thuộc một trong các trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay
đổi theo Điều 42, 44 BLTTHS năm 2003, KSV đề nghị Viện trưởng VKS cấp
minh xem xét để yêu cầu Thủ trưởng CQDT thay đổi DTV. Theo qui định tại khoản 1 Điều 44 BLTTHS năm 2003, DTV phải từ chối tiến hành tố tụng
hoặc bị thay đối, néu họ đồng thời là người bị hại, nguyên don dân sự, bi don dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; là người đại diện
<small>hợp pháp, người thân thích của những người đó hoặc của bị can, bị cáo; họ đãtham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định,</small>
người phiên dich trong vụ án đó; có căn cứ rõ ràng khác dé cho rang họ có thé khơng vơ tư trong khi làm nhiệm vụ hoặc DTV đó đã tiễn hành tố tụng trong vụ án đó với tư cách là KSV, Tham phán, Hội thẩm hoặc Thư ký Tòa án.
Tuy nhiên, đến BLTTHS năm 2015 thì điểm này khơng cịn nằm trong phan nhiệm vụ, quyên hạn của VKS khi THQCT trong giai đoạn điều tra mà lại được coi là nhiệm vu, quyền hạn của VKS khi KSDT va được qui định tại
khoản 7 Điều 166. Đây chính là điểm mới của BLTTHS 2015 chứng tỏ nhận thức của nhà làm luật đã thay đổi và cho răng hoạt động yêu cầu Thủ trưởng CQDT thay đổi DTV của VKS là hoạt động KSĐT chứ không phải hoạt động
<small>THỌC TT.</small>
Bốn là, quyết định áp dụng, thay thế hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm
<small>giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác.</small>
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với người
phạm tội, bị can khi có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn trong công tác điều tra hoặc sẽ tiếp tục phạm tội mới. Theo qui định tại Điều 79 BLTTHS 2003, các biện pháp ngăn chặn bao gồm: Bắt, tạm giữ, tạm giam,
<small>câm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh, đặt tiên hoặc tài sản có giá trị đê bảo đảm.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">VKS có nhiệm vu, quyền hạn phê chuẩn các quyết định của CQDT trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Đối với những biện pháp ngăn chặn do VKS quyết định áp dụng hoặc phê chuẩn, VKS cũng có quyền hủy bỏ hoặc thay đổi khi thấy khơng cịn cần thiết hoặc có thê thay thế bằng biện pháp
<small>ngăn chặn khác.</small>
Năm là, hủy bỏ các quyết định khơng có căn cứ và trái pháp luật của
CQDT; yêu cầu CQDT truy nã bị can.
Trong quá trình KSĐT, nếu xác định quyết định nào đó của CQDT là khơng có căn cứ, VKS có quyền ra quyết định hủy bỏ. Khi bị can trồn hoặc
không biết bị can đang ở đâu, VKS có quyền yêu cầu CQĐT truy nã bị can. Quyết định truy nã phải ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm ra quyết định
truy nã; họ tên, chức vụ người ra quyết định; họ tên, tuổi, nơi cư trú của bị
can; đặc điểm dé nhận dạng bị can, dán ảnh kèm theo, nếu có; tội phạm mà bị can đã bị khởi tố. Quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng dé mọi người phát hiện, bắt, giữ người bị truy nã.
Sáu là, quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm
<small>đình chỉ vụ án.</small>
Sau khi nhận được bản kết luận điều tra đề nghị truy t6 cung hồ sơ vu án, nếu xác định có đủ căn cứ dé truy cứu trách nhiệm hình sự người đã thực
hiện hành vi phạm tội thi VKS ra quyết định truy t6 bị can trước Tòa án, đồng
thời chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cùng quyết định truy tố sang Tòa án dé thực
<small>hiện việc xét xử. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ qui</small> định tại Khoản 2 Điều 164 BLTTHS năm 2003 thì VKS ra quyết định đình chỉ vụ án. Trường hợp quyết định đình chỉ điều tra khơng có căn cứ thì VKS
hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu CQDT phục hồi điều tra, nếu đã đủ căn cứ để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và quyết định truy tố. Trường hợp xác định được có một trong những căn cứ qui định tại
Khoản 1 Điều 160 BLTTHS năm 2003 thì VKS ra quyết định tạm đình chỉ vụ
án. Đối với vụ án có nhiều bị can mà lý do tạm đình chỉ điều tra khơng liên
<small>quan đên tât cả các bị can thì có thê tạm đình chỉ điêu tra đơi với từng bị can.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Trong thực tiễn đối với các vụ án này, CQDT bên cạnh việc ra quyết định tạm
đình chỉ điều tra bị can thì ra quyết định tách vụ án hình sự đối với bị can đã
tạm đình chi và kết luận điều tra dé nghị truy tô đối với các bị can còn lại. Trong trường hợp đã xác định được bị can nhưng do không kịp tiến hành các biện pháp ngăn chặn nên dé bị can bỏ trốn hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu thì phải ra quyết định truy nã trước khi ra quyết định tạm đình chỉ.
Ngồi ra, BLTTHS năm 2015 bổ sung các qui định về việc VKS trực
tiếp khởi t6 vụ án hình sự hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố vụ án hình sự khi phát
hiện hành vi của người có thâm quyền trong việc giửi quyết, tơ giác tin báo;
VKS trực tiếp ra một số quyết định:
“8. Khởi to vụ án hình sự khi phát hiện hành vi của người có thẩm qun trong việc giải quyết tơ giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tổ và trong việc khởi tổ, điều tra có dau hiệu tội phạm; yêu cau Cơ quan diéu tra khởi tô vụ án hình sự khi phát hiện hành vì của người có thẩm qun trong việc giải quyết tơ giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tổ và trong việc khởi tổ, điều tra có dau hiệu tội phạm.
9, Quyết định việc gia hạn thời hạn diéu tra, thời hạn tam giam; quyết
định chuyển vụ án, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; hủy bỏ quyết định tách, nhập vụ an”.
- Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi KSPT vụ án hình sự (Diéu 113
Một là, kiêm sát việc khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của CQDT.
Kiểm sát việc khởi tố là kiểm sát tính có căn cứ, tinh hợp pháp của các quyết định khởi tố của CQDT. Khi thực hiện quyền này, KSV có trách nhiệm
phải kiểm tra tính có căn cứ của quyết định khởi tố. Chỉ được khởi tơ vụ án <small>hình sự khi đã xác định được hành vi phạm tội và dựa trên những cơ sở được</small>
nêu ở Điều 100 BLTTHS năm 2003. Nếu phát hiện việc khởi tổ không theo
<small>"? Quốc hội (2015), Bộ /uật tổ tụng hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">qui định tại điều luật này thì KSV phải báo cáo Viện trưởng VKS để ra quyết định hủy bỏ quyết định khởi t6 đó.
Kiểm sát các hoạt động điều tra do CQĐT tiến hành như: Khám
nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, hỏi cung bi can, lay lời khai người
làm chứng, người bị hại, thực nghiệm điều tra, nhận dạng, đối chất, xử lý vật
chứng, trả lại tài sản... và các hoạt động khác theo qui định của pháp luật tơ tụng
hình sự. Mục đích kiểm sát các hoạt động điều tra là đảm bảo cho các hoạt động điều tra của CQDT được thực hiện theo đúng qui định của pháp luật; mọi vi
phạm pháp luật trong quá trình tiễn hành điều tra được phát hiện, có biện pháp
khắc phục, xử lý kịp thời.
Kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQDT là kiểm sát hồ sơ vụ án có
<small>được lập theo trình tự, thủ tục mà pháp luật qui định hay không, các tài liệu,</small>
chứng cứ sau khi thu thập chuyền hóa vào hồ sơ có kịp thời, khách quan, đầy đủ hay khơng, có đúng thấm quyền và hình thức luật định hay khơng... Hồ sơ vụ án phải thé hiện được đầy đủ các loại tài liệu cần thiết mà pháp luật tố tụng
hình sự qui định, được đánh số bút luc và thống kê các tài liệu có trong hồ sơ.
Việc này giúp KSV nam chắc toàn bộ tiến độ điều tra vụ án và kịp thời phát
<small>hiện những vi phạm của CQDT trong việc thu thập chứng cứ. Từ đó, KSV</small>
chủ động hơn trong việc yêu cầu DTV kịp thời khắc phục những sai sót trong hoạt động điều tra.
Dé giúp VKS nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, theo sát quá trình điều tra và kiểm sát tốt việc lập hồ sơ vụ án, BLTTHS năm 2015 bô sung qui định tại khoản 5 Điều 88 như sau:
Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày lập biên bản về hoạt động diéu tra, thu thập, nhận được tai liệu liên quan đến vụ án mà Kiểm sát
viên không trực tiếp kiểm sát theo qui định của Bộ luật này thì Cơ quan
điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm chuyển biên bản, tài liệu này cho VKS để kiểm sát việc lập hô sơ vụ án. Trường hop do trở ngại khách quan thi thời han này có thể kéo dài nhưng không quá 15 ngày. Trong thời hạn 03 ngày,
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">Viện kiểm sát đóng dau bút lục và sao lưu biên bản, tài liệu lưu hồ sơ kiểm sát và bàn giao nguyên trạng tài liệu, biên bản đó cho Cơ quan điễu tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điễu <small>tra. Việc giao, nhận tài liệu, biên bản được lập biên bản theo qui định</small> tại Điều 133 của Bộ luật này).
Hai là, kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người tham gia tố
Hoạt động của những người tham gia tô tụng bao gồm hoạt động của người tham gia tô tung dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (người <small>bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, có</small>
quyên lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố tung dé bao vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người
<small>làm chứng, người giám định, người phiên dịch). BLTTHS năm 2003 đã qui</small>
định rõ quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng hình sự. Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của người tham gia tổ tụng là đảm bảo để quyền và nghĩa
vụ của họ được tôn trọng, được thực hiện đầy đủ; mọi vi phạm pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của người tham gia tô tụng phải được phát hiện và khắc phục kịp thời.
Ba là, giải quyết các tranh chấp về thâm quyền điều tra. Khi phát sinh tranh chấp về thâm quyền điều tra như thâm quyền điều tra theo lãnh thé, thâm quyền điều tra theo cấp, VKS phải nghiên cứu, xem xét giải quyết. VKS cũng có trách nhiệm giải quyết các tranh chấp về thâm quyền điều tra giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra. Theo qui định tại Điều 116 của BLTTHS năm 2003 thì trong trường hợp vụ án khơng thuộc thâm
quyên điều tra của mình, CQDT phải đề nghị VKS cùng cấp ra quyết định
chuyên vụ án cho CQDT có thắm quyền dé tiếp tục điều tra. Trường hợp thay vụ án khơng thuộc thâm quyền của CQDT cấp mình thi VKS yêu cầu CQDT
<small>'S Quốc hội (2015), Bộ /uật tổ tụng hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">tiễn hành các thủ tục dé VKS ra quyết định chuyên vụ án cho Co quan có
thâm quyên. Trong thời han ba ngày, ké từ ngày nhận được đề nghị của
CQDT, VKS cùng cấp phải ra quyết định chuyên vụ án cho CQDT có thâm
quyên. Trong thời han 24 giờ ké từ khi ra quyết định chuyên vụ án, VKS phải
gửi quyết định đó đến CQDT đang điều tra vụ án, CQDT có thâm quyên tiếp
tục điều tra vụ án, bị can hoặc người đại diện của bị can, người bào chữa, bị hại và VKS có thắm quyên.
Nếu phải chuyên vụ án ra ngoài phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc ngồi phạm vi qn khu thì CQDT cấp huyện, cấp khu vực
tiến hành các thủ tục dé VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực có văn bản đề nghị VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyên vụ án. Nếu vụ án do CQDT cấp tỉnh, CQDT quân sự cấp quân khu đề nghị chuyển thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu ra quyết định chuyên vụ án. Trong thời hạn ba ngày, ké từ khi nhận được đề nghị chuyên vụ án của VKS cấp huyện, VKS quân sự khu vực hoặc của CQDT cấp tỉnh, CQDT quân sự cấp quân khu thì VKS cấp tỉnh, VKS quân sự cấp quân khu phải ra quyết định chuyên vụ án.
Dé khắc phục vướng mắc trong thực tiễn thực hiện chức năng, nhiệm vụ thời gian qua, tăng cường sự chủ động của VKS, BLTTHS năm 2015 bổ sung qui định tại điều 169 BLTTHS: VKS có quyên quyết định chuyển vụ án nếu đã yêu cầu nhưng CQDT không thực hiện mà không phụ thuộc vào đề nghị của CQĐT mới có quyền quyết định chuyền vụ án như hiện nay `.
Bon là, yêu cầu CQDT khắc phục các vi phạm pháp luật trong hoạt động điều tra; yêu cầu CQDT cung cấp tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của DTV; yêu cầu Thủ trưởng CQDT xử lý nghiêm minh DTV đã vi phạm
pháp luật trong khi tiến hành điều tra. Day là nhóm quyên có ý nghĩa khắc phục
các vi phạm pháp luật của DTV, CQDT, cơ quan được giao nhiệm vụ tiễn hành một số hoạt động điều tra trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự.
<small>' Quốc hội (2015), Bộ ludt tổ tụng hình sự, Hà Nội.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Nam là, kiến nghị với co quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện
pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.. Điều 27 BLTTHS năm 2003 qui định, trong quá trình tiễn hành tố tụng hình su, CQDT, VKS và Toa án có nhiệm vụ tìm ra những nguyên nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các
cơ quan, tô chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa. Vì
vậy, nếu phát hiện thay các thiểu sót, sai sót của co quan, tơ chức trong quá trình THQCT và KSĐT là nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh vi phạm, tội phạm thì VKS phải có kiến nghị để các cơ quan, tổ chức, đơn vị hữu quan áp <small>dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Sau đó, các</small>
cơ quan, tổ chức hữu quan phải trả lời về việc thực hiện yêu cầu của VKS. - Cơ chế đảm bảo quyền của VKSND khi THỌCT và KSĐT
Việc đảm bảo quyền của VKS khi THQCT và KSĐT được qui định trong nhiều văn bản pháp lý, như: Điều 114, 115 BLTTHS năm 2003; Điều 6 Pháp lệnh Tổ chức điều tra hình sự, điểm 9 Thơng tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSTC-BCA-BQP ngày 07/9/2005 về quan hệ phối hợp giữa CQDT và VKS
trong việc thực hiện một SỐ qui định của BLTTHS năm 2003 qui định rõ trách
nhiệm của CQDT, các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các đơn vị, tổ chức, đơn vị liên quan và công dân trong việc thực hiện các quyết định, yêu cầu của VKS. Những quyết định, yêu cầu của
VKS trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự phải được cơ quan, tơ chức và
công dân nghiêm chỉnh chấp hành.
Đối với các yêu cầu và quyết định qui định tại các Khoản 4, 5 và 6 Điều 112 BLTTHS năm 2003, nếu không nhất tri, CQDT vẫn phải chấp hành (Điều 114 về trách nhiệm của CQDT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS). Tuy nhiên, CQĐT có quyền kiến nghị với VKS cấp
trên trực tiếp xem xét dé quyết định. Nếu là CQDT ở cấp Trung ương thì kiến
nghị với Viện trưởng VKS nhân dân tối cao, Viện trưởng VKS quân sự Trung ương xem xét, quyết định.
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">Kết luận chương 1
<small>Trong chương 1, tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ các khái niệm cơ</small> bản về thực hành quyền công t6 và kiểm sát điều tra các vụ án gây rối trật tự công cộng dé làm cơ sở lý luận cho dé tài luận văn. Bên cạnh đó, tác giả cũng đã phân tích rõ hoạt động thực hành quyền công tổ và kiểm sát điều tra các vụ
án gây rối gây rối trật tự công cộng cho phép chúng ta nhận thức rõ và đầy đủ
hơn về các hoạt động này, đồng thời thấy được mối quan hệ giữa chúng.
Đặc biệt, tác giả đã so sánh và trình bày những điểm mới của BLHS, BLTTHS năm 2015 qui định về thực hành quyên công tô và kiểm sát điều tra
các vụ án gây rỗi trật tự công cộng so với các qui định tại BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003 để thấy được những điểm mà luật mới đã khắc phục
Chương 2 sẽ trình bày rõ hơn về thực trạng THQCT và KSĐT các vụ án gây rỗi trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội.
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39"><small>Chương 2</small>
THỰC TRANG THUC HANH QUYEN CÔNG TO VÀ KIEM SÁT DIEU TRA CAC VU AN GAY ROI TRAT TU CONG CONG O
THANH PHO HA NOI
2.1. Thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra đối với các vụ án gây rối trật tự công cộng ở thành phố Hà Nội
Thành phố Hà Nội là thủ đơ của nước Việt Nam nằm chếch về phía Tây Bắc của trung tam vùng đồng băng châu thổ sông Hong. Hà Nội có vị trí từ
20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02' độ kinh Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà Nam, Hịa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng n phía Đơng, Hịa Bình và Phú Thọ phía Tây. Thành phố Hà Nội có vị trí giao thông thuận lợi với nhiều tuyến
đường quốc lộ chạy ra như quốc lộ 1A, 2, 3, 5 với nhiều tuyến đường cao tốc,
các sân bay lớn như sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Gia Lâm. Diện tích tự nhiên là 3324,52 km2 nằm trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới, dân
số 7212,3 nghìn người (năm 2013); mật độ dân số 2169 người/km2, số dân
nhập cư về Hà Nội trong những năm gần đây tăng lên nhanh chóng đang là vấn dé vơ cùng phức tạp của Thành phố... Cùng với sự nghiệm sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước, Thành phố Hà Nội trong thời gian qua đã đạt được những kết quả quan trọng trong công cuộc đôi mới, bộ mặt Thủ đơ
đã có nhiều thay đơi trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa — xã hội, tạo ra những bước chuyển mình trong cơng cuộc xây dựng Thủ đô. Thành phố Hà Nội là Thủ đơ, trung tâm chính trị, kinh tế, văn hố của nước ta.
Thành phố Hà Nội có 30 quận, huyện, gom 10 quan, 19 huyện, | thị xã và 577 đơn vị hành chính cấp xã gồm 401 xã, 154 phường và 22 thị tran.
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc giữ vững ổn định chính trị, tập trung phát triển kinh tế, thành phố Hà Nội còn phải đối mặt với nhiều vấn đề
xã hội cần giải quyết, trong đó có vấn đề đấu tranh phịng và chống tội phạm
nói chung, phịng chống tội phạm gây rối trật tự cơng cộng nói riêng. Với vị
trí địa lý và sự phát triển về kinh tế xã hội, đặc biệt là tốc độ đơ thị hóa nhanh
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">đã mang lại những tác động khơng nhỏ đến tình hình vi phạm và tội phạm nói
chung và tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng ở thành phó, bởi: với vị trí là
thủ đơ, trung tâm chính trị, kinh tế của cả nước. Những năm gần đây khi nền kinh tế phát triển, dân số của thành phô Hà Nội tăng lên nhanh chóng, đại đa số dân số là dân nhập cư, người lao động ngoại tỉnh tạm trú dé học tập và làm việc là nguyên nhân dẫn đến vi phạm và tội phạm gây rối trật tự công cộng
gia tăng. Với địa bàn rộng, giao thông thuận lợi vơ hình chung đã tạo điều kiện cho tội phạm sau khi phạm tội dễ bỏ trốn gây không ít khó khăn cho
cơng tác điều tra, giải quyết vụ án.
So với các địa phương trên cả nước, tội phạm gây rỗi trật tự xã hội ở Thành phố Hà Nội ln chiếm tỷ lệ lớn và đang có chiều hướng gia tăng. Loại tội phạm này đã và đang diễn biến phức tạp với tính chất, thủ đoạn ngày càng tỉnh vi hơn gây khơng ít khó khăn cho công tác điều tra, giải quyết vụ án. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, nền kinh tế thi trường tất yếu đem lại những yếu tố tích cực trong đời song xã hội. Đó là sự cạnh tranh trong xã hội, phân hóa giàu nghèo, người lao động thiếu việc làm, sự tha hóa trong lối
song, tệ nạn xã hội và tội phạm gia tăng. Trong những năm qua, cơng tác dau tranh phịng chống tội phạm ở thành phố Hà Nội đạt được nhiều thành quả to lớn, tuy nhiên, tình hình và diễn biến tội phạm rất phức tạp, xu hướng biến đổi khó lường. Trong đó tình hình tội gây rối trật tự cơng cộng có diễn biến <small>phức tạp và ngày càng gia tăng. Hiện nay, tội phạm nói chung, các tội xâm</small>
phạm an tồn cơng cộng, trật tự cơng cộng nói riêng và đặc biệt là tội gây rỗi trật tự công cộng trên các thành phó, khu đơ thị, thị xã lớn đang là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, tuy loại tội phạm này khơng có tính nguy hiểm cao so với các loại tội phạm khác nhưng nó có tính phổ biến, đa dạng hình thức và
có ảnh hưởng khơng nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội. Tội
phạm nay thé hiện ở chỗ - hành vi gây rối trật tự công cộng xâm phạm
nghiêm trọng các quan hệ xã hội trong lĩnh vực cơng cộng, gây ton hại đến
các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước và công dân, hành vi này được
thực hiện công khai và thường ở những nơi đông người, biểu hiện ý thức coi
</div>