Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (42.38 MB, 192 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
quốc tế, Khoa pháp luật quốc tế, Đại học Luật Hà Nội.
Quốc gia Hà Nội.
. TS. Hoàng Phước Hiệp, Vụ trưởng Vụ pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp. . CVC. Hồ Văn Phú, Vụ pháp luật quốc tế, Bộ Tư pháp.
. ThS. Lê Đình Nghị, Giảng viên Khoa Luật dân sự, DH Luật Hà Nội. . Phạm Thanh Tùng, Chuyên viên Cục bản quyền tác giả Việt Nam. . ThS. Bùi Thị Thu, Giang viên Khoa pháp luật quốc tế, ĐH Luật Hà Nội.
BERNE Công ước Berne 1886 về bảo hộ quyền tác giả <small>BLDS Bộ luật Dân sự</small>
<small>BTA Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa kỳ</small>
FAO Tổ chức nông lương của Liên hợp quốc
GATT Hiệp định chung về thương mại và thuế quan IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
SHTT Sở hữu trí tuệ
TRIPS Hiệp định về các khía cạnh thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
UNCTAD Hội nghị Liên hợp quốc về thương mại và phát triển
WB Ngân hàng thế giới
WIPO Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới
quyền tác giả
WTO Tổ chức thương mại thế giới
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Mục Trang
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu ... .--- --- 2+ +22 +++2z*c+sc+zcczecsxs 01 <small>2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nưỚc...---ss+: 02</small> 3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài ... .--- --- 22+ <+<++z<c+ss2 03 <small>4. Phương pháp nghiên CỨU...---c n1 1 xxx xà 04</small>
1. Những vấn đề cơ bản của Công ước Berne... .-- ---+ 5+ ++ss+ss+ss5+ 05 <small>2. Thực thi Công ước Berne tại Việt Nam ...---.---cccc c2 21</small> 3. Thực trạng và giải pháp về thực thi quyền tác giả ở Việt Nam trong điều <small>kiện thực thi theo Công ước Berne... .. -- - S222 2 111111 1 11 rey 42</small>
1. Chuyên đề 1: Những nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne ... 61 2. Chuyên đề 2: Sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam
với quy định của Công ước Berne...--- - - + + +++++++++*kkE+xsseeeeeeeeezsss 69
3. Chuyên đề 3: Quan hệ giữa Công ước Berne và các Điều ước quốc tế của WIPO về quyền tác giả ...-- ---- ---- 2522 ++2*++*£+2E£+eE£+eE+eeeeeezersxs 100 4. Chuyên đề 4: Quan hệ giữa Công ước Berne và các điều ước quốc tế của WTO về quyền tác giả ...-- ---- + -++++2+++2£++£+z£+eezeeseeeeezersxs 108 5. Chuyên đề 5: Những lợi ích và bất lợi đối với Việt Nam khi gia nhập
Công ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả ...-- ---- 114 6. Chuyên đề 6: Thiết chế thực thi quyền tác giả theo Công ước Berne ....128 7. Chuyên đề 7: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật một số nước Châu 8. Chuyên đề 8: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật Hoa Kỳ... 145 9. Chuyên đề 9: Thực thi Công ước Berne theo pháp luật Nhật Bản và một số
kinh nghiệm đối với Việt Nam...- --- - - ¿+ +2 + *++++E+++zEEEE+zeee+zeeseexzs 151
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">10. Chuyên đề 10: Thực trạng và giải pháp về thực thi quyền tác giả ở
Việt Nam trong điều kiện thực thi theo Cơng ước Berne... 163 11. Chun đề 11: Tình hình thi hành các quy định pháp luật về quyền tác giả sau khi Việt Nam gia nhập Công ước Berne...--- --== -+s 171
12. Chuyên đề 12: Thực trạng hoạt động lập pháp tại Việt Nam trước và sau khi tham gia Công ước Berne và một số kiến nghị ...--.- --- - ---- 180
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Chúng ta đang sống trong một thời đại của nền kinh tế tri thức, thời dai của sự bùng nổ về khoa học công nghệ. Chưa bao giờ các sáng tạo của trí tuệ con
người được phát huy mạnh mẽ đến thế. Mỗi ngày, thế giới một thay đổi do những
thành tựu mà sự sáng tạo của con người đem lại. Tuy nhiên, đằng sau những sáng tạo đó là sự đầu tư khơng nhỏ về tiền bạc và chất xám của tư duy trí tuệ con người. Do vậy, đi đôi với sự phát triển, thế giới cũng địi hỏi cần có một cơ chế hữu hiệu nhằm bảo vệ được những thành tựu sáng tạo của trí tuệ, nhằm khơng chỉ
bảo vệ khối di sản của tri thức nhân loại, mà còn tạo động lực khuyến khích sự
phát triển sáng tạo, thúc đẩy sự phát triển.
Việc bảo hộ các quyền liên quan đến tài sản trí tuệ của con người đã được
pháp luật của các quốc gia và pháp luật quốc tế quan tâm xây dựng từ rất sớm.
Đến nay, việc bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng khơng chỉ giới hạn theo những tiêu chuẩn trong phạm vi lãnh thổ của mỗi quốc gia mà đã phát triển trên phạm vi toàn cầu theo những chuẩn mực quốc tế cùng
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">với sự ra đời của các tổ chức quốc tế (WIPO, WTOI )). Trước những yêu cầu khách quan của quá trình tồn cầu hóa ngày càng xuất hiện nhiều các điều ước quốc tế trong lĩnh vực này, điều đó đã minh chứng cho sự cần thiết của việc bảo hộ quốc tế quyền tác giả. Một điều ước quốc tế đa phương về bảo hộ quyền tác
giả đã được các nước tham gia kí kết vào năm 1886 - Cơng ước Berne - Đây là
Công ước đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả. Ban đầu tham gia Công ước chỉ có I0 nước thành viên. Hiện nay, số thành viên tham gia Công ước đã lên tới 162 nước'.
Ngày 07/06/2004 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã kí Quyết định số
332/2004/QĐ-CTN về việc Việt Nam tham gia Công ước Berne và Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Công ước Berne kể từ ngày 26.10.2004 (Việt
Nam là thành viên thứ 156 tham gia Công ước Berne). Việt Nam tuyên bố bao
lưu các quy định tại Điều 33 của Công ước Berne về thẩm quyền xét xử của toà án quốc tế và áp dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo Điều
II và Điều III Phu lục Công ước. Công ước Berne năm 1886 là Công ước đa
phương đầu tiên mà Việt Nam tham gia trong lĩnh vực quyền tác giả và Cơng ước này thuộc lộ trình tham gia Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) của Việt Nam, đồng thời cũng thuộc cam kết tại các Hiệp định giữa Việt Nam và Hoa kì, Thuy sĩ về quyền tác giả. Chúng ta biết rằng, thực thi quyền tác giả là một trong những vấn đề quan trọng nhất của việc bảo hộ quyền tác giả, bởi vì nếu các quyền của
tác giả được pháp luật quy định mà khơng có khả năng thực thi thì giá trị của các
quyền đó coi như bằng khơng. Vì vậy, việc nghiên cứu về Công ước và nhất là vấn đề thực thi Công ước tại Việt Nam là hết sức cần thiết trong giai đoạn hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay.
<small>2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước</small>
Bảo hộ quyền SHTT nói chung và bảo hộ quyền tác giả nói riêng là một vấn đề có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay, được sự quan tâm, tìm hiểu của nhiều giới, nhiều ngành. Có thể kể tên một số cơng trình, hội thảo khoa học nghiên cứu
về vấn đề này như: Cơng trình nghiên cứu khoa học cấp bộ của Viện khoa học
<small>' Tinh đến ngày 30.08.2006 (Brunei là thành viên thứ 162)</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">xét xử Toà án nhân dân tối cao về “Ndng cao vai tro và năng lực thực thi quyền SHTT ở Việt nam - những vấn đề lí luận và thực tiên” (năm 1999); Dé tài nghiên cứu khoa học của Trường Dai học Quốc gia Hà Nội “Về cơ chế thực thi pháp luật Việt Nam bảo hộ quyền SHTT trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế Ì; Dé án khoa học “Tăng cường hiệu quả thực thi quyền SHTT” do Bộ khoa học - công nghệ và Bộ văn hố - thơng tin phối hợp thực hiện; Hội thảo khoa học “Quyền
SHTT và chống cạnh tranh không lành mạnh” do Cục SHTT tổ chức ngày
18.11.04 tại thành phố Hồ Chí Minh; Hội thảo “SHTT với doanh nghiệp cơ hội và
thách thức trong quá trình hội nhập quốc tế” Do Hội sở hữu công nghiệp Việt
Nam tổ chức tháng 12.2004 tại Hà Noil Tuy nhiên, tất cả các cơng trình khoa
học trên chỉ nghiên cứu về quyền SHTT nói chung. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài LICơng ước Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả và vấn đề thực thi ở Việt nam trong xu thế hội nhập” làm rõ hơn những vấn đề mà các công trình khoa học
khác đã gợi mở.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu đề tài <small>Mục đích nghiên cứu:</small>
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng rõ những quy định của Công ước Berne và quy định của pháp luật Việt Nam về bảo hộ quyền tác giả, từ đó đánh giá đúng những điểm chưa phù hợp của pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực
này để đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam cho phù hợp với chuẩn
mực quốc tế. Đồng thời, qua việc nghiên cứu vấn đề thực thi Công ước ở một số nước và ở Việt Nam, đề tài đưa ra những giải pháp để thực thi Công ước ở Việt
Nam ngày càng có hiệu quả hơn.
Thực hiện thành cơng mục đích trên, đề tài sẽ có ý nghĩa lí luận và thực tiễn: - Nâng cao nhận thức của cán bộ làm công tác nghiên cứu và thực thi pháp
luật về SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng, đặc biệt đối với năng lực của thẩm phán toà án trong quá trình áp dụng pháp luật giải quyết tranh chấp về quyền tác giả. Qua đó bảo vệ tốt hơn các quyền và lợi ích của Nhà nước và của
các chủ sở hữu tác phẩm.
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">- Kết quả của đề tài nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu để phổ biến,
phục vụ cho việc giảng dạy ở Trường Đại học Luật Hà Nội, cũng như cho các cơ sở đào tạo pháp luật, viện nghiên cứu cũng như cho các đối tượng khác có quan
- Góp phần hồn thiện pháp luật trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả.
Với mục đích trên đề tài được bố cục thành 3 phần với các nội dung sau: 1. Những vấn đề cơ bản của Công ước Berne
2. Van đề thực thi Công ước Berne tại Việt Nam
3. Thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi Cơng ước Berne nói riêng và bảo hộ quyền tác giả nói chung tại Việt Nam.
<small>4. Phương pháp nghiên cứu</small>
Để thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Tổng hợp, phân tích, thống kê, khái quát hod và đặc biệt là phương pháp so sánh. Phương pháp so sánh được sử dụng trong các chuyên đề của đề tài nhằm tìm ra những điểm giống nhau, nhất là những điểm khác nhau giữa quy định của pháp luật Việt Nam và quy định của Công ước Berne về bảo hộ quyền tác giả.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">Cơng ước Berne là Cơng ước quốc tế đa phương đầu tiên về bảo hộ quyền tác giả, được ký kết tại Berne (Thuy Sỹ) năm 1886. Công ước đã trải qua nhiều lần bổ sung và sửa đổi bao gồm: năm 1896 tại Pari, năm 1908 tại Beclin, năm <small>1914 tại Berne, nam 1928 tại Rome, nam 1948 tai Brussels, năm 1967 tại</small>
Stockholm, năm 1971 tại Paris và sau cùng được bổ sung vào ngày 2 - 10 - 1979. Nhung Công ước quốc tế hiện hành là Cong ước Paris được sửa đổi năm 1971 va
được bổ sung vào năm 1979.
1.1. Các nguyên tắc cơ bản của Công ước Berne
“Với mong muốn bảo hộ một cách hữu hiệu và đồng bộ đến mức tối đa các
quyền lợi của các tác giả đối với các tác phẩm văn học và nghệ thuật”, Công
ước Berne đã đặt ra một số nguyên tắc cơ bản mang tính chất nền tảng, là cơ sở
cho việc xác định cơ chế và cách thức bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật. Trong đó có quy tắc mang tính chung, có thể gặp trong nhiều điều ước
quốc tế khác như nguyên tắc đối xử quốc gia, cũng có các nguyên tắc mang tính cá biệt, mang đặc điểm riêng của cơ chế bảo hộ quyền tác giả như nguyên tắc
bảo hộ đương nhiên.
1.1.1. Nguyên tắc đốt xử quốc gia (National Treatment - NT)
Nguyên tắc đối xử quốc gia là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan
trọng, không chỉ được quy định trong Cơng ước Berne mà cịn được quy định
trong rất nhiều các điều ước quốc tế khác về SHTT. Ngồi ra, ngun tắc này cịn được ghi nhận phổ biến trong pháp luật của rất nhiều các quốc gia trên thế giới. Công ước Berne đã ghi nhận nguyên tắc đối xử quốc gia như là một trong những nguyên tắc mang tính hạt nhân. Nguyên tắc này được thể hiện tại Điều 5 khoản 1
<small>? Lời mở đầu của Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (Bản dịch của Cục bản quyên tác</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">của Công ước Berne: “Đối với những tác phẩm được Công ước này bảo hộ, các
tác giả được hưởng quyền tác giả ở các nước Liên hiệp không phải là quốc gia
gốc của tác phẩm, những quyền do luật của nước đó dành cho công dân của
minh trong hiện tai và tương lai cũng như những quyển mà Công ước đặc biệt <small>quy định”.</small>
Như vậy, theo quy định trên, các tác giả sẽ nhận được sự bảo hộ tại tất cả các quốc gia thành viên của Công ước tương tự như sự bảo hộ của quốc gia đó
dành cho chính cơng dân nước mình. Tuy nhiên, ngun tắc này cũng có ngoại lệ. Đó là khả năng hạn chế sự bảo hộ đối với một số tác phẩm của công dân một
số nước ngoài Liên hiệp.
1.1.2. Nguyên tắc bao hộ đương nhiên (Automatic protection)
Đây là nguyên tắc mang tính đặc thù trong lĩnh vực quyền tác giả, theo đó, quyền tác giả phát sinh ngay khi tác phẩm được định hình dưới một dạng vật chất
nhất định không lệ thuộc vào bất kỳ một thủ tục nào như là đăng ký, nộp lưu
chiểu hoặc theo các thủ tục tương tự.
Nguyên tac này được thể hiện cụ thể tại Điều 5 khoản 2 Công ước Berne “Sw
thụ hưởng và thực hiện các quyền tác giả không lệ thuộc vào một thể thức, thủ
tục nào, sự thụ hưởng và thực hiện này hoàn toàn độc lập khơng phụ thuộc vào
việc tác phẩm đó có duoc bảo hộ hay không ở quốc gia gốc của tác phẩm”. 1.1.3. Nguyên tắc bao hộ độc lập (Independence of Protection)
Theo Công ước Berne, nguyên tắc bảo hộ độc lập được hiểu là việc hưởng và thực thi các quyền theo Cơng ước độc lập với những gì được hưởng tại nước xuất
xứ của tác phẩm.
Điều 5 Khoản 3 Công ước quy định: “Sw bảo hộ trong quốc gia gốc do pháp
luật của quốc gia đó quy định. Tuy nhiên, khi tác giả không phải là công dân của
quốc gia gốc của tác phẩm được Công ước này bảo hộ, thì tác giả đó được hưởng
trong quốc gia gốc này những quyền như tác giả công dân nước đồ”.
Tại quốc gia thành viên của Công ước nhưng không phải là quốc gia gốc của
tác phẩm, tác giả tác phẩm sẽ được hưởng hai loại quyển: Quyền theo quy định
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">của pháp luật quốc gia và quyền được quy định trong Công ước. Việc áp dụng các
quy định của Công ước Berne hay các quy định trong luật quốc gia phụ thuộc vào
việc áp dụng luật nào sẽ có lợi hơn cho tác giả. Tác giả hồn tồn có quyền lựa chọn. Việc lựa chọn áp dụng các quyền này không đồng nghĩa với việc tước bỏ việc được hưởng các quyền kia. Đây là một trong những quy định nhằm đem lại
cho các tác giả sự bảo hộ hiệu quả hơn, giúp họ có cơ hội lựa chọn các quy định có lợi nhất cho mình. Đây cũng là một quy định mang tính tích cực, không hạn
chế những quyền lợi mà mỗi quốc gia mong muốn dành cho cơng dân nước mình <small>trong hiện tại và trong tương lai.</small>
Cùng với các quy định tại Điều 19 và Điều 20, Công ước Berne cho phép các quốc gia có thể dành cho tác giả là cơng dân nước mình những quyền lợi lớn hơn so với những quyền được quy định trong Công ước và không trái Công ước bằng cách: Quy định trong pháp luật quốc gia hoặc ký kết và thực hiện các điều
ước quốc tế có liên quan.
1.2. Những nội dung cơ bản của Công ước Berne
Các tác phẩm được Công ước Berne bảo hộ được quy định cụ thể tại Điều 2
của Công ước. Sự liệt kê các loại hình tác phẩm tại điều này là tương đối day đủ, chi tiết và toàn diện. Theo đó, các tác phẩm được bảo hộ có thể chia thành 3
<small>nhóm sau đây:</small>
- Các tác phẩm gốc trong lĩnh vực văn học, khoa học, nghệ thuật, không phân biệt hình thức hay phương thức biểu hiện (Điều 2 khoản 1 Công ước Berne).
- Các tác phẩm phái sinh được Công ước Berne bảo hộ như tác phẩm gốc
miễn là sự bảo hộ này không làm phương hại đến quyền tác giả của tác phẩm
- Các tuyển tập các tác phẩm văn học và nghệ thuật (các hợp tuyển, bộ bách khoa từ điển) theo Điều 2 khoản 5 Công ước Berne. Các tác phẩm này cũng được
bảo hộ như một tác phẩm nếu nó được chọn lọc và sắp xếp theo một nội dung nào đó để tạo nên một sản phẩm của hoạt động sáng tạo, miễn là việc bảo hộ đó
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">khơng gây tổn hại đến quyền tác giả của mỗi tác phẩm tạo nên tác phẩm sưu tập <small>đó.</small>
Bên cạnh việc quy định 3 nhóm tác phẩm được bảo hộ như trên, Cơng ước Berne cũng cho phép các quốc gia thành viên có quyền quy định trong pháp luật quốc gia mình việc bảo hộ hay không bảo hộ những thể loại cụ thể khi các tác phẩm ấy chưa được ấn định trên một hình thái vật chất (Điều 2 khoản 2) và cách
thức bảo hộ riêng đối với các văn bản chính thức của nhà nước như văn bản lập pháp, hành pháp, tư pháp (Điều 2 khoản 4).
Công ước không bảo hộ cho những tin tức hàng ngày hoặc những sự kiện, số liệu vụn vặt chỉ mang tính chất thơng tin báo chí vì chúng khơng phải là kết quả
của hoạt động sáng tạo của con người (Điều 2 khoản 8 Cơng ước Berne).
Nhìn chung, các tác phẩm được Công ước bảo hộ đã được quy định tương
đối đầy đủ, mang tính chất “md” cho các loại tác phẩm. Tuy nhiên, do sự phát triển của công nghệ và thị trường nên ngày nay đã có khá nhiều loại hình tác
phẩm cần được bảo hộ nhưng chưa được bổ sung vào Cơng ước, trong đó có các
chương trình máy tính và các sản phẩm của cơng nghệ đa phương tiện. Công ước về bản quyền WCT (WIPO Copyright Treaty) của WIPO đã phần nào đáp ứng
được đòi hỏi này.
1.2.2. Điều kiện được bảo hộ
Tiền đề cơ bản của việc bảo hộ các tác phẩm theo quy định của Công ước
Berne là nước xuất xứ (quốc gia gốc) của tác phẩm phải là một trong những nước thành viên của Công ước. Các tác phẩm muốn được bảo hộ sẽ phải thoả mãn ít
nhất một trong hai tiêu chí sau:
s Tiêu chí quốc tịch của tác giả
Sự bảo hộ của Công ước Berne được dành cho các tác giả là công dân của
một trong những nước thành viên của Liên hiệp và cho các tác phẩm của họ dù chúng được công bố hay chưa. Công ước Berne sử dụng một trong hai tiêu chuẩn sau để xác định tư cách công dân của tác giả:
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">* Tác giả mang quốc tịch của một trong những nước thành viên của Liên
<small>hiệp Berne, hoặc</small>
* Tac giả có nơi cư trú thường xuyên tại một trong những nước thành viên của Liên hiệp Berne.
s Tiêu chí nơi cơng bố tác phẩm lan đầu tiên
Tác phẩm đã được công bố (Published work) là tác phẩm đã được phát hành với sự cho phép của tác giả bằng bất kỳ phương pháp nào tạo ra bản sao in nhằm
đáp ứng nhu cầu hợp lý của công chúng, tuỳ thuộc vào bản chất của từng loại tác
Như vậy, nếu tác giả khơng thỏa mãn tiêu chí thứ nhất như đã trình bày ở
phần trên thì những tác phẩm của họ chỉ có thể được bảo hộ theo Cơng ước Berne
khi tác phẩm này được công bố lần đầu tiên tại một trong những quốc gia thành
viên của Liên hiệp hoặc đồng thời tại một quốc gia trong và quốc gia ngoài Liên
hiệp. Theo Công ước Berne, một tác phẩm được coi là công bố đồng thời ở nhiều
nước khi tác phẩm này được công bố ở hai hay nhiều nước trong thời hạn 30 ngày kể từ lần công bố lần đầu tiên (Điều 3 khoản 4 Công ước Berne).
Tuy nhiên, cũng có trường hợp ngoại lệ, đối với các tác phẩm không thoả
mãn những điều kiện nêu trên nhưng vẫn nhận được sự bảo hộ của Cơng ước
Berne. Đó là trường hợp các tác phẩm điện ảnh, kiến trúc và một số tác phẩm nghệ thuật (Điều 4 Công ước Berne).
1.2.3. Các quyền được bao hộ
a. Quyền kinh tế (Economic Rights)’
Theo Công ước Berne, quyền kinh tế bao gồm: Quyền dịch; quyền sao chép;
quyền phóng tác, cải biên, chuyển thể tác phẩm; quyền trình diễn cơng cộng tác
phẩm kịch, nhạc kịch và âm nhạc; quyên trần thuật công cộng các tác phẩm văn học; quyền truyền thơng cơng cộng trình diễn các tác phẩm; quyền phát sóng.
<small>3 Cơng ước Berne khơng có quy định về việc phân chia quyền tác giả thành guyén kinh rế và quyên tinh thần mộtcách rõ ràng, sự phân loại này dựa vào quy định tại Điều 6bis (quyền tỉnh thần), theo đó “độc lập với các quyềnkinh tế...”. Nhu vậy, trừ các quyền tại điều 6bis và điều 14ter các quyền còn lại được ngầm hiểu là các quyển kinhtế(Economic right).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">Các quyền kinh tế này có thể được tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả chuyển nhượng cho người khác. Các quyền này có thể đem lại những lợi ích vật chất nhất định cho chủ sở hữu quyền khi tác phẩm được sử dụng dưới nhiều hình
thức khác nhau như xuất bản, biểu diễn, phóng tác, cải biên, chuyển thé)
b. Quyền tinh thân (Moral Rights)
Các quyền tinh thần tồn tại song song và độc lập với quyền kinh tế ngay từ khi quyền tác phẩm hình thành dưới một hình thức nhất định (Điều 6 bis khoản 2
Công ước Berne). Cho dù quyền kinh tế đã được chuyển giao cho người khác thì
tác giả vẫn được bảo hộ toàn bộ các quyền tinh thần. Thời hạn duy tri các quyền
tinh thần này sau khi tác giả qua đời hoàn toàn do luật quốc gia quy định. Luật
quốc gia có thể duy trì việc bảo hộ các quyền tinh thần cho đến khi chấm dứt các
quyền kinh tế hoặc chấm dứt một số quyền tinh thần ngay sau khi tác giả qua đời
(Điều 6 bis khoản 2 Công ước Berne). Quyền tinh thần theo quy định cua Công
ước Berne gồm:
s Quyền đứng tên tác giả
s Quyền phản đối bất kỳ sự xuyên tạc, cắt xén hay sửa đổi hoặc những
vi phạm khác đối với tác phẩm có thể làm phương hại đến danh dự và tiếng tăm
của tác giả.
c. Quyền tiếp theo (Droit de suif)
Đặc trưng của “Quyền tiếp theo” là tính bất khả nhượng. Quyền này thuộc về tác giả khi tác giả còn sống, tác giả không thể chuyển nhượng quyền này cho
người khác như những quyền kinh tế khác. Sau khi tác giả qua đời, những người
được hưởng quyền tác giả đối với tác phẩm đó như người thừa kế của tác giả
(theo di chúc hoặc theo pháp luật) sẽ được hưởng “Quyền tiếp? theo” va cũng
khơng được chuyển nhượng quyền đó cho người khác. Quyền này cũng đem lại
cho tác giả những lợi ích vật chất nhất định.
Do đó, “Quyền tiép theo” khơng thể coi là quyền tinh thần nhưng cũng không han là một quyền kinh tế. Giá trị tăng lên đối với tác phẩm đã chuyển
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">nhượng lần đầu đã đem lại quyền này cho tác giả hay cá nhân, tổ chức được hưởng quyển tác giả đối với tác phẩm này sau khi tác giả qua đời.
“Quyền tiếp theo” là quy định đặc biệt chỉ dành cho bản gốc của các tác phẩm nghệ thuật, bản thảo gốc viết tay của các nhà văn và các nhà soạn nhạc nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng cho các tác giả đối với khoản lợi nhuận tăng lên từ tác phẩm của mình do danh tiếng và tài năng của họ dù tác phẩm đó đã
được chuyển nhượng trước đó.
Theo quy định của Cơng ước Berne, chính tác giả hoặc sau khi tác giả chết,
tổ chức hay cá nhân theo Luật quốc gia được hưởng quyền tác giả sẽ được hưởng một quyền, không thể chuyển nhượng liên quan đến việc bán đổi tác phẩm đó sau
khi tác giả đã chuyển nhượng lần đầu.
1.2.4. Thời hạn bao hộ
Thời hạn bảo hộ có ý nghĩa rất lớn trong việc bảo hộ quyền tác giả. Trong thời hạn bảo hộ, tác giả của các tác phẩm được bảo vệ chống lại mọi hành vi xâm
hại quyền tác giả và được toàn quyền khai thác, sử dụng tác phẩm. Hết thời hạn này, tác phẩm sẽ thuộc về công cộng, bất kỳ ai cũng có quyền sử dụng, khai thác
mà khơng phải trả tiền.
Theo quy định chung của Công ước Berne, thời hạn bảo hộ quyền tác giả được ấn định là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời (Điều 7 khoản 1). Trong trường hợp tác phẩm của đồng tác giả, thời hạn bảo hộ theo
Công ước Berne là suốt cuộc đời các tác giả và 50 năm sau khi tác giả qua đời nhưng thời hạn 50 năm này chỉ được tính sau khi đồng tác giả cuối cùng qua đời
(Điều 7 bis).
Ngoài ra, Cơng ước cịn quy định thời hạn bao hộ riêng cho từng đối tượng
như: Tác phẩm điện ảnh, tác phẩm bút danh hoặc khuyết danh, tác phẩm nhiếp
ảnh và mỹ thuật ứng dụng.
Bên cạnh các quyền độc quyền của tác giả (chủ sở hữu quyền hồn tồn có
quyền cho phép hoặc không cho phép sử dụng, khai thác tác phẩm), Công ước
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Berne cũng quy định một số trường hợp sử dụng tự do tác phẩm mà không cần xin phép tác giả. Các trường hop này được quy định tại Điều 10 và Điều 10 bis
Công ước Berne. Tuy nhiên, dù không xin phép tác giả nhưng trong mọi trường
hợp sử dụng tự do tác phẩm nêu trên, người sử dụng đều phải ghi rõ nguồn gốc tác phẩm và tên tác giả (nếu có). Mọi trường hợp sử dụng tác phẩm thiếu hành vi
xử sự trên đều coi là vi phạm quyền tác giả.
1.2.6. Các quy định liên quan đến thực thi quyền duoc bao hộ
Đây là quy định nhằm đảm bảo cho tác giả có thể thực thi các quyền mà Cơng ước Berne dành cho họ. Để chứng minh mình là tác giả, từ đó có thể được
hưởng những quyền lợi chính đáng đối với thành quả sáng tạo của mình, tác giả chỉ cần ghi tên mình trên tác phẩm theo thơng lệ ngay cả khi tên tác giả là một bút hiệu (không gây nên một nghi vấn nào về danh tính thực của tác giả). Cơng
ước Berne khơng địi hỏi việc ghi tên tác giả phải được thể hiện dưới những ký
hiệu hay quy ước nhất định như một số Công ước khác về SHTT.
Đối với những tác phẩm bút danh hoặc khuyết danh, nhà xuất bản có tên ghi trên tác phẩm được thừa nhận là đại diện của tác giả tác phẩm đó mà khơng cần một bằng chứng øì khác. Nhà xuất bản này sẽ được hưởng quyền được bảo hộ và
thực thi các quyén ấy cho đến khi tác giả của tác phẩm đó tiết lộ danh tính va
chứng minh mình là tác giả của tác phẩm đó.
Nếu tác phẩm chưa được cơng bố và chưa xác định được tác giả là ai nhưng có căn cứ cho rằng tác giả là công dân của một trong những nước thành viên của Cơng ước thì quốc gia thành viên của Liên hiệp có quyền chỉ định một cơ quan có thẩm quyền (có thẩm quyền bảo hộ và thực thi quyền tác giả) đại diện cho tác giả đó. Trong trường hợp này, quốc gia bắt buộc phải thông báo bằng văn bản cho Tổng Giám đốc của tổ chức SHTT thế giới - WIPO (công chức cao cấp nhất
và là đại diện của Liên hiệp Berne) về cơ quan được chỉ định đại diện để Tổng
Giám đốc thông báo cho các quốc gia thành viên khác (Điều 15 khoản 4 Công <small>ước Berne).</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">Ngồi ra, Cơng ước Berne (Điều 16) cịn có những quy định liên quan đến biện pháp chống lại việc sử dụng, lưu thông các bản sao tác phẩm phi pháp.
1.2.7. Những điều khoản đặc biệt dành cho các nước đang phát triển
Công ước Berne đã dành phụ lục gồm 6 điều khoản (từ điều I đến Điều VD
để quy định về các điều khoản đặc biệt dành cho các nước thành viên của Liên
hiệp hiện đang là những quốc gia đang phát triển. Phụ lục này là một phần thống
nhất của Đạo luật hiện hành. Theo đó, các nước thành viên khác của Công ước
Berne mong muốn dành cho các nước thành viên đang phát triển những điều kiện
thuận lợi hơn để có thể hội nhập vào sân chơi chung của Công ước, bởi thật không công bằng cho các nước này khi phải áp dụng ngay tất cả những quy định khá khát khe của Công ước khi điều kiện kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khan. Các nước đang phát triển sẽ có thêm một khoảng thời gian phù hợp để thích nghi và chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết nhằm thực thi day đủ các quy định của Công ước Berne như bất kỳ một nước thành viên nào khác của Liên hiệp. Đồng thời các quy định này cũng giúp cho các tác phẩm đến được công chúng dễ dàng, nhanh chóng, thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hố, xã hội.
Khi các nước đang phát triển đáp ứng được các điều kiện về nội dung và thủ
tục sẽ được hưởng những ưu đãi theo quy định tại Phụ lục Công ước Berne. Đó là: Hạn chế quyền dịch (Điều II), hạn chế quyền sao chép (Điều HT). Tuyên bố về
<small>việc áp dụng các ưu đãi được thông báo theo thời hạn do Công ước quy định.</small> 1.3. Mối quan hệ giữa Công ước Berne với Công ước của WIPO về bảo hộ quyền tác giả
Tổ chức SHTT thế giới (WIPO) là tổ chức quốc tế liên chính phủ có trụ sở tại Geneva Thuy sỹ. WIPO là một trong 16 tổ chức chuyên môn của hệ thống các
tổ chức quốc tế của Liên hợp quốc, chịu trách nhiệm đối với việc xúc tiến bảo hộ quyền SHTT trên toàn cầu thông qua các hoạt động hợp tác giữa các quốc gia, và
là tổ chức quốc tế chịu trách nhiệm quản lý các điều ước quốc tế đa biên khác
nhau liên quan đến các khía cạnh pháp lý và hành chính của SHTT.
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Đã có hơn 160 quốc gia là thành viên phải tuân theo các qui định của các Hiệp định của WIPO. Ngồi ra có khoảng 10 quốc gia khác tuy chưa phải là thành viên WIPO nhưng đã tự nguyện cam kết tuân theo các hiệp định của
WIPO. Các điều ước quốc tế của WIPO về bảo hộ quyền tác giả gồm: Công ước
Berne (1886) bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật; Hiệp ước của WIPO
(1996) về quyền tác giả.
Vào những năm 1970 và 1980, nhiều tiến bộ công nghệ mới đã diễn ra: Như
công nghệ sao chép trên giấy, công nghệ video, hệ thống ghi băng thuận lợi cho
“băng đĩa gia đình”, phát sóng qua vệ tinh, truyền hình cáp, việc tăng thêm các chương trình máy tính quan trọng, lưu trữ trên máy tính tác phẩm và cơ sở dữ liệu điện tu] đòi hỏi cần phải được điều chỉnh.
Sau khi phê chuẩn Hiệp định TRIPs dưới sự bảo trợ của GATT, công việc
chuẩn bị cho các quy tắc mới về quyền tác giả tại các uỷ ban của WIPO đã triển
khai, nhằm giải quyết triệt để những vấn đề chưa được Hiệp định TRIPs đề cập tới. Cuối cùng, vào năm 1996, Hội nghị ngoại giao WIPO về một số vấn đề bản quyền tác giả đã phê chuẩn Hiệp ước của WIPO về Bản quyền tác giả (WCT).
Theo quy định, số lượng các nước thành viên phê chuẩn để Hiệp ước có hiệu lực
là 30 thành viên. WTC bắt đầu có hiệu lực từ 6.3.2002. Tính đến 17.4.2005 đã có <small>51 nước tham gia WTC.</small>
Ban chất pháp lý và mối quan hệ của WCT với Công ước Berne thể hiện ngay ở câu đầu tiên của WCT. Điều 1(1) quy định rằng “Hiệp ước này là một cam kết đặc biệt được đề cập tới trong Điều 20 Công ước Berne và ràng buộc đối với những quốc gia thành viên của Liên mình Berne”. Điều 1(4) của Hiệp ước WTC quy định rằng “Các nước thành viên sẽ tuân thủ từ Điều 1 tới Điều 21 và
phần phụ lục của Cơng ước Berne.”
Qua các điều trên có thể thấy, mối quan hệ giữa WCT với Công ước Berne
thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, WTC khẳng định lại những nội dung quyền tác giả bảo hộ theo
Công ước Berne cũng được bảo hộ theo WTC.
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19"><small>chương trình máy tính và các bộ sưu tập dữ liệu.</small>
Tại Điều 6 (1) WTC quy định quyền độc quyền cho phép xuất bản tác phẩm
gốc và các bản sao của tác phẩm thơng qua việc bán hay chuyển nhượng quyền
sở hữu, nói cách khác, đó là quyền độc quyền phân phối. Trong Cơng ước Berne, chỉ có tác phẩm quay phim mới được trao quyền này.
Thứ ba, việc các nước tham gia WTC không ảnh hưởng đến nghĩa vụ mà các
thành viên có với nhau theo Cơng ước Berne. Điều 1(2) của Hiệp ước quy định: “Không quy định nào trong Hiệp ước gây tổn hại tới các nghĩa vụ hiện đang tồn
tại mà các thành viên có với nhau theo Cơng ước Berne về Bảo hộ các tác phẩm
<small>văn học và nghệ thuật.”</small>
Ngồi quan hệ với Cơng ước Berne, WTC khơng liên quan tới bất kì điều ước quốc tế nào khác trong lĩnh vực SHTT, kể cả TRIPs và UCC (Universal
Copyright Convention), cũng như bản thân nó khơng được mâu thuẫn với bất kì
<small>Cơng ước nào khác trong cùng lĩnh vực.</small>
1.4. Mối quan hệ giữa Công ước Berne với điều ước của WTO về bảo hộ quyền tác giả
Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) là tổ chức quốc tế chỉ hoạt động chuyên
về các vấn đề liên quan đến các qui tắc của thương mại toàn cầu liên quốc gia. Khác với WIPO, WTO không phải là tổ chức chuyên môn của hệ thống các tổ
chức quốc tế của Liên Hợp quốc. Tuy vậy, hoạt động của WTO có quan hệ mật thiết với hoạt động của Liên Hợp quốc. Được thành lập va đi vào hoạt động từ 1/1/1995, đến nay WTO đã có 150 thành viên và hàng loạt quan sát viên. Liên
Hợp quốc, UNCTAD, IMF, WB, FAO, WIPO, OECD là các tổ chức quốc tế
quan sát viên tại Hội đồng tồn thể của WTO.
<small>Tại Vịng đàm phán Uruguay năm 1986 - 1994 các nước đã ký Hiệp địnhTRIPs (Agreement on Trade Related Aspects of Intellectural Property Rights).</small>
mực và quy định của Công ước Berne.
Cơng ước Berne có mối quan hệ mật thiết với Hiệp định TRIPs. Điều 20 của
Công ước Berne đặt ra qui định quan hệ với TRIPs như sau: "Chính phú các nước
liên hiệp (Berne) được bảo lưu quyền ký kết những thoả thuận chuyên biệt giữa họ với nhau nhằm nhờ những thoả thuận đó mà các tác giả bản quyền có được những quyền ưu đãi hơn những quyền có được theo Cơng ưóc Berne, hoặc có <small>chứa đựng những qui định không trái với Công ước này”.</small>
<small>Qui định này là đặc biệt quan trọng khi các thành viên Công ước Berne</small> đồng thời là thành viên của WTO (và bị ràng buộc theo TRIPs). Trong trương
hợp như vậy TRIPs sẽ là “luật riêng” (lex specialis) của Công ước Berne (lex
generals) theo nghĩa Điều 20 của Công ước Berne đã nêu trên.
TRIPs chỉ điều chỉnh các quyền kinh tế của Cơng ước Berne.
Ngồi việc khẳng định lại những chuẩn mực của Cơng ước Berne, Hiệp định
hoặc các khái niệm toán học”.
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">chương trình máy tính và các bộ sưu tập dữ liệu. Ngồi ra, Điều 11 TRIPs nói đến quyền cho th, quyền này khơng có trong Cơng ước Berne.
1.5. Sự tương thích giữa các quy định của pháp luật Việt Nam với các quy định của Công ước Berne về quyền tác giả
1.5.1. Sự tương đông giữa quy định của pháp luật Việt Nam với quy định
của Công ước Berne về quyền tác gia
Hiện nay, các quy định về bảo hộ quyền tác giả được ghi nhận trong BLDS
sửa đổi năm 2005 (từ Điều 735 đến Điều 743), Luật SHTT năm 2005 và văn bản
<small>pháp luật khác.</small>
Luật SHTT 2005 là đạo luật thống nhất đầu tiên về SHTT của Việt Nam. Sự
ra đời của Luật SHTT 2005 đánh dấu bước chuyển biến lớn trong việc hoàn thiện
khung pháp lý về quyền tác giả. Luật về cơ bản đã khắc phục được những hạn
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">chế của BLDS cũ, tiếp cận được các tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với Công ước Berne cũng như các Công ước quốc tế, các Hiệp định song phương về quyền tác giả mà Việt Nam đã tham gia. Điều này được thể hiện ở một số điểm dưới đây:
Về quyền nhân thân và quyền tài sản, Luật SHTT 2005 đã được thiết kế theo hướng chỉ rõ các quyền nhân thân (Điều 19), quyền tài sản (Điều 20), đồng thời quy định về chủ sở hữu quyền tác giả phù hợp với quy định tại Luật mẫu của WIPO về quyền tác giả và quyền liên quan cũng như Công ước Berne.
Các thuật ngữ, khái niệm tại Luật SHTT cũng đã được tiếp thu từ phần giải
thích thuật ngữ của Luật mẫu WIPO về quyền tác giả, do đó đã phù hợp với Cơng ước Berne. Ví dụ: Về thuật ngữ “tác phẩm đã công bố”, Luật SHTT 2005 quy định là tác phẩm đã được phát hành với sự đồng ý của chủ sở hữu quyền tác giả
để phổ biến đến công chúng với một số lượng bản sao hợp lý” hồn tồn phù hợp
với Cơng ước Berne, đã khắc phục được sai sót trong Điều 5 Nghị định 76/CP
ngày 29/11/1996 hướng dẫn thi hành một số quy định về quyền tác giả trong BLDS. Tại Nghị định 76/CP đã khơng quy định rõ cơng bố phải có sự đồng ý của
tác giả, không lấy sự dịch chuyển bản sao của tác phẩm làm yếu tố quyết định.
Khái niệm chủ sở hữu quyền tác giả” cũng đã được sử dụng để thay thế cho khái niệm chủ sở hữu tác phẩm trong BLDS cũ, khắc phục tình trạng gây hiểu lầm
giữa sở hữu quyền tác giả với sở hữu đồ vật cụ thể.
Ngoài ra tại Luật SHTT 2005 cũng đã đưa ra quy định về các hành vi xâm phạm quyên tác gia’, có một phần riêng về bảo vệ quyền SHTT, trong đó có
quyền tác giảŸ, qua đó các chủ thể có thể tự bảo vệ quyền hoặc yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền” tiến hành các biện pháp dân sự, hành chính, hình sự và
các biện pháp khác để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, các biện pháp bảo đảm thực thi theo quy định của Hiệp định TRIPs về các khía cạnh
liên quan đến thương mai của quyền SHTT cũng đã được thể chế hoá trong Luật
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">SHTT 2005, nó sẽ góp phần khắc phục tình trạng thực thi quyền SHTT nói chung và quyền tác giả nói riêng vẫn cịn nhiều hạn chế trong thời gian qua.
Với những phân tích ở trên, có thể thấy Luật SHTT 2005 bao gồm 6 Phần với 222 Điều, về cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và Công ước Berne.
Đồng thời, Luật là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo hộ và thực thi quyền tác giả
trong giai đoạn hiện nay, góp phần thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của Việt <small>Nam.</small>
1.5.2. Một số quy định khác nhau giữa Luật SHTT 2005 va Cơng ước
Như phần trên đã phân tích, các quy định về quyền tác giả trong Luật sở hữu trí tué 2005, về cơ bản phù hợp với các chuẩn mực quốc tế và Công ước Berne.
Tuy nhiên, một số quy định của Luật sở hữu trí tué 2005 chưa phù hợp với Công
ước, cụ thể:
Thứ nhất, về các loại hình tác phẩm được bảo hộ
Luật SHTT 2005 điểm b khoản 1 Điều 14 có quy định “bài nói khác” cũng là một trong những tác phẩm được bảo hộ. Với quy định này Việt Nam đã đơn phương mở rộng phạm vi đối tượng được bảo hộ quyền tác giả sang một phạm trù không xác định là tác phẩm nói miệng, tức tác phẩm khơng được định hình dưới
dạng vật chất cụ thể. Thực tế cho thấy, nếu khơng có các quy định hướng dẫn cụ thể như thế nào là bài nói, bài nói như thế nào thì được bảo hộ, bào nói nào
khơng được coi là đối tượng cần bao hộ: thi quy định này sẽ tạo nên rất nhiều cách hiều khác nhau và gây khó khăn cho q trình giải thích và áp dụng pháp
luật. Đồng thời, việc bảo hộ loại tác phẩm này kéo theo nhiều hậu quả, chẳng hạn số lượng tác phẩm phải bảo hộ tăng lên đáng kể, khơng có bằng chứng để xử lí
khi xảy ra tranh chấp. Đồng thời, trên thực tế cơng chúng khơng được hưởng lợi
øì từ việc nhà nước bảo hộ tác phẩm, vì hộ khơng thể tiếp cận được tác phẩm nói
miệng. Cho đến nay, khơng có một điều ước quốc tế nào cũng hầu như khơng có
<small>nước nào quy định như vậy.</small>
Thứ hai, giới hạn quyền đối với chương trình máy tính
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Chương trình máy tính là loại đối tượng mới, rất phức tạp nhưng đồng thời cũng có vai trị quan trọng trong hoạt động khoa học, cơng nghệ, thơng tin, giải trí... Nhưng Luật khơng quy định giới hạn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc
tế đê đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công chúng, nhất là công chúng ở một nước nghèo như Việt Nam. Công chúng không được quy định rõ quyền làm
một bản sao chương trình để lưu giữ, đề phịng khi có sự cố kĩ thuật khi sử dụng
bản gốc. Công chúng không được quy định rõ quyền gidi md, phân tích chương trình để tìm hiểu ngun lí hoạt động, cấu trúc... phục vụ cho việc sáng tạo
chương trình mới hoặc sửa đổi chương trình cho tương thích với giao diện, đảm
bảo cho việc hoạt động đồng bộ với các hệ thống chương trình ứng dụng khác. Luật không sử dụng khả năng rút ngắn thời hạn bảo hộ so với thời hạn bảo hộ chung (tính thời han theo đời người cộng 50 năm)'°.
Thứ ba, tác phẩm văn học và nghệ thuật dân gian
Khoản 2 điều 23 Luật SHTT 2005 quy định về quyền tác giả đối với tác
phẩm văn học, nghệ thuật dân gian. Với quy định này, tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian giống như tác phẩm thuộc về công chúng do hết thời hạn bảo hộ quyền tài sản theo quy định tại Điều 43 Luật SHTT 2005.
Như vậy tất cả mọi người, kể cả người nước ngoài được tự do sử dụng kho
tàng di san văn hoc và nghệ thuật dân gian của Việt Nam, chỉ với điều kiện người sử dụng thực hiện một số nghĩa vụ mang tính phi kinh tế và điều kiện khác. Quy
định này không phù hợp với khoản 4 Điều 15 Công ước Berne.
Thứ năm, về nội dung quyền tác gid. Nhìn chung, những quy định liên quan đến nội dung quyền tác giả trong Luật SHTT 2005 là thống nhất với các quy định của Công ước. Tuy nhiên, tại điều 20 Luật SHTT 2005 còn quy định thêm một
quyền tài sản khác là “quyên cho thuê ban gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh,
chương trình máy tính”. Đây là quy định tương đối phù hợp với hiện trạng sử
dụng và khai thác tác phẩm tại Việt Nam. Công ước Berne không quy định quyền
<small>!° Đỗ Khác Chiến, "10 ẩn họa đốt với lợi ích của Việt Nam", Người đại biểu nhân dan số 221 (613), ngày</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">Thực thi quyền tác giả được hiểu là tổng hợp các phương thức, biện pháp nhằm triển khai trên thực tế cũng như bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu các
tác phẩm văn học, khoa học, nghệ thuật.
Việc thực thi quyền tác giả nói chung và Cơng ước Berne nói riêng có ý
nghĩa lớn đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Cần nhận thức rõ
một điều rằng việc thực thi Công ước Benrne nằm trong cả một tổng thể của việc thực thi quyền SHTT và không tách rời hệ thống các biện pháp thực thi tổng thể
trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, do các đối tượng của quyền SHTT có những đặc
trưng khác nhau nên việc bảo hộ đối với từng lĩnh vực cũng có những điểm riêng, <small>đặc thù.</small>
Thực thi quyền SHTT đem lại ý nghĩa to lớn đối với các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội. Điều này được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản sau đây: Ghi nhận và bảo vệ quyền của các chủ thể của quyền SHTT;
Khuyến khích hoạt động sáng tao ra các đối tượng của SHTT;
<small>Làm lạnh mạnh hoá hoạt động sáng tạo;</small> Nâng cao ý thức tôn trọng quyền SHTT;
Ngăn chặn, răn đe và xử lý các hành vi xâm phạm quyền SHTT;
Nâng cao vị thế của Việt Nam trong hội nhập quốc tế, đặc biệt là hội nhập quốc tế trong lĩnh vực SHTT3...
Mục đích, u cầu của việc thực thi Cơng ước
<small>- Việc thực thi Cơng ước Berne cũng có các mục tiêu chung như việc thực</small> thi quyền SHTT, một mặt nhằm đáp ứng được địi hỏi về bồi thường nhanh chóng
các vi phạm và để ngăn ngừa các vi phạm tiếp theo, mặt khác việc thực thi cũng cần được áp dụng theo một cách thức nhất định để tránh tạo ra rào cản đối với
hoạt động thương mại hợp pháp và đưa ra những sự đảm bảo chống lại sự lạm dụng các thủ tục đó.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">- Việc thực thi cần đảm bảo công bằng và hợp lý, khơng được phức tạp hóa
một cách khơng cần thiết hoặc tốn kém, hoặc đòi hỏi những hạn chế chậm trễ
<small>khơng có lý do chính đáng.</small>
- Các quyết định giải quyết vụ việc phải được thực hiện một cách công khai
minh bạch và rõ ràng đảm bảo cho chủ sở hữu quyền có thể bảo vệ tố nhất quyền
lợi của mình.
- Phải tạo cơ hội được đề nghị xem xét lại các quyết định hành chính cuối
cùng của cơ quan xét xử, ít nhất là xem xét lại các khía cạnh pháp lý của các
quyết định xét xử vụ việc ở cấp sơ thẩm .
- Việc thực thi Công ước cũng cần đảm bảo không được tạo ra bất kỳ nghĩa
vụ nào về việc phải thiết lập một hệ thống tư pháp để thực thi quyền SHTT tách
biệt với hệ thống tư pháp để thực thi luật nói chung.
2.2. Những lợi ích và bất lợi đối với Việt Nam khi gia nhập Công ước
Berne năm 1886 về bảo hộ quyền tác giả
<small>2.2.1. Những lợi ích có được khi Việt Nam gia nhập Công ước</small>
Xuất phát từ tầm quan trọng của Công ước Berne cũng như nhằm thực hiện các cam kết quốc tế và chuẩn bị cho việc gia nhập WTO, ngày 7/6/2004 Chủ tịch nước đã ký quyết định số 332/2004/QD-CIN về việc Việt Nam gia nhập Công ước Berne về. Hiện nay, chúng ta đang đứng trước một sân chơi văn hóa thời hội
nhập với đầy đủ sự bình đăng về mặt pháp lý, nhưng cũng khơng ít những thách
thức nhất trong giai đoạn "tiền hội nhập" mà ở đó có biết bao nhiêu vấn đề bức xúc cần giải quyết trong lĩnh vực văn học và nghệ thuật. Tuy vậy, cũng có thể
khẳng định rằng, việc gia nhập Công ước Berne của Việt Nam là một yêu cầu tất
yếu khách quan trong xu thế hội nhập văn hóa và vấn đề bảo hộ quyền tác giả trở thành mối quan tâm rộng lớn có tính quốc tế, hiển nhiên Việt Nam khơng thể <small>đứng ngồi cuộc chơi này.</small>
Xuất phát từ đặc điểm của Việt Nam trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả
cũng như các lĩnh vực khác như kinh tế, thương mại, đầu tư liên quan đến bảo hộ
quyền tác giả, đặc biệt Việt Nam còn là nước đang phát triển nên khi gia nhập
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Công ước Berne, Việt Nam cũng như bất kỳ quốc gia nào khi trở thành thành viên
của Công ước Berne đều có những lợi ích cơ bản sau đây:
Thứ nhất là vấn đề tự động bảo hộ và mở rộng thị trường của tác phẩm. Đây
là lợi ích quan trọng nhất đối với bất kỳ quốc gia nào khi gia nhập Cơng ước. Bởi
vì tất cả các tác phẩm văn học nghệ thuật và khoa học dù chưa công bố hay đã
công bố lần đầu tiên của nước đó mà đang có giá trị bảo hộ theo thời hạn quy
định tại Điều 7 Công ước Berne đều tự động được bảo hộ trong tất cả các nước
thành viên khác của Công ước (Điều 1 và khoản 6 Điều 2 của Công ước).
Thứ hai là nâng cao sức cạnh tranh của tác phẩm ở thị trường trong nước và khuyến khích việc sáng tạo tác phẩm. Có thể nói, đây là một điểm lợi có ý nghĩa
về mặt chiến lược đối với sự phát triển của lĩnh vực văn học nghệ thuật và khoa học. Bởi vì khi gia nhập Cơng ước thì việc phổ biến tác phẩm nước ngồi ở trong nước khơng cịn được tự do như trước khi gia nhập mà việc phổ biến phải xin phép và trả tiền cho tác giả nước ngoài với giá không thấp hơn so với giá phải trả
cho tác phẩm của tác giả trong nước. Sự thay đổi này xuất phát từ việc tác phẩm
nước ngoài cũng được tự động bảo hộ ở các nước thành viên khác và ngược lai.
Do vậy, nó địi hỏi chấm dứt mọi hành vi phổ biến tác phẩm trái phép, qua đó
nâng cao vị thế cạnh tranh của tác phẩm trong nước tại thị trường nội địa với tác phẩm nước ngoài và đồng thời là yếu tố quyết định để khuyến khích sáng tạo tác
phẩmở trong nước phát triển.
Thứ ba là vấn đề lợi ích kinh tế. Xét về mặt kinh tế vĩ mơ thì việc gia nhập
Cơng ước có những lợi ích kinh tế lớn. Bất kể trình độ phát triển kinh tế, xã hội
như thế nào, khi một quốc gia gia nhập Cơng ước Berne, quốc gia đó trở thành
một bộ phận của hệ thống quốc tế về bảo hộ quyền tác giả, hay nói rộng hơn là hệ thống quốc tế về thương mại sản phẩm và dịch vụ được bảo hộ theo quyền tác
giả. Đây chính là một yếu tố quan trọng đối với việc trao đổi văn hố, thơng tin, cơng nghệ, sản phẩm cơng nghiệp, giải trí.
Thứ tu là thiết lập mối quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quyền tác giả
và thúc đẩy quan hệ đầu tư, thương mại và các quan hệ khác phát triển. Việc gia
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">nhập Công ước Berne thể hiện sự tự nguyện ràng buộc quyền và nghĩa vụ của một quốc gia đối với việc bảo hộ quyền tác giả trong đó có tác giả của các nước
thành viên. Đây là một việc làm có ý nghĩa tiên quyết mang lại lợi ích cho quốc
gia cũng như cộng đồng tác giả, chủ sở hữu tác phẩm trong thành công của hợp
tác quốc tế về baỏ hộ quyền tác giả.
Đồng thời việc gia nhập Công ước này cịn có lợi trong việc xây dựng một
mơi trường đầu tư trong nước hấp dẫn, một thị trường hàng hố với các sản phẩm
trí tuệ phát triển, có thể thu hút hơn nữa vốn đầu tư nước ngoài vào các ngành
kinh tế trong đó có các ngành sản xuất, dịch vụ liên quan đến quyền tác giả, cơ sở để gia nhập các Công ước đa phương khác như Công ước Rome năm 1961 về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát sóng: hiệp định
năm 1995 về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT...
Thứ năm, việc gia nhập Công ước Berne của Việt Nam sẽ làm thay đổi tình trạng cơ lập của thế giới đối với Việt Nam trong quan hệ quốc tế về quyền tác gia mà thực chất của việc cô lập này đã kéo dài rất nhiều năm và có ảnh hưởng khơng nhỏ đến quá trình phát triển và hội nhập quốc tế của Việt Nam. Mặc dù
việc gia nhập Công ước Berne không đặt hy vọng giải quyết được tất cả mọi vấn
đề về bảo hộ quyền tác giả, quyền kề cận cũng như các vấn đề khác liên quan đến bảo hộ bảo hộ quyền tác giả nhưng phải nói rằng, việc gia nhập đó đã mở
đầu cho Việt Nam bước sang một trang mới trong việc thiết lập quan hệ bảo hộ
quyền tác giả với hầu hết các nước trên thế giới là thành viên của Công ước, tạo ra một chỗ đứng mới trong cộng đồng quốc tế; góp phần tạo lập và cải thiện những chính sách mới về quyền tác giả trong tổng thể những chính sách "đổi mới" của Việt Nam, đồng thời tạo nên sự tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với
Việt Nam. trước yêu cầu của công cuộc hội nhập quốc tế này.
Thứ sáu, việc gia nhập Công ước Berne của Việt Nam tác động tích cực đến
việc thiết lập một trật tự trong công tác quản lý, khai thác và sử dụng tác phẩm.
Như đã biết, trước khi Việt Nam chưa gia nhập Cơng ước thì một khối lượng lớn
tác phẩm, sản phẩm có nguồn gốc nước ngồi hoặc có nguồn gốc trong nước
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">được sử dụng một cách tự do, người sử dụng không phải xin phép cũng như không phải trả thù lao. Công tác quản lý trong lĩnh vực này gần như bị buông lỏng. Nhưng khi Việt Nam gia nhập Công ước, nếu tất cả những hành vi đó vẫn
tiếp tục diễn ra thì Việt Nam bị coi là nước thành viên vi phạm Công ước, đồng thời bị Liên minh Berne, các nước thành viên lên án và có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý về những hành vi vi phạm pháp luật của mình. Chính từ yếu tố này đã buộc Việt Nam phải thực hiện nghiêm chỉnh Công ước và tự đổi mới công tác
quản lý, khai thác sử dụng tác phẩm để bản vệ, khai thác mọi quyền lợi của mình
phát sinh từ Cơng ước và thực hiện tốt mọi nghĩa vụ của một nước thành viên. Thứ bảy, việc gia nhập Cơng ước Berne của Việt Nam có lợi là tạo ra một
tiền đề, một cơ hội tốt để hội nhập sâu hơn vào hệ thống bảo hộ quyền tác giả. Cụ thể là tiếp tục gia nhập Công ước Giơnevơ, Công ước Rome, hiệp định TRIPs.
Như vậy, cái lợi của việc gia nhập Cơng ước Berne chính là một sự lựa chọn tất
yếu và cũng là dip tốt để Việt Nam chuẩn bị, tập duot, kiểm nghiệm hệ thống của
bảo hộ quyền tác giả trước những thách thức lớn hơn khi hội nhập vào Tổ chức
thương mại thế giới, trong đó có việc tham gia Hiệp định TRIPs.
Thứ tám, việc gia nhập Cơng ước Berne có lợi là loại bỏ những yêu cầu đàm
phán, ký kết các hiệp định song phương về quyền tác giả với từng nước thành
viên Cơng ước. Bởi vì Cơng ước là luật chơi chung, áp dụng cho tất cả các nước thành viên. Khi Việt Nam là thành viên của Công ước thì Việt Nam cũng chịu sự ràng buộc chung của Cơng ước đó. Với tinh than này, việc gia nhập Cơng ước có
giá trị làm giảm gánh nặng về thời gian cũng như chi phí cho đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song phương về quyền tác giả với các nước.
Thứ chín, việc gia nhập Cơng ước Berne có lợi là Việt Nam được hưởng một
số ưu đãi do Việt Nam là một nước đang phát triển. Vấn đề này được quy định tại
Phụ lục Công ước. Theo Quyết định của Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 7/6/2004 về việc gia nhập Cơng ước Berne thì Việt Nam
cơng bố áp dụng chế độ ưu đãi dành cho các nước đang phát triển theo quy định tại Điều II và Điều II của phụ luc Công ước. Dé được hưởng ưu đãi nói trên, các
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">tổ chức và cơng dân Việt Nam phải tuân thủ các quy định nghiêm ngặt và chặt chẽ tại hai điều của Công ước nói trên.
Với tất cả những lợi ích nêu trên cho thấy, việc gia nhập Công ước Berne về
bảo hộ quyền tác giả của Việt Nam chắc chắn sẽ thúc đẩy việc bảo hộ tác phẩm ngày càng hoàn thiện và phát triển, đồng thời khuyến khích các hoạt động sáng
tạo cũng như các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu tác phẩm. Các tác giả Việt
Nam sẽ được hưởng những lợi ích vật chất thông qua việc khai thác, sử dụng tác
phẩm của mình; đồng thời được bảo đảm quyền lợi khi đưa tác phẩm Việt Nam
<small>ra nước ngoài.</small>
2.1.2. Những bát lợi đốt với Việt nam khi gia nhập Cơng ưóc
Bất kỳ quốc gia nào trước khi gia nhập Công ước Berne cũng như các điều ước quốc tế khác đều đặt ra sự cân nhắc giữa những điểm có lợi và những điểm
bất lợi để đưa ra quyết định cuối cùng của mình về việc gia nhập hay khơng gia
nhập. Bây giờ, vấn đề này không đặt ra nữa, bởi vì Việt Nam đã trở thành quốc gia thứ 156 tham gia Công ước. Song, việc gia nhập Công ước của Việt Nam
chứng tỏ những điểm có lợi được xác định là vấn đề chủ yếu, còn những điểm bất
lợi chỉ là vấn đề thứ yếu có thể vượt qua và khắc phục được. Có thể trình bày một
số điểm bất lợi khi gia nhập Công ước Berne dưới đây:
Thứ nhất, thị trường văn hoá nghệ thuật trong nước sẽ bị khủng hoảng thiếu
tác phẩm nhất là các tác phẩm nước ngồi. Bởi vì phạm vi bảo hộ các tác phẩm
văn học, nghệ thuật theo quy định của Công ước Berne rất rộng và hơn nữa việc
tham gia cuộc chơi này địi hỏi phải thực hiện một cách cơng bằng và nghiêm túc. Do vậy, chúng ta phải tổ chức lại hoặc xây dựng cơ chế quản lý mới trong lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả nhằm dam bảo thực thi Cơng ước Berne có hiệu
quả. Và như vậy, tất yếu độc giả yêu chuộng văn học nghệ thuật nước ngoài sẽ bị
khủng hoảng thiếu tác phẩm. Thị trường văn học dịch sẽ vắng vẻ và một số nhà xuất bản sẽ bị hãng hụt vì mất đi những mặt hàng là tác phẩm nước ngoài trên thị trường sách, băng điã. Điều đó sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ đến lợi nhuận, nguồn thu
nhập của các doanh nghiệp và các nhà xuất bản.
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">Thứ hai, chi phí cho việc khai thác sử dụng các tác phẩm văn học nghệ thuật sẽ tăng cao. Bởi vì trong việc khai thác, sử dụng tác phẩm, ngoài việc phải xin phép tác giả, người khai thác sử dụng còn phải mua bản quyền tác phẩm từ phía
tác giả và người đại diện. Chi phí bảo quyền sẽ có tác động trực tiếp đến giá thành xuất bản phẩm. Điều này sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của các doanh nghiệp, nhà xuất bản cũng như đông đảo bạn đọc trong cả nước. Vấn đề này được thể
hiện rất rõ tại thị trường sách Việt Nam.
Thứ ba, hạn chế trong việc tiếp cận với những cái mới, cái hay, cái đẹp của
các nền văn học nghệ thuật thế giới. Như chúng ta đều biết, nhu cầu tiếp cận với
những cái mới, cái hay, cái đẹp của các quốc gia, dân tộc trên thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng là rất cần thiết và khơng có giới hạn. Tuy nhiên, do
thời gian ban đầu tham gia Công ước, những khó khăn mới nảy sinh và chưa thể kịp thời khắc phục nên đã dẫn tới một số bất lợi nên trên như tình trạng bị khủng hoảng thiếu tác phẩm, chi phí cho việc khai thác sử dụng tác phẩm tăng cao. Tất
cả các vấn đề này đã trực tiếp ảnh hưởng đến việc khai thác, sử dụng tác phẩm
của các doanh nghiệp, nhà sản xuất, đặc biệt là ảnh hưởng đến việc thụ hưởng
các mới, cái hay, cái đẹp của các nền văn minh trên thế giới của đơng đảo độc giả Việt Nam. Đây chính là vấn đề quan trọng đang đặt ra cho các cơ quan quản lý nhà nước có trách nhiệm giải quyết để chúng ta vừa tham gia Công ước quốc tế về bản quyền theo xu hương hội nhập quốc tế, vừa bảo đảm nhu cầu giao lưu,
hưởng thụ văn hoá của mọi người dân.
Thứ tu, Việt Nam vốn là nước được cộng đồng quốc tế coi là nước có thói
quen vi phạm bản quyền lớn nhất hiện nay. Nếu điều này cứ tiếp tục diễn ra thì sẽ
dẫn đến bất lợi là xảy ra tranh chấp đòi bồi thường thiệt hại, sẽ ảnh hưởng đến lợi
ích tổ chức, cá nhân và cộng đồng trong khai thác và sử dụng tác phẩm.
Tóm lại, việc đánh giá những lợi có được và bất lợi đối với Việt Nam khi gia nhập Cơng ước Berne là cần thiết. Bởi vì, trên cơ sở đánh giá này những lợi
ích từ việc gia nhập Công ước dần dần được khẳng định và một số điểm bất lợi
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">cũng sẽ được khắc phục, xử lý kịp thời để thúc đẩy việc thực hiện Cơng ước có
hiệu quả hơn.
2.3. Thiết chế thực thi Công ước Berne
Theo qui định của pháp luật Việt Nam, các thiết chế thực thi quyền tác giả nói chung và Cơng ước Berne nói riêng bao gồm: hệ thống cơ quan quản lý nhà nước về quyền tác giả; các cơ quan thực thi quyền tác giả và các thiết chế hỗ trợ việc thực thi quyền tác giả.
2.3.1. Hệ thống cơ quan quan lý nhà nước về quyền tác giả
Chính phủ là cơ quan chấp hành và điều hành, cơ quan hành chính nhà nước
cao nhất. Chính phủ là cơ quan có chức năng quản lý nhà nước về quyền tác giả,
cơ quan trực thuộc Chính phủ là Bộ Văn hóa - Thơng tin. Chính phủ thống nhất
quản lý hoạt động sáng tạo và sử dụng tác phẩm trên phạm vi cả nước, thi hành các biện pháp để bảo tồn, phát triển nên văn hóa dân tộc Việt Nam, bao trợ để
phát triển các tài năng sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, chống việc truyền bá tư
tưởng văn hóa phản động, đồi trụy, bài trừ mê tín dị đoan, hủ tục. Trong quản lý
quyền tác giả, Chính phủ có một số quyền hạn cụ thể như: Trình dự án luật, pháp lệnh về hoạt động bảo hộ bản quyền tác giả, quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển sự nghiệp văn hóa nói chung, quyền tác giả nói riêng; quyết định chính sách
đầu tư, tài trợ, hợp tác với nước ngoài, ban hành quyết định quản lý nhà nước và
các chế độ chính sách khác về quyền tác giả. Với cương vị là người đứng đầu
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ký các Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, ra
Quyết định, Chỉ thị về quyền tác giả và hướng dẫn, kiểm tra việc thi hành các văn
bản đó đối với tất cả các ngành, địa phương và cơ sở; Thủ tướng Chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ những quyết định về quyền tác giả của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thơng tin và của ủy ban nhân dân, Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
Bộ Văn hóa - Thơng tin là cơ quan của Chính phủ, trực tiếp thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về quyền tác giả trong phạm vi cả nước. Bộ trưởng Bộ
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">Văn hóa - Thơng tin trình Chính phủ kế hoạch dài hạn, kế hoạch năm năm và
hàng năm của ngành văn hóa, tổ chức chỉ đạo thực hiện các kế hoạch đó, xây dựng các dự án luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật khác về quyền tác giả theo sự phân công của Chính phủ, ban hành quyết định, chỉ thị, thơng tư về các hoạt động liên quan đến quyền tác giả, chỉ đạo công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu lý luận, tổ chức sưu tầm, khai thác, giữ gìn và phổ biến những giá trị
văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới, xây dựng va chỉ đạo thực hiện
kế hoạch hợp tác quốc tế trên lĩnh vực bảo hộ quyền tác giả theo quy định của Chính phủ; thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật, các chế độ, chính sách, quy chế về quyền tác giả, quản lý các đơn vị sự nghiệp, các tổ chức sản xuất kinh
doanh trực thuộc Bộ Văn hóa - Thơng tin theo quy định của Chính phủ.
Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Bộ Văn hóa — Thơng tin hướng
dẫn bảo hộ quyền tác giả thuộc lĩnh vực khoa học, kể cả phần mềm máy tính, trong đó có hướng dẫn thủ tục thẩm định tính xác thực của quyền tác giả, quyền
sở hữu tác phẩm đối với cơng trình khoa học, sách giáo khoa, giáo trình, phần mềm máy tính trước khi làm thủ tục đăng ký bảo hộ tại Cục bản quyền tác giả.
chức năng quản lý nhà nước về quyền tác giả trong địa phương mình theo quy
định của pháp luật. Các Sở Văn hóa - Thơng tin, Phịng Văn hóa - Thơng tin là các cơ quan chuyên môn trực tiếp giúp ủy ban nhân dân thực hiện chức năng
quản lý quyền tác giả ở địa phương. Hiện tại hầu hết các Sở Văn hoá - thơng tin chưa có biên chế chun trách quản lý về quyền tác giả.
Cục Bản quyền tác giả là cơ quan trực thuộc Bộ Văn hố - Thơng tin có
trách nhiệm giúp Bộ Văn hố - Thơng tin thực hiện quản lý Nhà nước về bảo hộ
quyền tác giả. Theo qui định của pháp luật, Cục Bản quyền tác giả có chức năng, <small>nhiệm vụ sau đây:</small>
- Soạn thảo dự án Luật, Pháp lệnh, Nghị định, văn bản pháp quy khác về bảo hộ quyền tác giả.
- Đăng ký bảo hộ quyền tác giả cho cá nhân, tổ chức trong nước và nước
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">ngoài, cấp và thu hồi Giấy chứng nhận bản quyền tác giả, Giấy phép hoạt động nghiệp vụ dịch vụ bản quyền tác giả.
- Hướng dẫn Sở Văn hố - Thơng tin trong việc thực hiện quản lý Nhà nước
về bảo hộ quyền tác giả ở địa phương.
- Tổ chức, thực hiện việc hợp tác với nước ngoài, các tổ chức quốc tế về quyền tác giả.
- Tổ chức tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tác giả và thực hiện
hoạt động thông tin về bảo hộ quyền tác giả.
- Tổ chức bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về bảo hộ quyền tác giả cho
cán bộ các cơ quan có liên quan ở Trung ương và địa phương.
<small>Ngoài ra, các bộ, ngành thuộc trung ương, các cục, vụ thuộc Bộ Văn hoá </small> -Thông tin, các sở, ban, ngành thuộc địa phương cũng tham gia quản lý quyền tác giả trong phạm vi nhiệm vụ và thẩm quyền của mình. Hệ thống các cơ quan quản
lý, cơ quan giải quyết tranh chấp có vai trò khác nhau trong việc quản lý nhà
nước, giải quyết tranh chấp về quyền tác giả được hình thành từ trung ương đến <small>địa phương.</small>
2.3.2. Các cơ quan thực thi quyền tác gia
quan có một chức năng nhiệm vụ riêng, tuy nhiên giữa các cơ quan lại có sự phối kết hợp trong việc thực hiện nhiệm vụ chung - đó là đảm bảo sự bảo hộ quyền tác
giả của các chủ thể hưởng quyền, đồng thời xử lý các hành vi vi phạm. Hệ thống
các cơ quan thực thi quyền tác giả bao gồm:
- Công an kinh tế, Lực lượng Quản lý thị trường thuộc Bộ Thương mại có
trách nhiệm kiểm tra, xử lý vi phạm đối với hàng hoá vi phạm quyền tác giả và
quyền liên quan. Tại cửa khẩu, biên giới, lực lượng Hải quan, Bộ đội biên phịng
có nhiệm vụ ngăn chặn hàng hoá xuất nhập khẩu vi phạm quyền tác giả. Cảnh sát có nhiệm vụ đảm bảo an ninh, điều tra các vụ án liên quan đến sản xuất, xuất nhập khẩu, lưu thông các sản phẩm hàng hố có dấu hiệu tội phạm về quyền tác
giả và quyền liên quan.
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">- Thanh tra chun ngành văn hố - thơng tin thuộc các sở văn hố - thơng
tin và Bộ Văn hố - Thơng tin có thẩm quyền xử lý, giải quyết các tranh chấp, vi phạm quyền tác giả, có quyền xử phạt hành chính đối với tổ chức cá nhân có các
hành vi vi phạm quyền tác giả. Hiện mới có 230 thanh tra viên trên phạm vi cả
nước làm nhiệm vụ kiểm tra, xử lý hoạt động sản xuất, kinh doanh, lưu thông, xuất nhập khẩu các sản phẩm, hàng hố văn hố thơng tin, trong đó hầu hết các sản phẩm, hàng hoá liên quan đến quyền tác giả.
- Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử phạt hành chính đối với tổ
chức cá nhân có các hành vi vi phạm quyền tác giả tuỳ theo mức độ vi phạm.
- Toa án nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có thẩm quyền
giải quyết tranh chấp về quyền tác giả, xử lý các vụ kiện về hành chính, các hành
vi phạm tội phạm hình sự liên quan đến quyền tác giả.
2.3.3. Các thiết chế hỗ trợ cho việc bao vệ, thực thi quyền tác giả
Trên thực tế, các thiết chế hỗ trợ cho việc thực thi quyền tác giả có vai trị
quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. Vai trò quan trọng hàng đầu chính
là bản thân tác giả cũng như chủ thể hưởng quyền khác trong việc tự phát hiện
các hành vi vi phạm quyền tác giả và yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế cần thiết để bảo vệ quyền lợi. Ngoài ra, sự giúp
đỡ của các cơ quan, các Tổ chức quản lý tập thể trong lĩnh vực chuyên môn
tương ứng cũng hết sức cần thiết.
Các Tổ chức quản lý tập thể có chức năng thực hiện việc cấp phép sử dụng
tác phẩm, thu tiền bản quyền, phân phối tién bản quyền cho các chủ thể quyền. Ngoài ra, Tổ chức quản lý tập thể cịn góp phần thúc đẩy các hoạt động sáng tạo ra tác phẩm. Từ nhiệm vụ của mình, Tổ chức quản lý tập thể quyên tác giả giúp
các cá nhân và pháp nhân khai thác, sử dụng tác phẩm của các tác giả, chủ sở hữu
một cách thuận lợi. Mọi chủ sở hữu quyền như các Nhà văn, Nhạc sĩ, Hoạ sĩ, Nhà nhiếp ảnh, Đạo diễn, Người biểu diễn.v.v.. có quyền tự nguyện tham gia các Tổ
chức quản lý tập thể quyền tác giả, quyền liên quan phù hợp. Tại Việt Nam, hiện có 3 tổ chức quản lý tập thể quyên tác giả: Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36"><small>nhạc Việt Nam (VCPMC), Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Việt Nam (RIAV),</small> Trung tâm quyền tác giả Văn học Việt Nam (VLCC).
Hệ thống dịch vụ với trên 30 công ty hoạt động như doanh nghiệp, thực hiện các nhiệm vụ tư vấn pháp luật về quyền tác giả; thực hiện các dịch vụ theo uỷ
quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, chủ sở hữu quyền liên quan; làm thủ tục xin cấp Giấy Chứng nhận quyền tác giả; tham gia các quan hệ pháp luật khác về quyền tác giả.
Các tổ chức quản lý tập thể quyền tác giả và tổ chức tư vấn, dịch vụ quyền
tác giả hình thành nên hệ thống hỗ trợ thực thi, góp phần thi hành có hiệu quả các
quy định pháp luật Việt Nam cũng như các Công ước quốc tế về quyền tác giả <small>mà Việt Nam là thành viên.</small>
2.3.4. Hỗ trợ trong việc giải quyết tranh chấp, vi phạm liên quan đến quyền SHTT
Theo quy định pháp luật và trong thực tế, có nhiều hình thức giải quyết tranh chấp va xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung, quyền tác giả nói riêng, điều này tuỳ thuộc vào mức độ của hành vi xâm phạm, tuỳ thuộc vào quyết
định của người bị xâm phạm...
Theo qui định của Luật SHTT năm 2005 (Điều 198), cho phép chủ thể tự
bảo vệ quyền của mình nếu bị xâm phạm. Nếu biện pháp tự bảo vệ của chủ thể khơng có hiệu quả, các hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn xảy ra, các tranh
chấp quyền tác giả cần được giải quyết thì chủ thể bị xâm phạm có thể áp dụng
<small>các biện pháp khác.</small>
Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả có thể được lựa
<small>chọn theo các cách sau:</small>
* Các bên tiến hành giải quyết tranh chấp thơng qua q trình thương
lượng, hồ giải.
Công ước Berne ghi nhận cho các chủ thể hưởng quyền có quyền thương lượng để giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền tác giả khi có tranh chấp phát
sinh. Biện pháp thương lượng, hoà giải trong giải quyết tranh chấp về quyền tác
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">giả là biện pháp được áp dụng khá phổ biến tại nhiều nước trên thế giới, còn được
gọi là biện pháp thực thi khơng chính thức. Đối với Việt Nam, hồ giải trong các tranh chấp dân sự nói chung, đối với quyền tác giả nói riêng thường được các chủ
thể (bên xâm phạm và bên bị xâm phạm) chú trọng. Đây là một biện pháp ưu tiên vì nếu đạt được thoả thuận giữa các bên, chủ thể bị coi là xâm phạm sẽ nhanh
chóng chấm dứt hành vi xâm phạm của mình. Trong một số trường hợp, theo
thoả thuận giữa các bên, chủ thể xâm phạm có thể sẽ đồng ý tự nguyện bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu quyền mà không cần sự can thiệp của cơ quan chức năng. Thơng qua hồ giải, uy tín của bên xâm phạm quyền tác giả không bị ảnh hưởng nhiều, đồng thời giảm thiểu được chi phí cho bên bị vi phạm.
* Giải quyết tranh chấp thông qua xử lý hành chính
Khơng phải hành vi xâm phạm quyền tác giả nào cũng có thể bị xử lý hành chính. Nếu người nào thực hiện một trong các hành vi quy định tại Điều 211 Luật <small>SHTT sẽ bi xử phạt hành chính.</small>
<small>* Biện pháp kiện dân sự</small>
Biện pháp này được áp dụng sẽ đảm bảo quyền lợi về mặt vật chất tối đa cho
người bị xâm phạm. Thủ tục khởi kiện được tiến hành theo qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự, thơng qua Tồ án. Tồ án áp dụng các biện pháp dân sự quy định
<small>* Bién phap hinh su</small>
Hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung, quyền tác giả nói riêng nếu thoả mãn đầy đủ yếu tố cấu thành tội phạm thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự
(Điều 212, Luật SHTT). Bộ luật Hình sự năm 1999 cũng có qui định hành vi xâm
phạm quyền SHTT bị coi là tội phạm. Tuy nhiên, loại tội phạm này - đặc biệt là tội phạm liên quan đến hành vi xâm hại quyền tác giả thì gần như không phổ
2.4. Thực thi Công ước Berne ở một số nước
Trong thời gian tới, đối với Việt Nam, việc thực thi Cơng ước sẽ gặp rất
nhiều khó khăn, Việt Nam chưa có kinh nghiệm trong việc thực thi một điều ước
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">quốc tế đa phương quan trọng như Berne. Do vậy, việc tim hiểu kinh nghiệm thực
thi Công ước ở một số nước được đánh giá là có cơ chế tương đối hiệu quả trong
việc bảo hộ quyền tác giả đối với các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa học
một số kinh nghiệm đối với Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Lịch sử phát triển của pháp luật về SHTT nói chung và pháp luật về quyền
nghệ thuật và các sáng tạo trí tuệ, đặc biệt thời kỳ phục hưng thế kỷ XVI- XVIII được đánh giá là thời kỳ nở rộ của các sáng tạo văn học, nghệ thuật của các nhà
-những quốc gia đầu tiên ký kết Công ước. Pháp luật về quyền tác giả của các nước này vì thế cũng được xây dựng từ rất sớm như Luật quyền tác giả của Italia
5/12/1887, cộng hoà Pháp 5/12/ 1887, Đức 5/12/ 1887, Đan Mạch năm 1841, của
<small>Hà Lan 1/11/1912L'</small>
hiện tương đối thống nhất vì đây là các quốc gia có các đặc điểm kinh tế, chính
chung và quyền tác giả tương đối hiệu quả do đã xây dựng được một cơ sở hạ tầng cho việc thực thi quyền. Việc thực thi được thực hiện theo hai cơ chế dân sự
của tác giả là hội viên. Sau đây là một số mơ hình thực thi tại một số nước Châu
a. Thực thi Công ước Berne ở Pháp
La một trong những quốc gia đầu tiên tham gia Công ước, Berne chính thức
có hiệu lực tại Pháp ngày 5/12/1887. Dé thực thi Berne, các quy định pháp luật
trong nước của Cộng hòa Pháp tương đối thống nhất với các quy định của Công
ước. Hiện nay, các quy định liên quan đến việc thực thi quyền tác giả theo pháp
luật Pháp được quy định tại một số văn bản pháp luật khác nhau như: Luật ngày
8/7/1964 về áp dụng nguyên tắc có đi có lại trong lĩnh vực quyền tác giả, Luật về sở hữu đối với tác phẩm văn học nghệ thuật ngày 11/3/1957 (từ điều 70 đến điều 74), Luật Hình sự về các biện pháp chế tài đối với vi phạm liên quan đến quyền tác giả (điều 425 đến điều 429), Luật quyền tác giả và quyền có liên quan 3/7/1985 (điều 52 đến điều 54)'".
pháp luật thành hai hệ thống: Hệ thống tịa hành chính và hệ thống tịa tư pháp. Hệ thống tồ án hành chính chủ yếu giải quyết các tranh chấp giữa các cơ quan nhà nước hoặc giữa cơ quan nhà nước và các cá nhân, pháp nhân. Tuỳ theo tính
sơ thẩm, phúc thẩm hoặc tại tòa phá án. Đối với những hành vi vi phạm quyền
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">tác giả và các quyền có liên quan như sao chép bất hợp pháp các tác phẩm: ' thì có thể áp dụng các biện pháp chế tài dân sự hoặc hình sự.
Bên cạnh hệ thống các cơ quan tư pháp, để bảo vệ quyền tác giả, tại Pháp hệ
<small>đáng theo quy định pháp luật. Hoạt động trong lĩnh vực này, ngo' 1 các doanhnghiệp nhà nước cịn có các cơng ty tư nhân, các hiệp hội, các nghiệp đoàn trong</small>
các lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, hội hoa, kiến trúc... tham gia. Day là các cơ quan
đại diện, làm cầu nối giữa tác giả và các cơ quan chức năng, bảo vệ quyền lợi cho
chủ sở hữu, tác giả...
b. Thực thi Công ước Berne ở Anh
cơ sở các biện pháp dân sự và hình sự. Hệ thống dân sự bao gồm:
- Các tác giả, chủ sở hữu (các doanh nghiệp)
- Luật sư, các công ty đại diện về SHTT
- Hệ thống các cơ quan lý (Cục bản quyền, Cục SHTT...)
Để thực thi có hiệu quả quyền SHTT, các cơ quan dân sự phải phối hợp với
hệ thống hình sự như hệ thống tồ án, cơng an, hải quan là các cơ quan có chức
năng bắt giữ, tịch thu, xét xử các hành vi vi phạm. Tuỳ thuộc vào tính chất mức độ của vi phạm mà các vụ việc về SHTT có thể được giải quyết tại hệ thống toà án các cấp: Toà án cấp tỉnh, Toà án tối cao (toà đại pháp), Toà Phúc thẩm,