Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (46.34 MB, 83 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

LUONG THỊ VAN

KIEM SOÁT HANH VI LAM DỤNG VI TRI THONG LĨNH THI TRUONG TRONG LINH VUC VIEN THONG DI DONG

HA NOI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

LUONG THỊ VAN

KIEM SOAT HANH VI LAM DUNG VI TRI THONG LINH

THI TRUONG TRONG LINH VUC VIEN THONG DI DONG

Chuyên ngành: Luật Kinh tế

Mã số: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐOÀN TRUNG KIÊN

HÀ NỘI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

Trước khi trình bày nội dung đề tài này, em xin được bày tỏ lòng biết

ơn chân thành và sâu sắc tới thầy giáo TS. Đoàn Trung Kiên, người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em hoàn thành <small>luận văn này.</small>

Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Pháp luật Kinh tế và Khoa Sau Đại học, trường Đại học Luật Hà Nội đã trang bị cho em

kiến thức trong suốt quá trình học tập, cùng những người bạn đã giúp đỡ, đóng góp ý kiến dé luận văn được hoàn thành tốt nhất.

<small>Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014Tác giả luận văn</small>

<small>Lương Thị Vân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Tôi xin cam đoan Luận văn “Kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động” là công trình nghiên cứu của

riêng tơi. Số liệu, kết quả nghiên cứu đề cập trong Luận văn là trung thực, có <small>ngn goc trích dân rõ ràng.</small>

<small>Hà Nội, ngày 19 thang 5 năm 2014Tác giả luận văn</small>

<small>Lương Thị Vân</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

LỜI NÓI ĐẦU | Chương! MOT SO VAN ĐÈ LÝ LUẬN VE KIEM SOÁT HÀNH 6

VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THĨNG LĨNH THỊ TRƯỜNG TRONG LĨNH VỰC VIỄN THONG DI ĐỘNG

1.1 Khái quát về hành vi lạm dung vi trí thống lĩnh thi trường 6

trong lĩnh vực viễn thơng di động

1.2 Pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị 15

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động

Chương2 THỰC TRẠNG KIEM SỐT HANH VILẠM DUNG VỊ 23

2.2 Thực tiễn áp dụng pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị 44

trí thơng lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động ở

<small>Việt Nam hiện nay</small>

Chuong3 PHƯƠNG HUONG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN 60 PHAP LUẬT VE KIEM SOÁT HANH VI LAM DỤNG

VI TRI THONG LINH THI TRUONG TRONG LINH VUC VIEN THONG DI DONG O VIET NAM

3.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật va nâng cao hiệu quả kiếm 60 soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh

vực viễn thơng di động

3.2 Một số giải pháp hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả 65 kiểm soát hành vi lạm dụng vi tri thong linh thi truong trong

lĩnh vực viễn thông di động ở Việt Nam hiện nay

KẾT LUẬN 72

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Theo xu hướng phát triển, bất cứ doanh nghiệp nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh đều mong muốn ngày càng phát triển hơn nữa vị thế của mình trên thương trường, nhất là những doanh nghiệp có thị phần lớn. Việc các doanh nghiệp phát triển lành mạnh là điều tất cả các nước đều

khuyến khích. Tuy nhiên, khơng thé đảm bảo một doanh nghiệp tham gia thị

<small>trường lúc nào cũng thực hiện hoạt động kinh doanh một cách lành mạnh và</small>

luôn luôn tuân thủ pháp luật. Đặc biệt, trong điều kiện của Việt Nam, một nên kinh tế vừa thoát khỏi cơ chế kế hoạch hóa tập trung, sự quản lý và điều tiết của Nhà nước còn đang tiến dần đến sự phù hợp với các nguyên tắc của cơ chế thị trường: sự chi phối của các doanh nghiệp quốc doanh còn lớn; sự gia <small>tăng nhanh chóng và khơng ngừng lớn mạnh của các doanh nghiệp thuộc khu</small>

vực kinh tế tư nhân; sự vượt trội về khả năng tài chính, tư duy kinh tế và kinh

nghiệm thương trường... đã khiến cho tình trạng cạnh tranh thiếu lành mạnh

và lạm dụng vi trí thống linh thị trường, vi trí độc quyền diễn ra phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó có thé kế đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động.

Chính sách tự do hóa thị trường dịch vụ viễn thông di động đang đặt ra

cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động Việt Nam những thách thức to lớn - đó là cạnh tranh dé tồn tai và phát triển. Cùng với sự phát

triển mạnh mẽ của viễn thông và tin học cho phép các doanh nghiệp áp dụng

công nghệ mới vào khai thác nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Điều đó làm cho yếu tố cạnh tranh trên thị trường dịch vụ viễn

thông di động càng thêm sôi động. Van dé cạnh tranh cần được các doanh

nghiệp cùng tham gia cung cấp dịch vụ viễn thông di động coi trọng và hiểu

rõ trong chiến lược phát triển của mình. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

đơi khi cịn chồng chéo và mâu thuẫn với nhau. Điều đó dễ tạo ra một cách nhìn nhận khơng đầy đủ hoặc thiếu chính xác về cạnh tranh, lạm dụng vị trí

thống lĩnh thị trường và kiểm sốt lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong

lĩnh vực viễn thơng di động. Vì vậy, việc nghiên cứu các van đề lý luận và xem xét, đối chiếu với thực tiễn để xây dựng một chính sách pháp luật về

cạnh tranh và kiểm sốt tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, duy

trì trật tự cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh tế, trả lại sự thông thống cho mơi trường đầu tư trong lĩnh vực viễn thơng di động là vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt.

Từ những phân tích trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Kiểm sốt hành vi

lạm dụng vị trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động” làm

dé tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Ở nước ta, hiện đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu về cạnh tranh,

chính sách cạnh tranh và pháp luật về cạnh tranh ở các cấp độ khác nhau, điển hình có thé kế đến một số cơng trình nghiên cứu đã cơng bố như: Luận án tiến sĩ luật học “Pháp luật về kiểm sốt độc qun và chống cạnh tranh khơng

<small>lành mạnh ở Việt Nam” năm 2002 của Đặng Vũ Huân (Trường Đại học Luật</small> Hà Nội); “Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm sốt độc qun kinh doanh, Dự án hồn thiện mơi trường kinh doanh <small>VIE/97/061” năm 2002 của Viện nghiên cứu quan lý Trung ương (Nxb. Giaothông vận tải, Hà Nội); sách chuyên khảo “Phân tích và luận giải các quy</small> định của Luật cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thong lĩnh thi trường, vi trí độc quyên dé han chế cạnh tranh” năm 2006 của PGS.TS Nguyễn Nhu

Phát, Ths. Nguyễn Ngọc Sơn (Nxb. Tư pháp, Hà Nội) v.v..

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

thống lĩnh thị trường nói chung, có rất ít cơng trình đi sâu vào phân tích

những nội dung pháp lý về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động. Do đó, tác giả thấy việc nghiên cứu, đánh giá để góp phần cùng các cơng trình trước đây hồn thiện pháp luật về

kiểm sốt hành vi lạm dụng vi tri thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn

thông di động ở Việt Nam là cần thiết.

3. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích của việc nghiên cứu dé tài là làm sáng tỏ những van đề ly luận và thực tiễn pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dung vi tri thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thông di động, từ đó đưa ra những định hướng, giải pháp hồn thiện quy định pháp luật về vấn đề này.

Đề thực hiện mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:

- Tìm hiểu, phân tích các khái niệm liên quan đến vị trí thống lĩnh thị trường, hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thị trường và kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.

- Nghiên cứu các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến những nội dung cơ bản của việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

trong lĩnh vực viễn thông di động.

- Đánh giá thực trạng kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thông di động.

- Từ những nghiên cứu, phân tích trên, đưa ra một số kiến nghị về định

hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

trường, kiểm soát hành vi lạm dụng vi tri thong lĩnh thi trường trong lĩnh vực viễn thông di động và các văn bản pháp luật của Việt Nam và một số nước

trên thé giới về van đề này.

<small>Phạm vi nghiên cứu của luận văn giới hạn ở việc phân tích, đánh giá</small> các quy định về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo Luật cạnh tranh Việt Nam và thực tiễn áp dụng vào việc kiểm soát hành vi

lạm dụng vị trí thơng lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động.

<small>5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu</small>

Phương pháp luận nghiên cứu của luận văn là học thuyết của chủ nghĩa

Mac - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng về pháp luật cạnh tranh nói chung và pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động nói riêng.

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng, luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích - tổng hop, lịch sử kết hợp với

các phương pháp như thống kê, so sánh luật học... để giải quyết nội dung khoa học của đề tài.

<small>6. Những đóng góp của luận văn</small>

Luận văn là cơng trình nghiên cứu có hệ thống, chun sâu về lý luận

và giải pháp hoàn thiện pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống

lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động. Những đóng góp của luận

văn thể hiện tập trung ở những nội dung sau:

- Luận văn đã tiếp tục làm rõ được một số van đề lý luận về kiểm soát

hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di

<small>động.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

vực viễn thông di động ở Việt Nam.

- Luận văn đã đề xuất một số giải pháp pháp lý nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường

trong lĩnh vực viễn thông di động ở Việt Nam.

7. Kết cầu của luận văn

Kết cấu của luận văn được xây dựng phù hợp với mục đích, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu. Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, kết câu của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vi tri thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.

Chương 2: Thực trạng kiểm sốt hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thi

trường trong lĩnh vực viễn thông di động theo pháp luật Việt Nam

Chương 3: Phương hướng và giải pháp hồn thiện pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di

<small>động ở Việt Nam</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

VỊ TRI THONG LĨNH THỊ TRUONG TRONG LĨNH VUC

VIEN THONG DI DONG

1.1. Khái quát về hành vi lam dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động

1.1.1. Khái niệm hành vi lạm dụng vị trí thơng lĩnh thị trường, hành

vi lạm dung vị trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

1.1.1.1. Khai niệm hành vi lạm dụng vị tri thông lĩnh thị trường

Khi thực hiện chuyển đổi nền kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thi

trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam phải chấp nhận những quy

luật của nên kinh tế thị trường trong đó có quy luật cạnh tranh. Cạnh tranh có

vai trị rất quan trọng và là một trong những động lực mạnh mẽ nhất thúc đây

sản xuất phát triển. Tuy nhiên, cạnh tranh cũng dẫn đến việc triệt tiêu lẫn

nhau giữa các đối thủ cạnh tranh dé chiếm lĩnh thị trường và khang định sức

mạnh kinh tế của mình. Quá trình cạnh tranh diễn ra đến một mức độ nào đó sẽ dẫn đến một hệ quả tất yêu là xuất hiện tình trạng thống lĩnh thị trường.

VỊ trí thong linh duoc hiéu la kha nang kiểm soát thực tế hoặc tiém

năng cua một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ của một hoặc một số

doanh nghiệp [17]. Với cách hiểu như vậy, vị trí thống lĩnh khơng chi được xem xét dưới góc độ vi trí của một doanh nghiệp ma cịn có thể là vị trí của <small>một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Tức là giữa nhóm doanh nghiệp nàykhơng có sự thỏa thuận trước nhưng đã cùng hành động, cùng nhau thực hiện</small> các hành vi như bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối thủ.

Khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các doanh nghiệp thống lĩnh tìm <small>mọi cách đê duy trì vị trí thơng lĩnh của mình với các cách thức như: thôn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

việc lôi kéo các đối thủ liên kết tạo sức mạnh, phân chia thị trường, định giá cả. Chính từ thực trạng các doanh nghiệp khi có vị trí thống lĩnh thường lạm

dụng vị trí của mình đã làm cho pháp luật tất yếu phải có những quy định dé

điều chỉnh và kiểm sốt.

Để kiểm sốt được một quan hệ nào đó thì trước hết pháp luật phải

nhận diện được đối tượng đó và những thuộc tính của nó. Tương tự như vậy, để điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thì pháp luật phải

đưa ra được khái niệm về vị trí thống lĩnh thị trường và những tiêu chí để xác định đâu là hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh. Tùy theo đặc điểm kinh tế - xã

hội khác nhau mà pháp luật của mỗi nước cũng đưa ra những quan niệm và tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh khác nhau. Hiện nay, có hai xu hướng cơ bản trong pháp luật của các nước và các tổ chức quốc tế khi

mô tả về hành vi lạm dụng vị trí thơng lĩnh thị trường dé hạn chế cạnh tranh. Xu hướng thứ nhất, pháp luật không đưa ra khái niệm của hành vi lạm

dụng vị trí thơng lĩnh mà chỉ quy định một cách khái quát các dấu hiệu cau

thành của hành vi, bên cạnh đó có những quy định cụ thé liệt kê các hành vi

bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường. Ví dụ điển hình cho xu hướng nay là pháp luật cạnh tranh của Canada. Khoản 1 Điều 79 Luật Cạnh tranh

Canađa quy định Tòa Cạnh tranh chỉ đưa ra phán quyết xử lý doanh nghiệp <small>hoặc nhóm doanh nghiệp khi chứng minh đủ ba nội dung sau: (1) một hoặc</small> một nhóm doanh nghiệp về cơ bản hoặc hồn tồn kiểm sốt một loại hình

hoặc một phân đoạn kinh doanh, dù trên tồn lãnh thơ Canađa hay tại bất kỳ <small>khu vực nao của nó; (ii) đã hoặc đang thực hiện hành vi phản cạnh tranh đượcquy định trong luật cạnh tranh, (111) hành vi đó đã, đang hoặc có khả năng làm</small>

cản trở hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường một cách đáng kế [18]. Bên

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<small>Xu hướng thứ hai, pháp luật đưa ra khái niệm và có những quy định cụ</small>

thê về hành vi lạm dụng vi tri thống lĩnh. Ví dụ: Bộ quy tắc về cạnh tranh của

Liên hợp quốc được thông qua ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về

cạnh tranh của Tổ chức thương mại và phát triển Liên hợp quốc định nghĩa “hành vi lạm dung vị tri thong lĩnh thi trường và vị trí độc quyên dé hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyên sử dụng dé duy trì hay tăng cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá <small>mức cạnh tranh” [20].</small>

Ở Việt Nam, Luật cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa cụ thê thế nào là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường mà chỉ đưa ra khái niệm chung về hành vi hạn chế cạnh tranh. Theo đó, “anh vi hạn chế cạnh

<small>tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, can trở cạnh tranh trên</small> thị trường, bao gom thỏa thuận han chế cạnh tranh, lam dụng vị trí thong linh

thị trường, vị trí độc quyên và tập trung kinh tế” (khoản 3 Điều 3 Luật cạnh

tranh). Các nội dung này đã được cụ thê hóa tại các Điều 8, 13, 14, 16 của

- Áp đặt giá mua, giá bán hàng hóa, dịch vụ bat hợp lý hoặc ấn định giá

ban lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hang;

- Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hoá, dịch vụ, giới hạn thị trường,

cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hang;

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

- Áp đặt điều kiện cho doanh nghiệp khác ký kết hợp đồng mua, bán

hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ

không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng:

- Ngăn cản việc tham gia thị trường của những đối thủ cạnh tranh mới. 1.1.1.2. Khái niệm hành vi lam dụng vị trí thong linh thị trường trong

lĩnh vực viên thông di động

Viễn thông di động là một trong những dịch vụ có bước phát triển rất nhanh, đóng góp lớn nhất cho sự phát triển của viễn thơng Việt Nam thời gian qua. Thị trường có thể đã quen thuộc với các thương hiệu viễn thông di động như MobiFone, VinaPhone, Viettel..., thế nhưng hiểu rõ về đối tượng mà các

thương hiệu đó kinh doanh thì khơng phải ai cũng biết. Vì vậy, trước khi nghiên cứu khái niệm “hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh

vực viễn thơng di động”, cần có một cách hiểu tương đối về thuật ngữ “viễn <small>thông di động”.</small>

Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật Viễn thông năm 2009, “Viên

thông là việc gửi, truyền, nhận và xử lý ký hiệu, tín hiệu, số liệu, chữ viết,

hình ảnh, âm thanh hoặc dạng thơng tin khác bằng đường cáp, sóng vơ tuyến

<small>điện, phương tiện quang học và phương tiện điện từ khác”. Tuy nhiên, hiện</small>

nay chưa có một định nghĩa chính xác về viễn thơng di động. Viễn thông di động thường được nhắc đến với một thuật ngữ tương đương là thông tin di động mặt đất, mặc dù có thể nói, đây là một thuật ngữ mang nội hàm nhỏ hơn. <small>Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn, hai thuật ngữ này sẽ được coi là như nhau</small> và cùng được giới hạn trong phạm vi dịch vụ thơng tin di động mặt đất.

Có thé hiểu, thông di động mặt đất (sau đây gọi là thơng tin di động) là

một loại hình dich vụ trong đó tính di động có được là do kết nối tan số vô

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

tuyên giữa chuyên tiếp và nối với mạng cé định và mỗi thuê bao người dùng.

Vì thế, hệ thống di động mặt đất thích hợp nhất với môi trường ở thành phố, trái lại hệ thống di động vệ tinh lại thích hợp cho các vùng sâu, vùng xa như

<small>ngoài khơi, hành lang hàng không hay những vùng heo hút.</small>

Căn cứ vào Điều 13 Luật cạnh tranh, có thê hiểu, hành vi lạm dụng vị trí thơng lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động là những hành vi do

doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động thực hiện nhằm củng cố vi trí thống lĩnh bằng

<small>cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường, ngăn cản, kìm hãm doanh</small>

nghiệp khác không cho gia nhập thị trường phát triển kinh doanh, dẫn đến

những sai lệch về cạnh tranh trên thị trường viễn thông di động”.

1.1.2. Các dấu hiệu của hành vi lạm dụng vi trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

Thứ nhất, chủ thé thực hiện hành vi là các doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thông di động.

Lý thuyết cạnh tranh đã chỉ ra rang, vị trí thống lĩnh có thé được hình

thành từ sự tích tụ trong q trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị trường như: sự biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập

thị trường... Trong những trường hợp nói trên, vị trí thống lĩnh là hợp pháp và đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường, hay còn gọi là khả năng chi phối các quan hệ thị trường. Theo cuốn Từ điển kinh tế học hiện đại, quyên lực thị trường là khả năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác động đến giá cả thị trường của một loại hàng

<small>hóa hoặc dich vụ mà họ ban hoặc mua [19, tr.682].</small>

Về mặt học thuật, có hai vẫn đề cần phải làm rõ là: (1) hành vi lạm dụng chỉ xảy ra sau khi vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thơng di động đã được

xác lập. Do đó, pháp luật chống lạm dụng khơng nham đến việc xóa bỏ vị trí

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

thống lĩnh của doanh nghiệp, pháp luật chỉ hướng đến việc loại bỏ hành vi

lạm dụng vi tri thống lĩnh thị trường dé trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh. Một khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường chưa có các biểu hiện của sự

lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thé được pháp luật bảo vệ; (1) chủ thể thực

hiện việc lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một nhóm doanh

nghiệp (tối đa là bốn) có vị trí thống lĩnh trên thị trường viễn thông di động. Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh của nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường, cơ quan có thâm quyền cần phải phân biệt được hành vi lam dụng vị trí thống lĩnh với các thỏa thuận hạn chế cạnh

tranh. Bởi hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm dụng vị trí

thong lĩnh có một số điểm giống nhau, ví dụ (i) đều có thé do một nhóm doanh nghiệp thực hiện, (ii) nội dung của chúng giống nhau, như: phan chia

thị trường, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm, hạn chế phát triển khoa học kỹ thuật... Tuy nhiên, khi một doanh nghiệp (với tổng thị phần kết hợp đủ dé thống lĩnh thị trường) thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường dé hạn chế cạnh tranh thì giữa họ khơng có sự thỏa thuận trước. Ngược lại,

nếu có đủ chứng cứ chứng minh rằng đã tồn tại một thỏa thuận trong nhóm

doanh nghiệp đó dé thực hiện những hành vi nói trên thì hành vi của họ sẽ

được điều chỉnh bởi pháp luật chống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.

Thứ hai, doanh nghiệp có vi trí thống lĩnh thị trường đã thực hiện

<small>những hành vi mà pháp luật cạnh tranh liệt kê.</small>

Ngoài những khái niệm căn bản mang tính học thuật về hành vi hạn chế

cạnh tranh nói chung, cần phải gọi tên được từng hành vi lạm dụng. Dựa vào

đó, người ta có thé phân tích bản chất của hành vi dưới góc độ của lý thuyết, đồng thời trong cơng tác thực thi pháp luật, cơ quan nhà nước có thắm quyền

có thê dễ dàng xác định sự vi phạm băng cách đối chiếu các hành vi thực tế với các quy định của pháp luật. Một hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh thị

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

trường chỉ bị quy kết là lạm dụng dé hạn chế cạnh tranh khi nó mang day đủ các dấu hiệu của một hành vi nào đó đã được luật quy định là lạm dụng. Khi chưa thé hoặc chưa đủ chứng cứ cần thiết để kết luận về việc doanh nghiệp đã thực hiện trong số các dạng vi phạm được quy định thì cũng khơng thể quy

kết trách nhiệm về sự lạm dụng [27].

Thứ ba, hậu quả của hành vi lam dụng vi trí thống lĩnh là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh giữa các đối thủ cạnh tranh trên thị trường viễn <small>thông di động.</small>

Dấu hiệu này cho thay kha nang han chế cạnh tranh của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và tác hại của nó đối với thị trường. Như đã phân tích, doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng với mục đích duy trì, củng cơ vị trí <small>hiện có hoặc tận hưởng các lợi ích có được từ việc bóc lột khách hàng. Các</small>

nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt là OECD) đã đưa ra nhiều khuyến nghị về việc xác định hành vi

lạm dụng, trong đó họ cảnh báo răng chỉ có thê chống lại sự lạm dụng quyền <small>lực thị trường thành công, khi pháp luật và người thi hành nó xác định được</small>

những hành vi cụ thể có thể gây hại cho cạnh tranh và đánh giá được những

tác động toàn diện của chúng trên thị trường liên quan [35, tr. 160]. Đối với

hành vi hạn chế cạnh tranh, lý luận và kinh nghiệm pháp lý của các nước đã chỉ ra rằng, nhóm hành vi này có ba loại vi phạm với bản chất pháp lý khác

nhau là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc

quyền và tập trung kinh tế, nên không thể đưa ra một khái niệm chung chứa

đựng những căn cứ cụ thể cho mọi trường hợp. Trong tình trạng đó, dấu hiệu về hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ được diễn tả rất khái quát,

mang tính định dạng về mặt lý luận hơn là lượng hóa băng những căn cứ cụ

thé. Mặt khác, do hành vi vi phạm được liệt kê rất đa dạng bao gồm các hành

<small>vi về việc định giá bán, giá mua sản phâm, hành vi hạn chê sản lượng sản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

xuất, phân phối, hạn chế thị trường; hành vi phân biệt đối xử; áp đặt các điều kiện thương mại bat hợp lý đối với khách hang..., mỗi hành vi có đối tượng

xâm hại khác nhau và mức độ thiệt hại có thé gây ra cũng khơng giống nhau, nên việc đưa ra một tiêu chuẩn chung dé làm căn cứ xác định hậu quả gây ra

của mọi hành vi là không thé. Vi thế, khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng

buộc phải dựa vào việc phân tích từng hành vi vi phạm dé kết luận về khả năng và mức độ gây thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó, từng hành vi có thê làm cản trở, giảm va sai lệch cạnh tranh ở mức độ khác nhau.

Dấu hiệu hậu quả của hành vi là căn cứ dé phan biét hanh vi lam dung với hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một loại hành vi han chế cạnh tranh). Tập trung kinh tế được Luật cạnh tranh mô tả thông qua bốn biéu hiện cụ thể là sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên danh, là những chiến lược do doanh

nghiệp thực hiện có khả năng hình thành nên các thế lực độc quyền khơng thơng qua sự tích tụ dan từ hiệu quả kinh tế. Như vậy, nếu mức giảm, sai lệch hoặc hạn chế cạnh tranh mà hành vi lạm dụng gây ra được chứng minh bằng

<small>những lợi ích mà các doanh nghiệp khác, hoặc khách hàng phải gánh chịu, thì</small> đối với tập trung kinh tế, điều đó được chứng minh bằng những suy đoán là việc các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh có thé làm thay đổi cấu trúc và tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thi trường do chúng đã tạo ra doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị trường. Nói cách khác, pháp luật chống lam dụng hướng đến việc cấm đốn

hành vi, cịn pháp luật kiểm sốt tập trung kinh tế có nhiệm vụ chặn khả năng

hình thành các thế lực có quyền lực trên thị trường bằng việc tiến hành tập

trung kinh tế.

1.1.3. Tác động của hành vi thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực <small>viên thông đôi với nên kinh tê - xã hội</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

Thống lĩnh thị trường góp phần đây nhanh q trình tích tụ, tập trung các nguồn lực để phát triển. Sau khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các

doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thơng di động thường phát triển nhanh

chóng thành những tập đồn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập trung nguồn lực vào tay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp tạo điều kiện đây mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng suất lao

<small>động, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh nghiệp</small>

và cho ngành viễn thông. Sự mở rộng về quy mô sản xuất, đến lượt nó sẽ tạo động lực kích thích trở lại doanh nghiệp, bởi trên thực tế ai cũng biết răng lợi nhuận của một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô sản xuất kinh doanh. Không phải ngẫu nhiên mà nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Joseph

Schumpeter (1883 — 1950) đã ủng hộ mơ hình kinh tế trong đó có sự tồn tai

của các thế lực thống lĩnh.

Bên cạnh những tác động tích cực nói trên, thống lĩnh trong lĩnh vực viễn thông di động cũng có những mặt trái của nó:

Thứ nhất, thống lĩnh đi ngược lại trật tự cạnh tranh lành mạnh, kìm ham

động lực phát triển của nền kinh tế. Khi đã có vị trí thống lĩnh, các doanh nghiệp ln tìm cách duy trì vị tri thong lĩnh của mình bang cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, hạn chế sự xuất hiện trên thị trường của các đối thủ này. Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ cạnh tranh thực chất đã triệt tiêu sự cạnh tranh

<small>trên thương trường, mà một khi khơng cịn cạnh tranh thì sẽ khơng cịn áp lực</small> dé các doanh nghiệp phát triển.

Thứ hai, thong lĩnh tạo ra nguy cơ khủng hoảng và suy thoái của nền

kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh sử dụng vi thế này vào việc tự định giá cả hàng hóa, dịch vụ độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để tăng giá bán

nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công <small>nghệ, tăng năng suât nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho năng lực của các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

doanh nghiệp thống lĩnh bị suy yếu, thậm chí dẫn đến suy giảm và suy thối của một ngành viễn thơng. Đó cũng chính là ngun nhân đưa đến sự lạm phát và gây mat ôn định nền kinh tế, làm tăng số người thất nghiệp.

Tứ ba, thong lĩnh tạo ra cho các doanh nghiệp có quyền lực thị trường

những khoản thu nhập bat chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp phan làm gia

tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội. Người tiêu dùng khơng

chỉ phải chi phí đắt thêm cho hàng hóa, dịch vụ thống lĩnh mà họ cịn chịu thiệt thịi khi khơng được hưởng những thành quả sáng tạo trong sản xuất.

Doanh nghiệp sau khi đã đạt được đến vị trí thống lĩnh sẽ lơ là việc đầu tư cho

nghiên cứu, phát minh vì giờ đây họ khơng cịn đối thủ để ganh đua nữa, thay vào đó họ chỉ lo việc khống chế sản lượng dé tang gia nhăm thu về lợi nhuận

thống lĩnh tối đa. Kết quả là nền sản xuất bị giậm chân tại chỗ, thị trường sẽ

thiếu văng những sản phẩm, dịch vụ mới chất lượng tốt hơn, còn người tiêu dùng thì vẫn phải chấp nhận những sản phẩm, dịch vụ cũ với giá cao vì họ

<small>khơng cịn có sự lựa chọn nào khác.</small>

Th’ tư, thong lĩnh cịn dẫn đến tình trạng “cửa quyền” hay “đặc quyền” cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh tất yếu sẽ sản sinh ra cơ chế “xin

-cho”, “ban phát” và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất.

Đồng thời, thống lĩnh còn là “bạn đồng hành” với tiêu cực và tham nhũng. Các doanh nghiệp thống lĩnh luôn có xu hướng liên hệ và tranh thủ sự ủng hộ

của các cơ quan quản ly nhà nước dé bảo vệ vị thé thong lĩnh của mình. Điều

nay làm xuất hiện nguy cơ tham nhũng, tha hóa trong bộ máy cơng qun.

1.2. Pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động

1.2.1. Khái qt pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Hiểu một cách chung nhất, kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh

thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động là: (i) tổng hợp các cơ chế, thiết

chế bảo đảm cho chủ thể có quyền kiểm sốt hạn chế cạnh tranh thực hiện chức năng theo dõi, kiểm tra quá trình thực hiện, chấp hành, tuân thủ các quy chuẩn hành vi đạo đức và pháp luật của các doanh nghiệp viễn thông di động, (ii) thực hiện chức năng ngăn ngừa nhằm bảo đảm cho những đối tượng này luôn nằm trong quỹ đạo của các yêu cầu về pháp luật, các chuẩn mực đạo đức kinh doanh và bảo đảm dé các quy định về cạnh tranh được thực hiện đúng và

có hiệu quả, (iii) trong những trường hợp nhất định, pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường viễn thông di động sẽ áp dụng các chế tài xử phạt nghiêm khắc để loại bỏ những hoạt động sai trái và vi phạm.

Xét về nội dung điều chỉnh, pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dụng vi

trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động điều chỉnh hai

<small>nhóm quan hệ chính:</small>

- Quan hệ cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông

<small>di động trong quá trình hoạt động kinh doanh trên thị trường.</small>

- Quan hệ giữa cơ quan thi hành Luật cạnh tranh với các chủ thể kinh doanh trong lĩnh vực viễn thông di động khi họ thực hiện hành vi lam dụng vị trí thơng lĩnh thị trường.

Pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông không tổn tại song hành

với sự xuất hiện và phát triển của ngành viễn thông:

Trước thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vận hành theo cơ chế kế

hoạch hóa tập trung, ngành viễn thơng lúc bấy giờ hồn tồn nằm gọn trong vỏ bọc của độc quyền nhà nước. Và đương nhiên, cạnh tranh trở thành một

thuật ngữ quá xa lạ trong lĩnh vực này, do đó, chưa xuất hiện nhu cầu cần có

biện pháp dé điều tiết nó.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Từ sau năm 1986, khi đất nước bước vào con đường đôi mới, nền kinh tế chuyền sang phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phan vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từ đó hình thành những điều kiện kiện để cạnh tranh tồn tại và cần được bảo vệ. Bởi vậy, các quy định của pháp luật cạnh tranh cũng đã dần được hình thành. Trong lĩnh vực viễn thơng, thì đến những năm 1995, cạnh tranh mới thực sự ra đời. Lúc này, khơng có

những quy định riêng biệt nào quy định về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn

thông, mà chủ yếu tuân theo những quy định chung trong Hiến pháp 1992, Bộ <small>luật dân sự 1995, Luật thương mại 1997.</small>

Ngày 25/02/2002, Pháp lệnh bưu chính viễn thơng của Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã được thông qua. Trong văn bản pháp luật này, đã có quy định

về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thơng nhưng vẫn cịn sơ sài, chung chung,

và rải rác ở các điều luật. Có thể thấy, trong tồn bộ văn bản này, chỉ có hai

quy định liên quan rõ nhất đến cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thơng. Đó là quy định tại điểm i khoản 2 Điều 38: Các doanh nghiệp viễn thông “cạnh

tranh đúng pháp luật trong hoạt động kinh doanh viễn thông” và điểm b

khoản 2 Điều 39 quy định các doanh nghiệp viễn thơng có dịch vụ viễn thơng chiếm thị phần khống chế “không được sử dụng các ưu thế của mình để hạn

chế hoặc gây khó khăn cho dịch vụ của các doanh nghiệp viễn thông khác ”.

Như vậy, có thé thay, trong thời gian nay, sự cạnh tranh trong viễn thơng van

cịn giai đoạn nảy mầm, nên pháp luật chưa dành cho nó một sự quan tâm

<small>đúng mức.</small>

<small>Tuy nhiên, cạnh tranh là một hiện tượng xã hội, ln vận động khơng</small>

ngừng, dé có thé điều chỉnh kịp thời, pháp luật nước ta cần có sự sửa đổi, hoàn thiện. Do vậy, Luật cạnh tranh đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 6

<small>thơng qua ngày 03/12/2004 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2005. Sự ra đời</small>

của Luật cạnh tranh đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc điều chỉnh hoạt

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

động cạnh tranh trên thi trường. Day là văn bản pháp luật đầu tiên, điều chỉnh hoạt động cạnh tranh một cách cụ thê, tập trung va chi tiết nhất, đưa ra những

chế định quan trọng để quản lý những hoạt động cạnh tranh đang ngày một

tỉnh vi, phức tạp và đa dạng, trong đó bao gồm cả lĩnh vực viễn thông di động. Và ké từ khi Luật cạnh tranh ra đời, co quan nhà nước có thầm quyền của Việt Nam đã ban hành nhiều van bản dé thực thi luật như: Nghị định số 116/2005/NĐ-CP ngày 15/9/2005 của Chính phủ quy định chỉ tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh; Nghị định số 120/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực cạnh tranh; Nghị định số 05/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của Chính phủ về việc thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cầu tô chức của Hội đồng cạnh tranh; Nghị định số 06/2006/NĐ-CP ngày 09/01/2006 của

Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyên hạn và cơ cau tô chức của

<small>Cục Quản lý cạnh tranh.</small>

Mặt khác, đến năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua một loạt các văn bản luật mới cho phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế xã hội cũng

như tiễn trình mở cửa và hội nhập của nước ta như Bộ luật dân sự 2005, Luật

thương mại 2005, Luật doanh nghiệp 2005, Luật đầu tư 2005. Những văn bản

pháp luật này cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo quyền tự do

<small>cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của các</small>

doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ viễn thơng nói riêng.

Tuy nhiên, dịch vụ viễn thơng di động lại là một lĩnh vực đặc thù, có

những khác biệt căn bản so với các lĩnh vực khác, và nó chiu sự điều chỉnh

trực tiếp từ các văn bản luật chuyên ngành thuộc lĩnh vực này. Do đó, Nhà

nước cũng phải có những thay đổi sao cho tương thích giữa luật chung và luật riêng. Có thé thấy, khi Luật cạnh tranh ra đời và có hiệu lực thì những quy

định về cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông của Pháp lệnh bưu chính viễn

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

thong nam 2002 tro nén lac hau va thiéu hiéu qua. Sau nhiéu nam nghiên cứu, cuối cùng các nhà làm luật cũng đã xây dựng những cơ sở pháp lý mới tạo hiệu quả cho việc điều tiết cạnh tranh trong lĩnh vực viễn thông thông qua ba văn bản pháp luật quan trọng, đó là: Luật viễn thơng năm 2009; Nghị định sỐ

25/2011/NĐ-CP ngày 06/04/2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng

dẫn thi hành một số điều của Luật viễn thông; Nghị định số 174/2013/NĐ-CP

<small>ngày 13/11/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong</small>

lĩnh vực bưu chính, viễn thơng, cơng nghệ thơng tin và tần số vô tuyến điện.

Từ những quy định của pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí

thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động, có thể nhận thấy

những đặc điểm cơ bản sau:

Tht nhất, pháp luật quy định hành lang pháp lý để kiểm soát hành vi

lạm dụng vi tri thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp có vi trí thống lĩnh

trong lĩnh vực viễn thông di động.

<small>Thứ hai, do mức độ phức tạp và nguy hai cho thị trường, pháp luật quy</small> định các biện pháp chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi bị coi là lạm

dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động.

Thứ ba, pháp luật về kiêm soát hành vi lạm dung vị trí thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động nhăm mục đích tạo mơi trường cạnh tranh lành mạnh, cân bằng lợi ích của các chủ thê trên thị trường và thúc đây

sự phát triển của kinh tế xã hội quốc gia.

Thi tư, trách nhiệm kiêm soát và xử lý các hành vi vi phạm trước hết sẽ

thuộc về các cơ quan có thẩm quyền quản lý cạnh tranh mà khơng cần thiết

phải có sự tố cáo hay khiếu kiện từ đối thủ cạnh tranh, người tiêu dùng của doanh nghiệp bị kiêm soát hay từ phía người dân.

Tht năm, pháp luật về kiêm sốt hành vi lạm dụng vi tri thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thông di động là bước phát triển cao hơn của pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

luật chống hạn chế cạnh tranh và là sự tiếp nối cho pháp luật chống cạnh tranh

không lành mạnh trong lĩnh vực viễn thông di động.

1.2.2. Vai trị của pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dung vị trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

Viễn thông là một ngành đặc thù, trong đó, viễn thơng di động là một

mang không thé thiếu trong cuộc sống ngày nay. Lĩnh vực này, nắm giữ những vai trò to lớn đối với cuộc sống con người, cũng như đối với nền kinh tế xã hội. Được xem là một trong những ngành gan liền với văn minh, từ lâu

sự tôn tại cũng như phát triển của dịch vụ viễn thông di động đã trở thành mỗi

quan tâm hàng đầu của tất cả các quốc gia trên thế giới.

Ở Việt Nam, mặc dù dịch vụ viễn thông di động ra đời muộn và phát

triển chậm so với nhiều nước khác, nhưng cho tới nay, nó vẫn ln được coi là một ngành mũi nhọn trong nền kinh tế. Điều đáng chú ý là chức năng chính của viễn thơng gan lién voi “thông tin” - cái được khoa học gọi là bề nổi của

cuộc sống. Từ thơng tin mới có thé giao tiếp, có thé tiếp thu, thậm chi từ thơng tin mới có thể tồn tại và phát triển. Thực tiễn đã chứng minh, dịch vụ

viễn thơng di động có ảnh hưởng trực tiếp đến cung ứng các dịch vụ khác, từ

du lịch tới may mặc, hay các dịch vụ đầu tư vào ngân hàng. Ngồi các khía

cạnh thương mại, viễn thơng di động cịn góp phan làm tăng chất lượng cuộc

sống. Các dịch vụ viễn thơng, trong đó có viễn thơng di động được ví như cây cầu nối người này với người khác, quốc gia này với các quốc gia khác. Chỉ

cần một cuộc điện thoại, người ta có thê kết nối được với một đối tác cách xa

tới hàng ngàn, hàng vạn cây số.... Từ đó sự kết nối về văn hóa, kinh tế, chính trị cũng được củng cô và phát triển. Không chỉ thế, dịch vụ viễn thơng di

động cịn là một loại hình dịch vụ nhạy cảm, liên quan nhiều đến an ninh

chính trị quốc gia. Một quốc gia muốn phát triển bền vững thì cũng cần phải tạo điều kiện để dịch vụ viễn thông di động đi lên từng ngày.

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Dich vụ viễn thơng di động, với những vai trị to lớn như vậy, dan đến

sự cạnh tranh trong lĩnh vực này cũng rất đáng lưu tâm. Sự ganh đua giữa các doanh nghiệp trên con đường này không chỉ liên quan đến sinh - tồn của

chính bản thân họ mà cịn có ảnh hưởng rất nhiều đến hàng triệu người tiêu dùng, và tới nền kinh tế xã hội của cả một quốc gia. Do đó, cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật, để cạnh tranh đi đúng hướng và phát huy được hết ý

nghĩa vốn có của nó.

Với tư cách là một chế định của pháp luật cạnh tranh, các quy định

pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường thê hiện

ro vai tro trong viéc kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường của các doanh nghiệp nhăm hạn chế cạnh tranh, từ đó, duy trì trật tự

cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh. Vai trò này thê hiện qua các mặt sau:

Thứ nhất, pháp luật về kiêm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động góp phan duy trì tương quan thị

trường trong mơi trường cạnh tranh lành mạnh; giới hạn các quyền và lợi ích của các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nhằm tránh hành vi lạm dụng, đồng thời, điều hịa lợi ích giữa các chủ thé kinh doanh trên thị trường <small>với lợi ích chung của tồn xã hội.</small>

Tứ hai, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thi

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động khuyến khích doanh nghiệp có vị trí

thống lĩnh ln thực hiện việc phát triển kinh doanh bang con đường cạnh <small>tranh lành mạnh; thực hiện các biện pháp ngăn chặn các hậu quả tiêu cực do</small> hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh gây ra, góp phan bao đảm sự ổn định và

phát triển của nền kinh tế thị trường.

Thứ ba, pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dung vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động thúc đây sự phát triển nguyên tắc tự

do kinh doanh nhưng vẫn đảm bảo có sự quản lý và điêu tiết của Nhà nước;

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

gop phan vào việc xây dựng hành lang pháp lý đảm bảo môi trường kinh

doanh lành mạnh nói chung và chống hạn chế cạnh tranh nói riêng.

Thứ tw, pháp luật về kiểm sốt hành vi lạm dung vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đối thủ cạnh tranh lành mạnh nhưng yếu thế trước các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường. Tăng cường sức mạnh tự bảo vệ của người tiêu <small>dùng trước những hành vi lam dung của các doanh nghiệp này.</small>

Thứ năm, pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vi tri thống lĩnh thị

trường trong lĩnh vực viễn thơng di động góp phan giúp Việt Nam nhanh chóng mở rộng thị trường và đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và bảo

vệ nền kinh tế thị trường quốc gia.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

<small>CHUONG 2</small>

THUC TRANG KIEM SOÁT HANH VI LAM DỤNG VI TRÍ THONG LINH THI TRUONG TRONG LINH VUC VIEN THONG

DI DONG THEO PHAP LUAT VIET NAM

2.1. Những nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về kiểm sốt hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

2.1.1. Cách thức xác định hành vi lam dung vị trí thơng lĩnh

thị trường trong lĩnh vực viễn thông di động

<small>2.1.1.1. Xác định thị trường liên quan</small>

<small>Xác định thị trường liên quan được xem là một bước quan trọng, mang</small> tính quyết định đối với một vụ việc hạn chế cạnh tranh. Xác định thị trường <small>liên quan giúp đánh giá được sức mạnh thị trường mà doanh nghiệp có được,</small> các đối thủ cạnh tranh và tác động của hành vi do doanh nghiệp có sức mạnh <small>thị trường thực hiện. Thông thường, cơ quan cạnh tranh xác định thị trường</small> liên quan căn cứ trên cả phương diện sản phẩm và địa lý. Mục đích của việc

xác định thị trường trên cả hai phương diện này là nhằm xác định các đối thủ cạnh tranh thực sự của doanh nghiệp thống lĩnh cũng như khả năng các đối

thủ này có thể ngăn cản doanh nghiệp thống lĩnh có những hành động đơn <small>phương tăng giá hoặc áp đặt giá trên mức giá cạnh tranh. Mặt khác, việc xác</small> định thị trường liên quan sẽ hỗ trợ việc tính tốn thị phần của từng doanh <small>nghiệp trong vụ việc cạnh tranh, qua đó, xác định được sức mạnh thị trường</small> của các doanh nghiệp có liên quan đối với hành vi hạn chế cạnh tranh.

<small>Việc xác định thị trường liên quan cũng chính là qua trình đi tìm câu trả</small> lời cho câu hỏi: Đâu là những sản phẩm mà người tiêu dùng cho là có khả

năng thay thé ở mức chấp nhận được cho một sản phẩm, khi xem xét đến các

yếu tố đặc tinh, giá cả, mục đích sử dụng và các thuộc tính quan trọng khác

của sản phẩm? Có nhiều loại thơng tin, tài liệu giúp cơ quan cạnh tranh có thé

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

đánh giá mức độ về khả năng thay thế giữa sản phẩm hay sự khác biệt giữa

các khu vực bán sản phẩm. Đối với mỗi vụ việc, các loại thông tin, chứng cứ

khác nhau sẽ có vai trị quyết định trong q trình xem xét, phân tích vụ việc, điều này sẽ phụ thuộc nhiều vào đặc tính và đặc trưng riêng của ngành công nghiệp và các sản phẩm hay dịch vụ mà cơ quan cạnh tranh đang xem xét.

Liên quan đến việc xác định thị trường liên quan, có hai phương pháp

xác định chính: (i) xem xét khả năng thay thế về cầu và (ii) khả năng thay thé

về cung. Trong hầu hết các trường hợp, thị trường thường được xác định dựa trên quan điểm của khách hàng, tức là xét từ góc độ khả năng thay thế về cầu. Nếu cần thiết phải xác định thị trường dựa trên quan điểm của nhà cung cấp, tức là xem xét khả năng thay thế về cung.

Trên quan điểm kinh tế học, khả năng thay thé về cầu tạo nên sức mạnh thường xun, có hiệu quả và ngay tức thì cho nhà cung cấp một loại sản

phẩm cụ thé. Nếu khách hàng có thé dé dàng chuyền sang sử dụng sản phẩm

thay thế sẵn có hoặc chuyển sang một nhà cung cấp ở một khu vực địa lý <small>khác, thì một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp khơng bị coi là tác</small>

động đáng ké lên những điều kiện ban hang thơng thường, như giá bán hang

hóa, dịch vụ. Về cơ bản, việc xác định thị trường bao gom xac dinh cac nguồn

cung về mặt sản phẩm và vi trí địa lý của nhà cung cấp có khả năng thay thé

<small>hiệu quả cho khách hàng của các doanh nghiệp liên quan trên thị trường.</small> Nhìn chung, những tác động cạnh tranh phát sinh từ khả năng thay thế

về cung thường không tác động ngay tới hành vi kinh doanh của các doanh

nghiệp khác trên thị trường. Vì vậy, một SỐ CƠ quan cạnh tranh xem xét khả

năng thay thế về cung trong giai đoạn xác định thị trường liên quan, nhưng

cũng có một số cơ quan cạnh tranh xem xét khả năng thay thé về cung tại giai <small>đoạn đánh giá phân tích cạnh tranh.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Luật cạnh tranh năm 2004 quy định thị trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan. Trong đó, thị trường

sản phẩm liên quan là thị trường của những hàng hóa, dịch vụ có thé thay thé

cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả; thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó, có những hàng hóa dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kê <small>với các khu vực lân cận.</small>

* Xác định thị trường sản phẩm liên quan

Theo quy định tại Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan bao gồm xác định các hàng hóa, dịch vụ có thê

thay thế cho nhau cả về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả, trong đó:

- Đặc tính của hàng hóa, dịch vụ được xác định theo một hoặc một SỐ căn cứ sau: tính chất vật lý, tính chất hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng, khả năng hấp thụ.

<small>- Mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào</small> mục đích sử dụng chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó.

<small>- Giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa đơn bán lẻ theo quyđịnh của pháp luật.</small>

- Thuộc tính “có thé thay thế cho nhau” của hàng hóa, dịch vụ được xác

<small>định như sau:</small>

+ Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thê thay thế cho nhau về đặc tính nếu hàng hóa, dịch vụ đó có nhiều tính chất về vật lý, hóa học, tính năng kỹ thuật, tác dụng phụ đối với người sử dụng và khả năng hấp thụ giống nhau;

+ Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thê thay thế được cho nhau về mục đích sử dụng nếu hàng hóa, dịch vụ đó có mục đích sử dụng giống nhau;

+ Hàng hóa, dịch vụ được coi là có thê thay thế được cho nhau về giá

cả nêu trên 50% của một lượng mẫu ngẫu nhiên 1.000 người tiêu dùng sinh

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ

<small>mà họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng</small>

hóa, dịch vụ đó tăng lên q 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp.

Trường hợp số người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan quy

định tại điểm này khơng đủ 1000 người thì lượng mẫu ngẫu nhiên được xác

định tối thiểu bằng 50% tổng số người tiêu dùng đó.

Trường hợp phương pháp xác định thuộc tinh “có thé thay thé cho nhau” của hàng hóa, dịch vụ quy định tại điểm này cho kết quả chưa đủ dé kết

luận thuộc tính “có thê thay thế cho nhau” của hàng hóa, dịch vụ, cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có quyền xem xét thêm một hoặc một SỐ yếu tố sau đây để xác định thuộc tính “có thê thay thế cho

<small>nhau” của hàng hóa, dịch vụ:</small>

+ Ty lệ thay đối của cầu đối với một hang hóa, dịch vụ khi có sự thay

đơi về giá của một hàng hóa, dịch vụ khác;

<small>+ Thời gian cung ứng hang hóa, dịch vụ ra thị trường khi có sự gia tang</small> đột biến về cầu;

<small>+ Thời gian sử dụng của hàng hóa, dịch vụ;</small>

+ Khả năng thay thế về cung (khả năng của doanh nghiệp đang sản xuất, phân phối một hàng hóa, dich vụ chuyên sang sản xuất, phân phối hang

hóa, dịch vụ khác trong một khoảng thời gian ngắn và khơng có sự tăng lên

đáng ké về chi phí trong bối cảnh có sự tăng lên về giá của hàng hóa, dịch vụ

<small>khác đó).</small>

Trong trường hợp cần thiết, cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có thé xác định thêm nhóm người tiêu dùng sinh sống tại

khu vực địa lý liên quan khơng thể chun sang mua hàng hóa, dịch vụ khác

<small>có đặc tính, mục đích sử dụng giơng với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

<small>dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa, dịch vụ đó</small> tăng lên quá 10% và được duy trì trong 06 tháng liên tiếp.

Ngồi cách xác định thị trường sản phẩm liên quan nói trên, trong một số trường hợp đặc biệt theo quy định tại Điều 5 Nghị định 116/2005/NĐ-CP

thì thị trường sản phẩm liên quan cịn có thé được xác định là thị trường của

một loại sản phẩm đặc thù hoặc một nhóm các sản phẩm đặc thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của người tiêu dùng. Trong trường hop này, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan có thể xem xét thêm thị trường

của các sản phẩm bồ trợ cho sản phẩm liên quan. Sản phẩm được coi là sản

phẩm bồ trợ cho sản phẩm liên quan nếu giá của sản phẩm này tăng hoặc giảm thì cầu đối với sản phẩm liên quan sẽ giảm hoặc tăng tương ứng.

<small>* Xác định thị truong địa ly liên quan</small>

Theo quy định tại khoản 2 Điều 7 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, ranh <small>giới khu vực địa lý được xác định theo các căn cứ sau đây:</small>

<small>- Khu vực địa lý có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tham gia phân</small>

phối sản phẩm liên quan;

<small>- Cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp khác đóng trên khu vực dia lý lân</small>

cận đủ gần với khu vực địa lý quy định tại điểm a khoản này để có thể tham

gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu vực địa lý đó; - Chi phi vận chuyền trong khu vực địa ly;

- Thời gian vận chuyên hàng hóa, cung ứng dich vụ trong khu vực địa lý có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tham gia phân phối sản phẩm liên

<small>- Rào cản gia nhập thị trường.</small>

Theo quy định tại khoản 3 Điều 7 Nghị định số 116/2004/NĐ-CP, khu

vực địa lý được coi là có điều kiện cạnh tranh tương tự và khác biệt đáng kê

<small>với các khu vực dia ly lan cận nêu thỏa mãn một trong các tiêu chí sau đây: (1)</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Chi phi vận chuyên và thời gian vận chuyên làm giá bán lẻ hang hóa tăng <small>khơng qua 10%; (11) Có sự hiện diện của một trong các rào can gia nhập thi</small> trường (bao gồm: sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dang cơng nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật về sở hữu cơng nghiệp; các rào cản về tài chính bao gồm chi phí đầu tư vào sản xuất, phân phối, xúc tiến thương mại hoặc khả năng tiếp cận với các nguồn cung cấp tài chính; quyết

định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước; các quy định về điều kiện kinh doanh, sử dụng hàng hóa, dịch vụ; các chuân mực nghề nghiệp; thuế nhập khâu và hạn ngạch nhập khẩu; tập quán của người tiêu dùng và các rào

<small>cản gia nhập thị trường khác).</small>

2.1.1.2. Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường

Xác định vi trí thống lĩnh thị trường là một trong những nội dung cơ

bản của chế định pháp luật về kiêm soát hành vi lạm dụng vi trí thống lĩnh thị

trường dé hạn chế cạnh tranh. Pháp luật cạnh tranh của các nước có những

cách tiếp cận khác nhau về khái niệm và cách thức xác định vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp do sự tập trung tư bản ở các lĩnh vực và đặc điểm

kinh tế - xã hội ở các nước là khác nhau.

Luật cạnh tranh các nước đều lấy thị phan là yêu tố đầu tiên dé xác định

một doanh nghiệp nào đó đã đạt đến vị trí thơng lĩnh thị trường hay chưa và có thé coi thị phan là yếu t6 quan trọng hang dau. Tuy nhiên, mức thị phan cụ

thé mà doanh nghiệp nắm giữ lại có sự khác nhau giữa các nước. Ví dụ: Theo

<small>Luật bảo vệ cạnh tranh của Croatia thì doanh nghiệp được xem là có vị trí</small>

thống lĩnh thị trường nếu thị phần doanh nghiệp đó vượt quá 30%; Luật cạnh

tranh của Canađa là 35%; Luật chống cạnh tranh không lành mạnh của Mông

Cổ, Luật bảo vệ cạnh tranh kinh tế của Ucraina là 50%; Luật cạnh tranh của Pháp là 80%... Nếu là nhóm doanh nghiệp, Luật bảo vệ cạnh tranh của Croatia

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

xác định mức thi phần là 50% đối voi hai doanh nghiệp, 60% đối với ba doanh nghiệp và 75% đôi với bốn doanh nghiệp...

Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, nếu chi dựa vào yếu tố thị phan dé

kết luận một doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp nào đó đã đạt đến vị trí thống

lĩnh thị trường chưa hắn đã chuẩn xác, do đó, pháp luật của nhiều quốc gia

trên thế giới chú trọng cách đánh giá đa tiêu chí, ngồi yếu tố thị phan, còn dựa vào các yếu tố như doanh thu hàng năm; năng lực hay sức mạnh tài

chính; quy mô nhân sự; mạng lưới phân phối và tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ; khả năng gia nhập thị trường của các đối thủ tiềm năng... Ví dụ, pháp luật

cạnh tranh của Canađa định nghĩa về vị trí thống lĩnh thị trường của doanh

nghiệp từ quan niệm “doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có

qun lực thị trường. Sức mạnh thị trường là khả năng định giá cao hơn mức giá cạnh tranh mà vẫn có lợi nhuận trong thời gian đáng kể”. Với khái niệm

trên, pháp luật cạnh tranh của Canađa đã mô tả về vị trí thống lĩnh thị trường

của doanh nghiệp được xác định từ khả năng chi phối thị trường bằng cách áp đặt và duy trì giá bán sản phẩm cao hơn so với giá cạnh tranh. Hay, tại khoản

7 Điều 2 của Luật Thương mại lành mạnh và những quy định về độc quyền năm 1980 (gọi tắt là Luật Thương mại Hàn Quốc) có quy định: “Doanh nghiệp có vị trí thơng lĩnh trên thị trường là bất kỳ người mua, người ban trong mot lĩnh vực thương mai nhất định và nắm giữ vai trò thong linh thi

trường dé an định, duy trì hoặc thay đổi giá cả, khối lượng, chất lượng và các diéu kiện thương mại khác hoặc trên cơ sở độc lập hoặc trên cơ sở câu kết với các doanh nghiệp khác. Khi xét đoán các doanh nghiệp thống lĩnh thị trường, can phải tính đến các yếu tô như thị phan, sự tôn tại và quy mô của rào can đối với việc thâm nhập thị trường và các quy mô tương đối của các doanh nghiệp cạnh tranh”. Quy định này đã chỉ ra vị trí thống lĩnh thị trường có thé <small>thuộc một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

doanh nghiệp này có khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm năng đối với thị

<small>trường liên quan mà doanh nghiệp đó đang hoặc sẽ hoạt động. Và việc xem</small>

xét vị trí thống lĩnh thị trường sẽ căn cứ trên nhiều tiêu chí thị phần, quy mô

rào cản theo khả năng thực tế của doanh nghiệp trên thị trường.

Luật cạnh tranh năm 2004 của Việt Nam không đưa ra khái niệm cụ thê thế nào là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, mà chỉ quy định các trường hợp có vị trí thống lĩnh và căn cứ để xác

định vị trí thống lĩnh thị trường theo Điều 11 thông qua phương pháp định

lượng (xác định thị phần của chúng trên thị trường liên quan) và phương pháp

định tính (có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kê).

Tương tự như vậy, căn cứ dé xác định vị trí thống lĩnh thị trường của

doanh nghiệp trong lĩnh vực viễn thông di động bao gồm: thị phần của doanh nghiệp và khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể.

* Thứ nhất, xác định theo thị phan của doanh nghiệp

Khoản 5 Điều 3 Luật cạnh tranh quy định: “Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu

bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hố, dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hố, dịch vụ đó trên thị

trường liên quan theo tháng, quý, năm”. Như vậy, căn cứ dé xác định thị phần là (i) tông doanh thu hoặc doanh số của tat cả các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan; (ii) doanh thu hoặc doanh số của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra. Doanh thu, doanh số mua vào đối với một loại hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp được xác định theo quy định của pháp luật về <small>thuê, chuân mực kê toán Việt Nam.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

Luật cạnh tranh Việt Nam đưa ra bốn mức thị phần quan trọng tương ứng với số lượng doanh nghiệp là 30% (một doanh nghiệp); 50% (hai doanh

nghiệp); 65% (ba doanh nghiệp); 75% (bốn doanh nghiệp). Co sở dé đề xuất

mức thị phần như trên là dựa vào thực tiễn thị trường Việt Nam, trong đó, có đến 96% doanh nghiệp tham gia kinh doanh là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó, số doanh nghiệp có được thị phần từ 30% trở lên không phải là nhiều.

Hơn nữa, các văn bản pháp luật tương ứng như Pháp lệnh bưu chính viễn

thơng cũng đang sử dụng ngưỡng thị phần 30% để xác định doanh nghiệp

viễn thơng có vị trí thống lĩnh [16].

Như vậy, pháp luật Việt Nam đã ấn định mức thị phần cụ thê để xác định vi tri thống lĩnh thị trường. Chỉ cần xác định doanh nghiệp bị điều tra có thị phần bằng hoặc vượt ngưỡng quy định là kết luận có vị trí thống lĩnh mà

khơng cần chứng minh doanh nghiệp đó có kha năng kiêm sốt thị trường trên thực tế hay không. Với cách tiếp cận này, pháp luật không cần đưa ra khái niệm mang tính học thuật mà chỉ quy định căn cứ pháp lý để xác định vị trí

thống lĩnh. Vì vậy, có thê dễ dàng kết luận một doanh nghiệp đang thống lĩnh

thị trường nếu xác định được thị trường liên quan và thị phần của doanh

<small>nghiệp đó.</small>

* Thứ hai, xác định theo khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách

đáng kể của doanh nghiệp

Trường hợp này, vị trí thống [nh thị trường được xác định khi một

doanh nghiệp chưa tích lũy đủ mức thị phan tối thiểu (thị phần dưới 30% trên

thị trường liên quan) nhưng có khả năng thực hiện những hành vi gây hạn chế

cạnh tranh một cách đáng kê trên thị trường. Luật cạnh tranh 2004 không đưa ra định nghĩa, song Điều 22 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định các căn

cứ dé xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng ké bao gồm: <small>- Năng lực tài chính của doanh nghiệp;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

- Nang luc tai chinh cua tô chức kinh tế, cá nhân thành lập doanh nghiệp;

- Năng lực tài chính của tổ chức, cá nhân có quyền kiểm soát hoặc chi phối hoạt động của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hoặc điều lệ của

<small>doanh nghiệp;</small>

<small>- Năng lực tài chính của cơng ty mẹ;- Năng lực công nghệ;</small>

- Quyên sở hữu, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; - Quy mô của mạng lưới phân phối;

- Các căn cứ khác mà cơ quan quản lý cạnh tranh và Hội đồng cạnh <small>tranh cho là phù hợp.</small>

Việc quy định về vị trí thống lĩnh cho các doanh nghiệp có thị phần dưới 30% trên thị trường nhưng có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách

đáng kế nhăm bổ sung và khắc phục những hạn chế của việc sử dung thi phan

làm căn cứ duy nhất dé xác định vị tri thống lĩnh. Nghị định số 116/2005/NĐ-CP chỉ liệt kê các tiêu chí xác định khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách

đáng kể mà không đưa ra mức định lượng cho từng tiêu chí. Do đó, tùy theo

từng vụ việc cụ thé, cơ quan có thâm quyền sẽ phân tích, đánh giá và đưa ra kết luận. Cơ quan có tham quyên có thé sử dụng một số hoặc tất cả các tiêu

chí trên để đánh giá về vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp.

Việc sử dụng kha năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng ké làm

căn cứ dự phịng khi xác định vị trí thống lĩnh thị trường nếu yếu tố thị phần

chưa đủ đề kết luận sẽ có ý nghĩa đối với q trình đấu tranh các toan tính lạm

dụng sức mạnh tài chính, cơng nghệ dé lũng đoạn thị trường bởi khả năng xuất hiện những thủ đoạn cấu kết ngầm hoặc đầu tư ngầm để chiếm lĩnh, lũng

đoạn thị trường từ các thế lực tài chính quốc tế và trong nước khơng phải là ít. Chúng có thé dựng lên các doanh nghiệp dưới hình thức doanh nghiệp có vốn

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

đầu tư nước ngồi, hoặc doanh nghiệp trong nước làm bình phong dé thực

hiện những tính tốn nói trên. Nếu phân tích từ thị phần, thì những doanh nghiệp này khơng đủ tiêu chuẩn dé được coi là thống lĩnh, song với sự tài trợ

của các doanh nghiệp mẹ, chúng có thể thực hiện những hành vi han chế cạnh tranh và có khả năng gây ra hậu quả khơng khác gì doanh nghiệp thống lĩnh thị trường thực sự. Vì vậy, khi sử dụng khả năng hạn chế cạnh tranh làm căn cứ kết luận về vị trí thống lĩnh, chúng ta sẽ có cơ sở dé đấu tranh lại các biểu

hiện tiêu cực nhằm hạn chế cạnh tranh ngay từ trong những giai đoạn đầu của

một chiến lược chiếm lĩnh thị trường, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý kinh tế đảm bảo sự phát triển lành mạnh và an ninh cho nền kinh tế.

2.1.2. Các hành vi lạm dụng vị trí thong lĩnh thị trường trong lĩnh vực viễn thơng di động

2.1.2.1. Ban hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm

loại bỏ đối thủ cạnh tranh

Điều 23 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định trừ những trường hợp đặc biệt, bán hàng hóa dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh

là việc bán hàng với mức giá thấp hơn tong các chi phí sau: (i) Chi phí câu thành giá thành sản xuất hàng hóa, dịch vụ theo quy định của pháp luật hoặc giá mua hàng hóa dé bán lại; (ii) Chi phí lưu thơng hàng hóa, dịch vụ theo quy

<small>định của pháp luật.</small>

Dé xác định hành vi định giá dé loại bỏ đối thủ cạnh tranh, chỉ cần tiến

hành việc so sánh giữa giá bán thực tế và giá thành toàn bộ của cùng một sản

phẩm là đủ dé kết luận mà không cần điều tra về hậu quả thực tế mà nó gây ra cho thị trường. Căn cứ để xác định hành vi này là giá bán hàng hóa dịch vụ và <small>giá thành tồn bộ của hàng hóa, dịch vụ đó:</small>

- Gia bán hàng hóa, dịch vụ là giá bán thực té của hàng hóa, dịch vụ

trên thị trường liên quan. Tuy nhiên, Luật cạnh tranh và Nghị định số

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

116/2005/NĐ-CP chưa xác định giá bán thực tế của sản phẩm là giá sản pham

ở khâu nao trong quá trình kinh doanh (giá bán lẻ hay giá bán sản phâm cho

nhà phân phối đầu tiên). Mặt khác, trong trường hợp doanh nghiệp tiêu thụ sản phâm bằng nhiều cấp tiêu thụ khác nhau như vừa trực tiếp bán lẻ, vừa bán cho các đại lý... thì việc xác định giá bán thực tế sản phẩm Sẽ gặp nhiều khó khăn. Để làm rõ điều này, phải khẳng định hành vi bán hàng hóa, dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh có thé được thực hiện bởi doanh nghiệp trực tiếp tham gia sản xuất sản phẩm hoặc chỉ là những nhà phân phối sản phẩm. Do đó, pháp luật khó có thé đưa ra mức giá chuẩn phù <small>hợp với mọi trường hợp.</small>

- Giá thành sản xuất toàn bộ: Theo quy định của Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, giá thành tồn bộ là tổng các chi phí sau: Chi phí cấu thành giá sản xuất hàng hóa, dịch vụ hoặc giá mua hàng hóa dé bán lại; và chi phi

lưu thơng hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, do dịch vụ viễn thơng có tính chất vơ hình, khơng nhìn thấy cũng như khơng thể đo lường, lưu trữ được và quá trình

cung ứng dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ xảy ra đồng thời vì vậy việc xác định chi phí cung ứng đối với một loại dich vụ của doanh nghiệp dé so sánh với giá cung ứng thực tế là rất khó khăn và đơi khi khơng thê thực hiện được. Ngồi

ra, việc điều tra và thu thập các số liệu tài chính kế tốn, chỉ phí sản xuất của các doanh nghiệp khơng phải là cơng việc đơn giản bởi hoạt động kế tốn tại

các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn thiếu minh bạch và trung thực. Điều

này dẫn đến kết quả xác định giá thành tồn bộ của doanh nghiệp khơng chính

<small>xác, từ đó sẽ khơng phát hiện và xử lý kip thời các doanh nghiệp có hành vi</small>

lam dụng vi trí thống lĩnh thị trường.

2.1.2.2. Ap đặt giá mua, giá ban hàng hóa, dich vụ bat hợp lý hoặc ấn định giá bán lại tối thiểu gây thiệt hại cho khách hàng: Nhóm hành vi này có <small>ba loại hành vi cụ thê sau:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

- Một là, hành vi áp đặt giá mua hàng hóa dịch vụ bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng: là việc doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh khi mua hàng

hóa, dịch vụ đã áp đặt giá mua được đặt ra thấp hơn giá thành sản xuất hàng

hóa, dịch vụ trong điều kiện chất lượng hàng hóa, dịch vụ đặt mua khơng suy giảm và khơng có biến động về giá bán bn hàng hóa, cung ứng dịch vụ trên thị trường liên quan. Hành vi này được xác định dựa vào hai dấu hiệu quy

định tại khoản 1 Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP.

- Hai là, hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ bất hợp lý gây thiệt

hại cho khách hàng: Theo khoản 2 Điều 27 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP thì “hành vi áp đặt giá bán hàng hóa, dịch vụ được coi là bất hợp lý gây thiệt hại cho khách hàng nếu cầu về hàng hóa, dịch vụ khơng tăng đột biến tới mức vượt quá công suất thiết kế hoặc năng lực sản xuất của doanh nghiệp và thỏa mãn hai điều kiện sau đây: (¡) Giá bán lẻ trung bình tại cùng thị trường liên

quan trong thời gian tối thiêu 60 ngày liên tiếp được đặt ra tăng một lần vượt

quá 5%; hoặc tăng nhiều lần với tổng mức tăng vượt quá 5% so với giá đã bán trước khoảng thời gian tối thiêu đó; (ii) Khơng có biến động bat thường làm

tăng giá thành sản xuất của hàng hóa, dịch vụ đó vượt quá 5% trong thời gian

tối thiểu 60 ngày liên tiếp trước khi bắt đầu tăng giá”.

- Ba là, ấn định giá bán lại tối thiêu gây thiệt hại cho khách hàng là việc khống chế không cho phép các nhà phân phối, nhà bán lẻ bán lại hàng hóa

thấp hơn mức giá đã quy định trước (khoản 3 Điều 27 Nghị định số <small>116/2005/NĐ-CP).</small>

2.1.2.3. Hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ, giới hạn thị trường, cản trở sự phát triển kỹ thuật, công nghệ gây thiệt hại cho khách hàng: Nhóm hành vi này bao gồm ba loại hành vi sau:

- Một là, hạn chế sản xuất, phân phối hàng hóa, dịch vụ gây thiệt hại <small>cho khách hàng. Đây là hành vi giảm khả năng cung hàng hóa, dịch vụ một</small>

</div>

×