Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

tiểu luận đường lối phát triển thành phần kinh tế tư nhân của đảng cộng sản việt nam trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (191.2 KB, 23 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO</b>

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM KỸ THUẬT TP. HCMKHOA CHÍNH TRỊ & LUẬT</b>

<b>MÔN HỌC: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM</b>

<b>TIỂU LUẬN</b>

<b>ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN</b>

<b>THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM </b>

<b>TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI</b>

<b>GVHD: Ths. Lê Quang Chung</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>ĐIỂM SỐ</b>

<b>TIÊU CHÍNỘI DUNGTRÌNH BÀYTỔNGĐIỂM</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>BẢNG PHÂN CƠNG NHIỆM VỤ</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỤC LỤC</b>

MỞ ĐẦU...1

Chương 1. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM...2

1.1 Khái niệm thành phần kinh tế tư nhân...2

1.2 Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam...2

Chương 2. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI...5

2.1 Đường lối phát triển thành phần kinh tế tư nhân từ Đại hội VI đến Đại hội IX...5

2.2 Đường lối phát triển thành phần kinh tế tư nhân từ Đại hội VI đến Đại hội X đến Đại hội XIII...8

Chương 3. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN

Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG

TRONG THỜI GIAN TỚI...11

3.1 Đánh giá thành tựu và hạn chế của chính sách đổi mới đối với kinh tế tư nhân...11

3.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả phát triển thành phần kinh tế tư nhân...13

KẾT LUẬN...14

PHỤ LỤC...15

TÀI LIỆU THAM KHẢO...17

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>MỞ ĐẦU</b>

Việt Nam, một quốc gia đang trên con đường phát triển không ngừng, đã chứng kiến những biến đổi mạnh mẽ và sâu rộng trong cấu trúc kinh tế của mình trong thời kỳ đổi mới. Trong số những thay đổi này, sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân đã trở thành một yếu tố then chốt, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thành phần kinh tế tư nhân, với sự linh hoạt và sáng tạo của mình, đã tạo ra nhiều cơ hội việc làm, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống cho người dân. Ví dụ, các doanh nghiệp tư nhân như Vingroup, Masan, và Techcombank,… đã tạo ra hàng nghìn việc làm và đóng góp lớn vào GDP của Việt Nam.

Đảng Cộng sản Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển thành phần kinh tế tư nhân, đã đưa ra nhiều chủ trương, đường lối và chính sách nhằm khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của thành phần kinh tế này. Một ví dụ điển hình là chính sách ưu đãi thuế cho các doanh nghiệp khởi nghiệp. Những chính sách này không chỉ nhằm tạo ra một môi trường kinh doanh cơng bằng và minh bạch, mà cịn nhằm khuyến khích sự sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp trong xã hội.

Tuy nhiên, việc thực hiện các chính sách này khơng phải lúc nào cũng sn sẻ. Có nhiều khó khăn và thách thức đang đặt ra. Đặc biệt, việc đảm bảo sự cân đối giữa việc phát triển kinh tế tư nhân và việc đảm bảo sự ổn định kinh tế - xã hội là một vấn đề lớn đang chưa có lời giải. Đồng thời, việc tạo ra một môi trường kinh doanh công bằng và minh bạch cho các doanh nghiệp tư nhân cũng là một thách thức không nhỏ. Thực tế cho thấy rằng, việc đảm bảo rằng các doanh nghiệp tư nhân không bị đối xử phân biệt so với các doanh nghiệp nhà nước là một thách thức lớn.

Với mục đích nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những thành tựu, cũng như những hạn chế trong q trình lãnh đạo thực hiện chính sách phát triển thành phần kinh tế tư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đồng thời, chúng tôi cũng đề xuất những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại, hạn chế, vượt qua những khó

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

khăn, thách thức, nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách này trong thời gian tới. Chúng tôi tin rằng, với sự nỗ lực không ngừng của cả xã hội, chúng ta sẽ tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân, góp phần vào sự phát triển chung

<i><b>của đất nước. Nhóm tác giả đã chọn đề tài: “Đường lối phát triển thành phần kinh tếtư nhân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới” làm tiểu luận kết thúc</b></i>

môn học Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.

2

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>Chương 1.</b>

<b>KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA THÀNH PHẦN KINH TẾ TƯ NHÂNTRONG NỀN KINH TẾ VIỆT NAM</b>

<b>1.1 Khái niệm thành phần kinh tế tư nhân</b>

Kinh tế tư nhân là thuật ngữ dùng để chỉ các thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Thành phần kinh tế tư nhân bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân. Cả hai thành phần kinh tế trên thuộc cùng chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất; tuy nhiên, quy mô sở hữu là khác nhau.

<i><b>Kinh tế cá thể, tiểu chủ</b></i>

Kinh tế cá thể, tiểu chủ dựa trên hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất. Điểm khác biệt cơ bản nhất giữa kinh tế cá thể và kinh tế tiểu chủ là: nguồn thu nhập của kinh tế cá thể thì dựa hồn tồn vào lao động và vốn của bản thân và gia đình. Cịn nguồn thu nhập của kinh tế tiểu chủ thì vẫn có thể phụ thuộc vào lao động và vốn của bản thân và gia đình nhưng bên cạnh đó kinh tế tiểu chủ cịn có thể thuê thêm lao động.

<i><b>Kinh tế tư bản tư nhân</b></i>

Kinh tế tư bản tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Kinh tế tư bản tư nhân thường chủ động và nắm bắt nhu cầu của kinh tế thị trường, do đó sẽ có những đóng góp to lớn vào quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế của đất nước. Kinh tế tư bản tư nhân có tính tự phát rất cao. Do đó cần đưa ra các chính sách hỗ trợ phát triển cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân (bao gồm các doanh nghiệp tư bản tư nhân) trong mọi ngành nghề, lĩnh vực, kể cả các lĩnh vực sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế mà pháp luật không cấm. Mặt khác, tiếp tục hoàn thiện và tăng cường quản lí của nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân, trong đó có kinh tế tư bản tư nhân.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

<b>1.2 Vai trò của thành phần kinh tế tư nhân trong nền kinh tế Việt Nam</b>

"Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế". (Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ X. Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006)

Kinh tế tư nhân là thành phần quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược có tính lâu dài trong cơng cuộc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần quan trọng thực hiện nhiệm vụ trung tâm là phát triển kinh tế, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao nội tại của đất nước trong hội nhập thị trường kinh tế quốc tế.

Trải qua hơn 30 năm không ngừng đổi mới, kinh tế tư nhân khơng chỉ dần được phục hồi mà cịn có những bước phát triển cả về chất lẫn lượng. Đặc biệt là kể từ sau Đại hội X (năm 2006), khi kinh tế tư nhân được xác định chính thức là thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển, không hạn chế về quy mô.

Kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế là bởi những lý do cơ bản sau:

Vai trò của kinh tế tư nhân đối với nền kinh tế ngày càng quan trọng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tư nhân không chỉ giúp bảo đảm cho tốc độ tăng trưởng GDP được duy trì liên tục ở mức cao, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước mà còn giúp giải quyết hàng loạt những vấn đề xã hội như: tạo công ăn việc làm cho xã hội, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn nhân lực, … Kinh tế tư nhân liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng khá, chiếm tỉ trọng cao trong GDP; thu hút lực lượng lao động phong phú, góp phần thu hút các nguồn lực xã hội đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.

Đóng góp vào nền kinh tế và hiệu quả hoạt động của kinh tế tư nhân cao, nhiều sáng kiến, nhiều đổi mới và đột phá được xuất phát từ những doanh nghiệp tư nhân. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của kinh tế tư nhân cao hơn 1,2 lần so với mức bình quân của nền kinh tế và hơn 1,9 lần so với khu vực nhà nước. Vai trò của kinh tế

4

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

tư nhân càng trở nên quan trọng hơn khi mà khoa học và công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.

Đóng góp của kinh tế tư nhân trong cơ cấu GDP luôn ở mức trên 43% GDP. Số lượng doanh nghiệp tư nhân tăng mạnh, đạt hơn 110.000 doanh nghiệp mới (năm 2016). Thương hiệu của các doanh nghiệp, tập đồn tư nhân khơng chỉ được ghi nhận ở thị trường trong nước mà cả ở thị trường khu vực và quốc tế. Đã xuất hiện những tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mơ lớn cả về vốn và công nghệ cao.

Chiến lược kinh tế của Đảng và Nhà nước đang hướng tới việc tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh hơn. Chính phủ cam kết sẽ cải thiện mơi trường kinh doanh theo hướng bình đẳng, minh bạch, an tồn và thân thiện, tạo mọi điều kiện để doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp phát triển thuận lợi. Bên cạnh đó, doanh nghiệp, tập đồn tư nhân cũng luôn đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để đứng vững trên thị trường và hoạt động theo cơ chế thị trường.

Trong khi nhiều doanh nghiệp nhà nước làm ăn kém hiệu quả với những dự án lớn đang bị thua lỗ thì vị trí, vai trị của kinh tế tư nhân ngày càng được đánh giá tích cực hơn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<b>Chương 2. </b>

<b>NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN CỦAĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI</b>

<b>2.1 Đường lối phát triển thành phần kinh tế tư nhân từ Đại hội VI đến Đại hội IX </b>

Thành phần kinh tế tư nhân là một bộ phận của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và ngày càng có nhiều đóng góp cho q trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước nhà. Đảng đã định hướng cần tiếp tục đổi mới tư duy, tạo mơi trường thuận lợi để kích thích sự phát triển của kinh tế tư nhân một cách mạnh mẽ vì đó là một động lực quan trọng của nền kinh tế nước ta.

Kể từ Đại hội VI (12-1986), nền kinh tế nhiều thành phần được thừa nhận chính thức. Cụ thể, văn kiện Đại hội VI khẳng định “Cần sửa đổi, bổ sung và cơng bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...” [1; tr.60]. Đại hội cũng chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam, tạo cơ sở chính trị cho những đột phá tiếp theo của Đảng trong nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân: “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ” [2; tr.56] trên cơ sở vận dụng quan điểm của Lê-nin. Trong Văn kiện Đại hội VI, Đảng không chỉ tập trung vào việc “Củng cố thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa bao gồm cả khu vực quốc doanh và khu vực tập thể một cách tồn diện” [3; tr.44], mà cịn nhận thức rõ ràng về việc “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa” [4; tr.44]. Do đó, các thành phần kinh tế phi XHCN đã được thừa nhận tồn tại và hoạt động dưới sự hướng dẫn của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên, trong thời điểm này, kinh tế tư nhân nói riêng, và các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được xem xét như là đối tượng cần “cải tạo”, thông qua các biện pháp và bước đi hợp lý, tránh chủ quan và nóng vội: “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác” [5; tr.55].

Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 15-7-1988, của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và nhất

6

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

quán trong việc thực hiện chính sách kinh tế đa dạng thành phần. Bước quan trọng này cịn được cụ thể hóa qua việc khẳng định rõ ràng về sự phát triển của kinh tế tư nhân, đặc biệt là trong những ngành có lợi cho quốc kế và đời sống nhân dân. Nghị quyết số 10-NQ/TW, ngày 5-4-1988, của Bộ Chính trị khóa VI, đã định rõ hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, mở ra cơ hội để cải tổ cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp. Điều này đã tạo động lực mạnh mẽ cho sự phục hồi và phát triển năng động của kinh tế tư nhân trong lĩnh vực nông nghiệp. Bước tiến này khơng chỉ thúc đẩy sản xuất nơng sản mà cịn mở đầu cho q trình chuyển từ mơ hình sản xuất tự cung ứng sang sản xuất hàng hóa. Những quyết định và định hình chiến lược này đánh dấu bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân ở Việt Nam, mở ra hành trình đầy thách thức và đột phá mạnh mẽ trong những giai đoạn tiếp theo.

Đại hội VII (6-1991), tiếp tục và phát triển tư tưởng của Đại hội VI, đã đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho phát triển của kinh tế tư nhân. Văn kiện của Đại hội VII không chỉ khẳng định mà cịn chi tiết hóa các quy định quan trọng: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước” [6; tr.394], “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp” [7; tr.448]. Điều này đặt ra một bối cảnh hợp tác giữa kinh tế tư nhân và vai trò quản lý của Nhà nước cũng như tạo điều kiện thuận lợi và quyền lợi pháp lý cho doanh nghiệp tư nhân. Đại hội VII mở rộng quan điểm về sự phát triển của kinh tế tư nhân, xác nhận rằng “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm” [8; tr.454]. Đại hội này đã đặt nền móng cho việc “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm” [9; tr.542 - 543]. Chủ trương này là một bước quan trọng trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho sự đa dạng và sáng tạo trong kinh doanh tư nhân. Đại hội VII đã đánh dấu sự chuyển đổi quan trọng trong tư duy về kinh tế tư nhân, từ việc xem nó như một phần “tàn dư” đến việc coi nó là một động lực độc lập và tiềm năng quan trọng cho sự phát triển kinh tế của đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Đánh giá rằng “Chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần to lớn giải phóng và phát triển sức sản xuất, đưa đến những thành tựu kinh tế - xã hội quan trọng qua 10 năm đổi mới” [10; tr.643], Đại hội VIII (6-1996) tiếp tục mạnh mẽ khẳng định và mở rộng chính sách này. Đại hội đặt ra nguyên tắc thực hiện “nhất quán, lâu dài” khẳng định rằng sự ổn định và liên tục của chính sách kinh tế nhiều thành phần là quan trọng để khuyến khích đầu tư và phát triển kinh tế. Văn kiện Đại hội VIII tập trung vào việc khuyến khích mọi doanh nghiệp và cá nhân, cả trong và ngoài nước, “khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển” [11; tr.643]. Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đầu tư và sự đóng góp tích cực của tư nhân vào sự phát triển kinh tế của quốc gia. Đại hội VIII quả quyết đối xử “bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật” [12; tr.643], không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh. Điều này làm nổi bật tầm quan trọng của việc tạo ra môi trường công bằng và cạnh tranh cho tất cả các doanh nghiệp. Văn kiện đặc biệt chú trọng đến việc cần “tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi” [13; tr.695] để các doanh nghiệp tư nhân có thể yên tâm đầu tư và hoạt động lâu dài. Điều này làm tơn vinh vai trị quan trọng của chính sách và mơi trường pháp lý trong việc hỗ trợ sự phát triển của kinh tế tư nhân. Đại hội VIII tiếp tục củng cố và mở rộng cơ sở lý luận và thực tiễn cho chính sách kinh tế nhiều thành phần, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự đầu tư và sự đối xử công bằng để thúc đẩy phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.

Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí và vai trị của kinh tế tư nhân được thể hiện rõ trong Văn kiện Đại hội IX (1-2001). Đại hội IX đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng khi Đảng đã có cái nhìn mới và định hình lại vai trị của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX khẳng định rằng kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Điều này là một sự nhìn nhận mới về vai trị của kinh tế tư nhân, khơng chỉ là một yếu tố tạm thời mà còn là một lực lượng quan trọng và bền vững trong phát triển kinh tế. Quan điểm của Đảng đã thay đổi từ “Tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định” [14; tr.432], sang "Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển khơng hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm" [15; tr.986]. Điều này làm tôn lên tầm quan trọng

8

</div>

×