Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo luật nuôi con nuôi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.47 MB, 87 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

NGUYEN THỊ PHƯƠNG THU

NGUYEN TAC GIẢI QUYẾT VIỆC NUOI CON NUOI THEO LUAT NUOI CON NUOI

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự

Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Phương Lan

HÀ NOI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<small>Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng lơi.</small>

Các số liệu, ví dụ trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bồ trong bat kỳ cơng trình

<small>nào khác.</small>

<small>Tác giả luận văn</small>

Nguyễn Thị Phương Thu

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<small>Công ước Lahay năm 1993</small>

Công ước Lahay năm 1993 về bảo vệ trẻ em và

<small>hợp tác trong lĩnh vực con nuôi quôc tê</small>

<small>Công ước về các quyên dân su, chính tri năm</small>

Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật hôn nhân và gia đình về quan hệ

<small>hơn nhân và gia đình có u tơ nước ngồi.</small>

<small>Nghị định 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa</small>

đôi, bố sung một số điều của Nghị định SỐ

<small>68/2002/NĐ-CP ngày 10 tháng 7 năm 2002 của</small>

Chính phủ quy định chỉ tiết thi hành một số

điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ

<small>hơn nhân và gia đình có u tơ nước ngồi.</small>

<small>Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005</small>

của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

21/3/2011 của Chính phủ quy định chỉ tiết thi

<small>hành một sô điêu của Luật Nuôi con nuôi.</small>

<small>Nghị định 110/2013/NĐ-CP ngày 24/9/2013</small>

của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bé trợ tư pháp, hành

<small>chính tư pháp, hơn nhân và gia đình, thi hànhán dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã.</small>

<small>Thông tư 08/2006/TT-BTP ngày 08/12/2006</small>

hướng dẫn thực hiện một số quy định về ni

<small>con ni có u tơ nước ngồi.</small>

<small>Tun ngơn toàn thê gidi vê quyên con nøườinăm 1948</small>

Ủy ban nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

DANH MỤC CÁC TỪ VIET TAT

MỞ ĐẦU... - - c 2 1 1E 1 121121111211 11110121111 1111112111211 11111101 g | CHƯƠNG 1. MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE NGUYÊN TAC GIẢI QUYET VIỆC NUÔI CON NUÔI... 2 - SE SE E2 S221 112151 xcxe2 5

1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và nguyên tắc giải quyết việc ni con nudi...5

<small>L.1.1. Khải HIỆM HI CON HHHỒI ả...Ă SG << << E113 1 E118 153 £EEkkkkssecee 5</small>

1.1.2. Khái niệm nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi...--- 7 1.2. Cơ sở quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi ... 9

<small>L210. CO ng... na... ... (ta... 9</small>

1.2.2. Cơ sở thực HEN cececcccccccsescscesssesessesesesesssesssesssvsessssescsesvsesecsescsvees 10

1.3. Quá trình hình thành các ngun tắc giải quyết việc ni con nuôi 11 1.4. Y nghĩa của các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nudi... 14 CHUONG 2. NOI DUNG CÁC NGUYEN TAC GIẢI QUYÉT VIỆC NUÔI CON NUOI THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI...-- - 17

2.1. Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc... ---- ¿2 s+s+sszszcxes 17 2.2.Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của

<small>người được nhận làm con ni và người nhận con ni, tự nguyện,</small>

bình đắng, khơng phân biệt nam nữ, không trái pháp luật và đạo đức 2.2.1. Việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyên và lợi ich hợp pháp của

<small>người được nhận làm con ni và người nhận CON HHƠi ...-- - -- 20</small> 2.2.2. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện tự nguyện, bình đăng, <small>khơng phán ĐiỆI NAM HIỮY...- c2 638831331 38 8 EESEEEvVVEEEkessseseeeeeerre aT2.2.3. Việc nuôi con nuôi không trai pháp luật va dao đức xã hội... 34</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

CHUONG 3. THUC TIEN AP DUNG CÁC NGUYEN TAC GIẢI QUYET VIEC NUOI CON NUOI VA MOT SO KIEN NGHI NHAM DAM BAO HIEU QUA CUA CAC NGUYEN TAC NAY TRONG

THUC 'TỈ... G- - SEEE SE 3 E1 E313 E1E1111 1111111111111 111111111 1111x111 ce. 46 3.1. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc giải quyết việc nuơi con nuơi... 46 3.1.1. Những kết quả dat ưỢC...- 5-5 Set SE E211 EErrererrree 46 3.1.2. Những 1:8727/7:17Ẽ7/2 R1 nnhậ.. 50 3.1.3. Nguyên nhân của những tơn tại, hạn chế... --- se: 62 3.2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuơi CON nuơi. ...- ¿26 E+E‡E#ESEE*E£keEEEEEEESErkerrrkrkea 64 KẾT LUẬN... -- G2511 E1 3 E21515152121151151111111111111111 E111 erre, 70 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHẢO...-- 52 2 s+x+EeEerrxsxsed 71

<small>PHU LUC .oceccccccsccccssccsssecsssessssesssuessssecssucessvecssuesssucsssuccssvecssessssecsssneessvessees 74</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ni con ni là một vẫn đề mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, thé

hiện tinh thần tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau giữa con người với con

người. Đặc biệt, đối với những trẻ em khuyết tật, trẻ em mắc bệnh hiểm

nghèo, trẻ em m6 cơi, khơng nơi nương tựa thì việc ni con ni lại càng có

ý nghĩa thiết thực. Tại Việt Nam, sau chiến tranh, số lượng trẻ em mồ cơi, bị

bỏ rơi cần được chăm sóc, ni dưỡng tăng nhanh. Trong khi đó, nhu cầu

người nước ngồi muốn nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi ngày càng phổ

biến. Những hiện tượng trục lợi, cị mỗi mơi giới trẻ em làm con ni người

nước ngồi đã phát sinh trong q trình giải quyết cho trẻ làm con ni.

Chính vì vậy, nhu cầu về một quy trình giải quyết ni con ni chặt chẽ,

<small>nghiêm ngặt đảm bảo mục đích nhân đạo của việc nuôi con nuôi được đặt ra</small>

một cách cấp thiết. Là một nước có nhiều trẻ em được nhận làm con ni

<small>người nước ngồi, trong những năm qua, Việt Nam đã tích cực và chủ động</small>

trong việc xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật liên quan đến vẫn đề ni con ni có yếu tố nước ngồi. Trước thời điểm Luật ni con ni có hiệu lực, vẫn đề nuôi con nuôi được quy định trong rất nhiều các văn bản pháp luật khác nhau, từ văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp cho đến các

Nghị định, Thông tư. Các văn bản này đã cho thấy hệ thống các quy định bảo

vệ quyền trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi theo pháp luật Việt Nam ngày

càng toàn diện, tiến bộ và phù hop hơn với yêu cầu của pháp luật quốc tế. Tuy

nhiên, bên cạnh những điểm tiến bộ, hệ thống pháp luật về ni con ni vẫn cịn những điểm bat cập như các quy định điều chỉnh về van đề ni con ni cịn tản mạn, năm rải rác ở nhiều văn bản pháp luật có giá trị pháp lý khác nhau, nhiều quy định của pháp luật trong nước khơng phù hợp, thậm chí trái với những nguyên tắc của pháp luật quốc tế. Trước những tôn tại này, việc ban hành một văn bản pháp luật dé thống nhất và sửa đổi, b6 sung các quy

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

ngày 01/01/2011. So với hệ thống pháp luật về nuôi con nuôi trước đây, Luật nuôi con ni có rất nhiều điểm mới, trong đó đặc biệt có ý nghĩa là việc quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi (tại Điều 14 Luật ni con

ni). Đây chính là nền tảng pháp lý cơ bản đối với tất cả các quy phạm pháp

luật điều chỉnh về nuôi con nuôi. Các nguyên tắc giải quyết việc ni con ni đã ít nhiều được đề cập tới trong các văn bản pháp luật trước đó, nhưng cũng có nguyên tắc lần đầu tiên được quy định một cách minh bạch, rõ ràng

trong Luật nuôi con nuôi. Các nguyên tắc này đã làm thay đổi một cách cơ

bản quan điểm giải quyết việc nuôi con nuôi trước đây và đòi hỏi các quy phạm pháp luật điều chỉnh về nuôi con nuôi phải thay đổi, quy định lại cho phù hợp. Tuy nhiên, vì các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi mới được quy định và có nhiều điểm mới nên sự nhận thức, hiểu và vận dụng, thi hành các nguyên tắc này trong thực tế cịn rất hạn chế, gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Xuất phát từ những lý do đó, tơi đã chọn đề tài “Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi ” làm đề tài luận văn Thạc sỹ luật

<small>học của mình.</small>

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Luật ni con ni có hiệu lực đến nay đã gan 03 nam, tuy nhién hién tại việc nghiên cứu về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi vẫn chưa nhận được nhiều sự quan tâm của các tác giả. Liên quan đến van dé này mới chi có bài viết “mục đích ni con ni, nguyên tắc giải quyết nuôi con nuôi” của tác giả Đào Hà trong số chuyên đề pháp luật về nuôi con ni đăng trên Tạp

chí Dân chủ và pháp luật năm 2011. Nghiên cứu sâu hơn thì có Khóa luận tốt

nghiệp năm 2012 của tác giả Nguyễn Thanh Vân cũng với tên đề tài “Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi”. Về co ban, Khóa luận tốt nghiệp cũng đã có một nghiên cứu riêng và toàn diện về van đề này,

<small>tuy nhiên chưa ở mức độ chuyên sâu. Luận văn này tập trung nghiên cứu tồn</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

quyết việc ni con ni.

3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài - Mục dich nghiên cứu của dé tài

+ Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và nội dung của các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi.

+ Thực tiễn thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi: việc áp dụng, thực hiện các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi trong

thực tế và phát hiện những vi phạm, bất cập còn tồn tal.

+ Đề xuất một số giải pháp, kiến nghị nhằm bao đảm thực hiện các

nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi một cách nghiêm túc và có hiệu quả

trong thực tế.

<small>- Nhiệm vụ nghiên cứu</small>

Nhiệm vụ của đề tài là nghiên cứu những vấn đề lý luận và nội dung của nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi, nghiên cứu và đánh giá được thực tiễn thực hiện các nguyên tắc này. Trên có sở đó, phát hiện những bất cập, vi phạm các nguyên tắc này trong thực tiễn giải quyết việc nuôi con nuôi dé đề xuất hướng giải quyết và hoàn thiện nhằm bảo

đảm thực hiện các ngun tắc giải quyết việc ni con ni có hiệu quả. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài

- Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu là các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

theo Luật ni con ni và có sự đối chiếu với Cơng ước Lahay năm 1993 và

thực tiễn thực hiện các nguyên tắc này trong q trình giải quyết việc ni

<small>con ni từ khi Luật ni con ni có hiệu lực.- Phạm vi nghiên cứu</small>

Nghiên cứu các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi được quy định

<small>trong Luật nuôi con nuôi 2010, có sự so sánh với quy định của các văn bản</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>08/2006/TT-BTP và Công ước Lahay 1993.</small>

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài

+ Cơ sở phương pháp luận để nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở sắn liền

giữa lý luận và thực tiễn dé làm sáng tỏ van dé.

<small>+ Phương pháp nghiên cứu là phương pháp phân tích, tong hợp, lịch sử,</small>

so sánh, thống kê... 6. Cơ cau luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu với 3 chương như sau:

+ Chương 1. Một số van dé lý luận về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con

+ Chương 2. Nội dung các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo Luật

<small>nuôi con nuôi.</small>

+ Chương 3. Thực tiễn áp dụng các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi và một số kiến nghị nhằm đảm bảo hiệu quả của các nguyên tắc này trong

thực tế.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

GIAI QUYET VIEC NUOI CON NUOI

1.1. Khái niệm nuôi con nuôi và nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

<small>1.1.1. Khải niệm nudi con nuôi</small>

Nuôi con nuôi là hiện tượng xã hội xảy ra ở nhiều quốc gia và được

pháp luật các nước điều chỉnh. Thuật ngữ “nuôi con nuôi” đã xuất hiện từ rất

lâu trên thế giới. Ngay trong bộ luật Hammurabi, một trong những bộ luật

thành văn cô xưa nhất cũng đã chứa đựng những quy định về nuôi con nuôi. Cu thé là mục 106 của Bộ luật này đã quy định “rước khi đàn ơng có thể nuôi dưỡng một đứa trẻ bị bỏ rơi, ông ta phải tim cha me đẻ của nó, nếu tìm thay thì phải trả đứa trẻ cho họ ”. Ở Việt Nam, việc nuôi con nuôi cũng đã ton tại

từ khá sớm. Tuy nhiên, khái niệm về “nuôi con nuôi” thì phải đến Luật

HN-GD năm 2000 mới được quy định và được điều chỉnh lại tại khoản 1 Điều 3

<small>Luật ni con ni. Theo đó, “nudi con ni là việc xác lập quan hệ cha, mevà con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”. Như</small>

vậy có thé hiểu khái niệm ni con ni dưới hai góc độ sau:

<small>* Dưới góc độ xã hội: ni con nuôi là một quan hệ xã hội. Quan hệ</small>

nuôi con ni có thé tồn tại dưới nhiều hình thức như “nuôi con nuôi trên

danh nghĩa”, “nuôi con nuôi thực tế” hay “ni con ni lập tự”... Ví dụ như

<small>“ni con ni trên danh nghĩa” là hình thức ni con nuôi được xác lập dosự thỏa thuận của cha mẹ nuôi và con nuôi đã thành niên hoặc giữa cha mẹnuôi và cha mẹ đẻ của con nuôi chưa thành niên trên cơ sở tình cảm và ước</small>

nguyện gắn bó giữa hai gia đình. Đối với “ni con ni thực tế”, đây là hình

<small>thức ni con ni mà người nhận ni và người được nhận làm con ni đã</small>

sắn bó với nhau, thực hiện quyền và nghĩa vụ của cha mẹ con trên thực tế, đáp ứng các điều kiện của chủ thé nhưng không đăng ký tại cơ quan nhà nước có thâm qun. Như vậy, những hình thức quan hệ này khơng địi hỏi các điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thừa nhận của cơ quan nhà nước có thâm quyền, trong các trường hợp này vẫn xác lập quan hệ nuôi con nuôi, tuy nhiên, hầu như những quan hệ này không được pháp luật điều chỉnh.

Cũng cần phân biệt việc ni con ni với những hình thức ni dưỡng

hiện đang phổ biến trên thực tế hiện nay như việc nuôi dưỡng trẻ em trong nhà

<small>chùa, trong các cơ sở bảo trợ xã hội, trong gia đình tạm ni. Trong những mơi</small>

trường này, trẻ em có thê được chăm sóc đầy đủ về đời sống vật chất cũng như

tinh thần, và trẻ em cũng gọi người ni dưỡng mình là cha, mẹ. Cũng có

<small>trường hợp vì tình nghĩa mà người này gọi người kia là “cha, mẹ nuôi”, các</small>

ngày gid, tết...cũng có mặt với tư cách là một thành viên trong gia đình. Tuy nhiên, tất cả những hình thức này đều không được coi là nuôi con nuôi vì nó

<small>khơng hình thành quan hệ cha, mẹ và con. Ví dụ, người cha, mẹ trong trườnghợp này khơng đương nhiên trở thành người đại diện theo pháp luật của con; họ</small>

khơng có nghĩa vụ phải thương u, chăm sóc cho những trẻ em này, mà điều

này xuất phát từ tính nhân đạo và mang yếu tơ đạo đức là chủ yếu.

<small>* Dưới góc độ pháp lý: việc ni con ni có sự cơng nhận của cơ quan</small>

nhà nước có thẩm quyền và được các quy phạm pháp luật điều chỉnh. Các chủ

thé phải đáp ứng những điều kiện pháp luật quy định. Người được nhận nuôi phải trong một độ tuôi nhất định, người nhận nuôi phải đảm bảo khoảng cách

tuổi chênh lệch phù hợp với người được nhận ni va có khả năng thực tế chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con ni... Bên cạnh đó, các chủ thê phải tuân theo trình tự, thủ tục về việc xác lập quan hệ nuôi con nuôi. Đồng thời,

khi quan hệ nuôi con nuôi được công nhận, các bên sẽ có quyền và nghĩa vụ

theo luật định. Việc khơng thực hiện hoặc thực hiện không đúng các quyền và nghĩa vụ này sẽ phải chịu những chế tài của pháp luật.

<small>So sánh giữa quan hệ cha mẹ nuôi và con nuôi với quan hệ cha mẹ đẻvà con đẻ sẽ thây hai quan hệ này có nhiêu điêm khác nhau. Nêu quan hệ cha</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

quan của cha mẹ nuôi và con nuôi. Nếu như quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa

<small>cha mẹ đẻ và con đẻ phát sinh không phụ thuộc vào hôn nhân của cha mẹ đẻ</small>

là hợp pháp hay khơng hợp pháp thì quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa cha mẹ

<small>nuôi và con nuôi chỉ phát sinh khi quan hệ nuôi con nuôi được pháp luật công</small>

nhận. Khi quan hệ nuôi con nuôi được cơng nhận thì các quyền và nghĩa vụ

giữa cha mẹ nuôi và con nuôi trong quan hệ cha mẹ và con giống như quan hệ

<small>giữa cha mẹ đẻ và con</small>

Từ những phân tích trên đây, có thể hiểu ni con nuôi là “việc xác lập

<small>quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi với đứa trẻ được nhận nuôi phù</small>

hợp với tình cảm và ý chi tự nguyện cua các bên chủ thể mà không gắn với quan hệ huyết thong, trên cơ sở: đó làm phát sinh các quyên và nghĩa vụ pháp

<small>ly trong quan hệ cha me và con giữa hai bên ”.</small>

1.1.2. Khái niệm nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

“Nguyên tắc” được hiểu theo một nghĩa chung nhất, đó là “những điều cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [27, Tr. 672], nó được coi là “cái chuẩn”, là “thước đo”cho một quá trình hoạt động.

Trong khoa học pháp lý cũng vậy, bất cứ một hệ thống pháp luật nào

cũng cần phải được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nước, được dùng để điều chỉnh những quan hệ xã hội, hướng các quan hệ xã hội đi theo một trật tự có lợi nhất cho Nhà nước và xã hội. Ở mỗi quốc gia, Nhà nước trên cơ sở những mục tiêu trước mắt và lâu dài, định hình hướng chỉ đạo việc điều chỉnh pháp luật trong

<small>các lĩnh vực.</small>

Cũng giống như các lĩnh vực khác, Luật nuôi con nuôi được xây dựng trên cơ sở xác định những nguyên tắc cơ bản điều chỉnh lĩnh vực nuôi con nuôi. Nội dung của nguyên tắc thê hiện quan điểm, đường lối, chính sách của

<small>Dang và Nhà nước ta trong điêu chỉnh việc xác lập, thực hiện quan hệ về nuôi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi tại Việt Nam. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con ni có những đặc điểm sau:

- Là hệ thống những nguyên lí chỉ đạo điều chỉnh các khía cạnh khác

nhau trong lĩnh vực nuôi con nuôi, được quy định trong văn bản pháp luật về nuôi con nuôi. Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là một nội dung quan trọng của Luật nuôi con nuôi. Các nguyên tắc có những nội dung riêng, thể

hiện tính độc lập, đồng thời cũng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các quy

định khác tạo nên một thé thống nhất không tách rời.

- Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con ni thể hiện dưới dạng quy <small>phạm pháp luật có tính chỉ đạo, định hướng, qn triệt tồn bộ các quy phạm</small>

pháp luật về nuôi con nuôi. Trong hệ thống các quy phạm pháp Luật ni con

ni, có thê phân chia thành hai nhóm: nhóm quy phạm chung và nhóm quy phạm chuyên biệt. Quy phạm chung không trực tiếp điều chỉnh những quan

hệ cụ thể mà chỉ xác định “nguyên lý chung” cho việc điều chỉnh những quan hệ nuôi con nuôi. Quy phạm chuyên biệt điều chỉnh các van dé cụ thé trong quan hệ nuôi con nuôi, ví dụ như điều chỉnh về thủ tục giới thiệu trẻ làm con

ni người nước ngồi hoặc quy trình tìm gia đình thay thế cho trẻ em...Các

nguyên tắc giải quyết việc ni con ni thuộc nhóm quy phạm chung, có vai

<small>trò định hướng, chỉ đạo các quy phạm chuyên biệt. Ngược lại, các quy phạm</small>

chuyên biệt phải phù hợp, không được trái với các quy phạm chung và nhằm

<small>thực hiện các quy phạm chung.</small>

Từ sự phân tích trên đây, có thé hiểu khái niệm nguyên tắc giải quyết

<small>việc nuôi con nuôi như sau:</small>

“Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là những quan điểm chỉ đạo, thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về việc điều chỉnh

<small>các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực nuôi con ni, có tính định hướng, chỉ</small>

đạo và duoc qn triệt trong toàn bộ các quy phạm pháp luật về nuôi con nuôi cũng như việc thi hành và áp dung pháp luật về nuôi con nuôi trong thực tiên ”.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Thứ nhất, bat cứ một lĩnh vực pháp luật nào cũng cần phải được xây dựng trên cơ sở những tư tưởng chỉ đạo nhất định. Luật nuôi con nuôi cũng

không phải là một ngoại lệ. Việc xây dựng các nguyên tắc giải quyết việc

nuôi con nuôi đảm bảo cho các quy phạm pháp luật cụ thể được xây dựng và

áp dụng thống nhất, tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn và nhằm đạt được mục

đích nhất định.

Thứ hai, trẻ em là một nhóm xã hội non not, dé bị tổn thương, được

toàn thể cộng đồng quốc tế quan tâm và bảo vệ. Một trong những quyền cơ

bản của trẻ em được pháp luật bảo vệ là quyền được song, được cham sóc,

ni dưỡng trong mơi trường gia đình. Những quyền này đã được ghi nhận trong các văn bản pháp luật quốc tế. Cụ thể là ngay trong lời mở đầu của

UDHR; ICCPR và ICESRC đã khang định trẻ em được thừa nhận là chủ thé

bình đăng với người lớn trong việc hưởng tất cả các quyền và tự do cơ bản được ghi nhận trong luật quốc tế về quyền con người. Tuy nhiên, do đặc trưng của trẻ em là còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, bởi vậy, ngay trong UDHR, ICCPR và ICESCR, trẻ em đã được ghi nhận những quyền đặc thù, đặc biệt là quyền được chăm sóc, giáo dưỡng và được bảo vệ đặc biệt. Dựa

trên cách tiếp cận đó, năm 1959, Đại hội đồng Liên Hợp Quốc đã thông qua một văn kiện riêng về quyền trẻ em (Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về quyền

trẻ em). Tuyên bố này là tiền đề để Liên Hợp Quốc xây dựng và thông qua Công ước về quyền trẻ em vào ngày 20/11/1989. Lời nói đầu của Cơng ước

đã ghi nhận rằng: “Trẻ em, do cịn non nớt về thể chất và trí tuệ, cần được bảo

vệ và chăm sóc đặc biệt, kế cả sự bảo vệ thích hợp về mặt pháp lý trước cũng như sau khi ra đời”. Tuy công ước này chỉ dành hai điều ngắn gọn (Điều 20 và Điều 21) để quy định quyền trẻ em khi được cho làm con nuôi nhưng nó đã

xác lập những vấn đề cốt lõi cho chế độ ni con ni trong nước và nước

<small>ngồi trên cơ sở bảo vệ quyên trẻ em. Luật nuôi con ni chính là khung pháp</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

lý cần thiết để Viêt Nam gia nhập Công ước Lahay 1993. Điều này đòi hỏi việc quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi phải phù hợp với yêu cầu của pháp luật quốc tế.

Thứ ba, tại Việt Nam, nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của

việc bảo vệ trẻ em và các quyền của trẻ em, Đảng và Nhà nước ta luôn quan

tâm đến việc chăm sóc, giáo dục và bảo vệ đối tượng đặc thù này. Điều này

được thê hiện rất rõ thông qua các văn bản pháp luật mà Nhà nước đã ban

hành như Hiến pháp, Luật HN-GD năm 2000, Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em năm 2004, Luật Giáo dục năm 2005. Do đó, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi cũng phải bảo đảm phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước về công tác bảo vệ trẻ em, vì lợi ích

tốt nhất của trẻ em. 1.2.2. Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, thực tiễn đất nước ta còn nghèo, hồn cảnh đất nước cịn phải chịu những hậu quả nặng nề của chiến tranh, điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều khó khăn, mức thu nhập của nhân dân cịn thấp nên hiện nay vấn đề ni con nuôi được coi là giải pháp tương đối hiệu quả nhằm đảm bảo việc

<small>chăm sóc trẻ em trong mơi trường gia đình. Bên cạnh ý nghĩa tạo dựng mái</small>

ấm gia đình thay thé cho trẻ em được nhận làm con ni (đa phan là những trẻ

em có hồn cảnh đặc biệt), việc ni con ni cịn góp phần đáp ứng nhu cầu

chính đáng của người nhận con ni, nhất là những cặp vợ chồng hiém muộn,

<small>vô sinh nhưng khao khát được làm cha, làm mẹ; phụ nữ có hồn cảnh khó</small>

khăn, sống đơn thân, khơng có điều kiện sinh nở. Thực trạng này dẫn đến việc

giải quyết nuôi con ni ngày càng nhiều. Do đó, để đảm bảo giải quyết việc nuôi con nuôi được chặt chẽ và đúng đắn thì việc quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi là cần thiết và hợp lý.

Thứ hai, thực tế những năm qua cho thấy, việc nuôi con nuôi đã giải quyết rất tốt quyền và lợi ích của trẻ em, nhiều trẻ sau khi được nhận làm con

<small>ni đã có được cuộc sơng tơt đẹp hơn, được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

<small>trong môi trường hiện đại, van minh va quan trọng là được u thương trongmơi trường gia đình cha mẹ nuôi. Tuy nhiên, những hiện tượng vi phạm các</small>

quyền cơ bản của trẻ em trong lĩnh vực nuôi con nuôi như không đảm bảo cho

trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc, lạm dụng sức lao động của trẻ em, bn bán trẻ em vẫn cịn tồn tại, thậm chí ở một số địa phương cịn

“rộ” lên những trường hợp lợi dụng việc cho trẻ em làm con nuôi dé trục lợi.

Nguyên nhân của những hiện tượng này chủ yếu là do Nhà nước chưa có quy

định cụ thé cũng như chế tài tương ứng đối với các hành vi vi phạm. Chính vì vậy, u cầu phải có các quy định mang tính ngun tắc, qn triệt tồn bộ q trình giải quyết việc cho — nhận con nuôi là cấp thiết nhằm ngăn chặn tinh

<small>trạng trên.</small>

1.3. Quá trình hình thành các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi Ở nước ta, trước khi Luật HN-GD năm 2000 ra đời, công tác quản lý nhà nước về ni con ni chưa được nhìn nhận như một lĩnh vực cơng tác chính thức của Chính phủ, mà chỉ được thực hiện lồng ghép trong chức năng quản lý và đăng ký hộ tịch nói chung. Việc ni con nuôi mới được điều chỉnh trong các văn bản pháp luật bằng các quy phạm riêng lẻ quy định những van đề cụ thé như điều kiện nuôi con ni, quyền và nghĩa vụ của các bên...nhưng chưa có quy định mang tính nguyên tắc chỉ đạo trong lĩnh vực

<small>nuôi con nuôi.</small>

Từ đầu những năm 90 của thế kỷ trước trở lại đây do tác động của hiện tượng ni con ni quốc tế (người nước ngồi xin trẻ em Việt Nam làm con

<small>nuô!), lĩnh vực nuôi con nuôi nói chung được các cơ quan nhà nước và xã hội</small>

quan tâm hơn, việc nuôi con nuôi trong nước cũng tăng lên. Cùng với việc số

lượng trẻ em được nhận làm con nuôi ngày càng nhiều, khung khổ pháp lý về

ni con ni cũng ngày hồn thiện. Cụ thé là Luật HN-GD năm 2000 đã dành hắn chương VIII để quy định về van đề nuôi con nuôi. Tuy nhiên, Luật HN-GD năm 2000 là văn bản điều chỉnh tổng hợp các van đề về quan hệ nuôi

<small>con nuôi như điêu kiện nuôi con nuôi, quyên và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

con nuôi, chấm dứt việc ni con ni...cịn việc điều chỉnh cụ thé lại có các văn bản hướng dẫn, trong đó mỗi văn bản hướng dẫn một van đề như: Nghị định 158/2005/NĐ-CP chỉ quy định về việc đăng ký nuôi con nuôi trong nước; Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP chỉ điều

chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tố nước ngồi; Nghị định 32/2002/NĐ-CP

chỉ có Điều 16, Điều 17 quy định về đăng ký nuôi con nuôi cho các dân tộc thiêu số...Do vậy, pháp luật trong thời kỳ này khơng có những ngun tắc chung cho việc giải quyết nuôi con nuôi. Riêng đối với van đề nuôi con ni

nước ngồi, theo quy định tại Điều 35 Nghị định 68/2002/NĐ-CP được sửa

đổi bởi khoản 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/NĐ-CP thì việc giải quyết cho

<small>người nước ngồi nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi phải tuân thủ các</small>

nguyên tắc sau:

Thứ nhất, “việc cho, nhận trẻ em làm con nuôi chỉ được thực hiện trên

tỉnh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các

quyền cơ bản của trẻ em. Nghiêm cam lợi dụng việc ni con ni dé bóc lột

<small>sức lao động, xâm phạm tình dục, mua bán trẻ em hoặc vì các mục đích khác</small>

khơng phải mục đích ni con nuôi; nghiêm cam lợi dụng việc giới thiệu, giải

quyết, đăng ký cho trẻ em làm con nuôi nhăm mục đích trục lợi, thu lợi vật

chất bất hợp pháp”.

Đây là nguyên tắc rất quan trọng, lần đầu tiên được quy định chính thức trong văn bản pháp luật, thê hiện quan điểm của Nhà nước ta là việc cho nhận

con ni vì mục đích nhân đạo và vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.

<small>Thứ hai, “người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ em</small>

Việt Nam làm con nuôi được xem xét giải quyết, nếu Việt Nam và nước nơi

người xin nhận con nuôi thường trú cùng là thành viên của điều ước quốc tế

hai bên hoặc điều ước quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con nuôi”.

Đây là một quy định mới đã làm thay đổi căn bản trình tự, thủ tục giải quyết việc ni con ni, làm phạm vi người nước ngồi có thể xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi giảm đi rất nhiều. Quy định này đảm bảo tốt hơn

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>lợi ích của trẻ em Việt Nam làm con ni người nước ngồi, vì nó tạo ra cơ sở</small>

pháp lý bảo vệ trẻ em qua các điều ước quốc tế về nuôi con nuôi.

<small>Thứ ba, “người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận trẻ emViệt Nam làm con nuôi, mà nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú và</small> Việt Nam chưa cùng là thành viên của điều ước quốc tế hai bên hoặc điều ước

quốc tế nhiều bên về hợp tác nuôi con ni thì cũng được xem xét giải quyết, nếu người đó thuộc một trong các trường hợp được pháp luật quy định”. Đó là

<small>những trường hợp có thời gian công tác, học tập, làm việc tại Việt Nam từ 06</small> tháng trở lên; có vợ, chồng, cha, mẹ là cơng dân Việt Nam hoặc người gốc <small>Việt Nam; có quan hệ họ hàng, thân thích với trẻ em được xin nhận làm conni hoặc đang có con ni là anh, chi, em ruột của trẻ em được xin nhận lam</small>

con nuôi... và các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định. Như vậy, lần đầu tiên trong hệ thống pháp luật về ni con ni có đặt

ra những nguyên tắc làm cơ sở chỉ đạo việc giải quyết ni con ni có yếu tố

nước ngồi. Tuy nhiên, các nguyên tắc này chỉ điều chỉnh việc nuôi con ni có u tố nước ngồi nên chính điều này lại tạo ra sự tách biệt giữa pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi trong nước và pháp luật điều chỉnh quan hệ ni con ni có yếu tơ nước ngồi. Vơ hình chung điều này đã tạo ra những kẽ hở mà những cá nhân hoặc các cơ sở nuôi dưỡng lợi dụng dé trục lợi.

Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Luật ni con ni đã ra đời. Luật

nuôi con nuôi đã quy định các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi một cách hệ thống, rõ ràng trong một điều luật. Các nguyên tắc này xác lập những

quan điểm hoàn toàn mới trong giải quyết việc nuôi con nuôi so với trước đây

nhằm phù hợp với các yêu cầu của thực tiễn nuôi con nuôi và các văn bản pháp luật về nuôi con nuôi quốc tế. So với các nguyên tắc cơ bản được quy định tại Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định 69/2006/NĐ-CP thì những ngun tắc trong Luật ni con ni có điểm mới khá nỗi bật đó chính là việc đưa thêm vào nguyên tắc “khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyên của trẻ

<small>em được song trong mơi trường gia đình góc” và ngun tac “Chi cho trẻ em</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

làm con nuôi người nước ngồi khi khơng thé tìm được gia đình thay thé ở trong nước ”. Đây là điềm hoàn tồn mới mà chưa có một văn bản pháp luật nào trước đây quy định. Quan điểm này chỉ phối, chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của các cá nhân, cơ quan có thâm qun trong lĩnh vực ni con nuôi.

1.4. Ý nghĩa của các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi

Thứ nhát, đây là cơ sở pháp lý làm nền tang dé các quy phạm pháp luật khác được quy định phù hợp với các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của trẻ em được ni con ni. Những nguyên tac này chi phối đến toàn bộ việc xây dựng các quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh việc nuôi con nuôi, là cơ sở để quy định các quy phạm pháp luật khác như quy định về điều kiện nuôi con nuôi, hệ quả của việc nuôi con

<small>nuôi...Các quy phạm pháp luật trong Luật nuôi con nuôi cũng như trong các</small>

văn ban dưới luật điều chỉnh vấn đề nuôi con nuôi phải nhằm thực hiện và đạt được mục đích mà các nguyên tắc đã dé ra, phải phù hop và không trái với các nguyên tắc. Nói tóm lại, giữa nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi và các quy phạm pháp luật cụ thé có mối quan hệ khang khít với nhau, cùng tác động qua lại với nhau. Các nguyên tắc chi phối đến việc xây dựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi và ngược lại các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc nuôi con nuôi cũng phải phù hợp và không trái với các nguyên tắc.

Thứ hai, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con ni là cơ sở pháp lý dé rà sốt, sửa đôi, bô sung xây dựng các quy phạm pháp luật khác điều chỉnh

<small>VIỆC nuoi con nuôi.</small>

Ngay sau khi Luật ni con ni có hiệu lực thi hành, rất nhiều các văn bản pháp luật dưới Luật được ban hành nhằm quy định chi tiết và hướng dẫn

<small>thực hiện việc nuôi con nuôi. Các quy phạm này được xây dựng hồn tồn</small>

mới hoặc sửa đồi, bơ sung những quy định trước đó khơng phù hợp hoặc trái với Luật ni con ni nói chung và các ngun tắc giải quyết việc ni con

<small>ni nói riêng.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

Thir ba, nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi lần đầu tiên được quy

định một cách hệ thống, rõ ràng, minh bạch đã xác định quan điểm, đường lối

giải quyết của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em cũng như định hướng cách xử sự của các chủ thể có liên quan trong lĩnh vực nuôi con nuôi. Các chủ thê này bao gồm cá nhân (như cha mẹ nuôi, cha mẹ đẻ, người được nhận làm con nuôi), tổ chức (co sở nuôi dưỡng) và cơ quan

<small>Nhà nước trong lĩnh vực nuôi con nuôi (UBND, Sở Tư pháp, Cục Con nuôi —</small>

Bộ Tư pháp...). Tất cả đều phải tuân thủ các nguyên tắc đồng thời không

được lạm dụng quyền hạn, làm sai, làm trai với các quy định của pháp luật về

<small>nuÔi con nuôi.</small>

Thir tư, các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con ni đã ít nhiều làm thay đơi nhận thức, quan điểm, cách giải quyết đối với việc nuôi con nuôi so

<small>với trước đây.</small>

<small>Trước khi Luật nuôi con nuôi ra đời, Việt Nam là một trong những</small>

nước có nhiều trẻ em được nhận làm con ni người nước ngồi. Bởi lẽ, vào

thời điểm đó, quan điểm cho trẻ em làm con nuôi quốc tế sẽ tạo điều kiện cho

trẻ em có cơ hội được tiếp cận với nền văn hóa, giáo dục, y tế hiện đại, văn minh, từ đó đảm bảo cho các cháu được chăm sóc, ni dưỡng tốt hơn. Tuy nhiên, ké từ ngày 01/01/2011 khi Luật ni con ni chính thức có hiệu lực

thi hành, quan điểm này đã hoàn toàn thay đổi. Đảng và Nhà nước ta đã nhận thức rằng khơng có mơi trường nào tốt hơn mơi trường gia đình gốc, khơng có

nơi nào tốt hơn nơi mỗi con người được sinh sống, học tập và lao động trên chính quê hương, đất nước mà mình được sinh ra. Điều này đã được xuyên suốt trong Luật nuôi con nuôi. Cụ thể là, khi giải quyết việc nuôi con nuôi phải tôn trọng quyền sống trong mơi trường gia đình gốc của trẻ em, việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi quốc tế phải là biện pháp cuối cùng khi khơng

tìm được gia đình thay thế ở trong nước. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp

với pháp luật chung của cộng đồng quốc tế.

Thứ năm, các nguyên tac giải quyết việc nuôi con nuôi là cơ sở dé xem

<small>xét, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật vê nuôi con nuôi.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Nguyên tắc giải quyết việc nuôi con ni có giá trị chi phối tới tồn bộ

q trình giải quyết và thực hiện việc ni con ni. Day là cơ sở dé xác định

các chế tài cụ thê đối với từng hành vi vi phạm cụ thé. Vì vậy, nếu chủ thé nào đó có hành vi vi phạm quy định về ni con ni thì sẽ bị xử lý theo pháp luật.

Tht sáu, các nguyên tắc giải quyết việc ni con ni ln gan bó, có sự tác động qua lại với nhau, được thực hiện một cách đồng bộ, thống nhất nhằm bảo đảm một cách tốt nhất quyền và lợi ích cơ bản của trẻ em được làm con nuôi. Cụ thé là, việc thực hiện tốt nguyên tắc thứ nhất “khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc” và nguyên tắc thứ ba “chỉ cho trẻ em làm con ni người nước ngồi khi khơng thé tim được gia đình thay thé ở trong nước” cũng là đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ được nhận làm con ni (nội dung ngun tắc thứ hai). Do đó, những ngun tắc này có vai trị rất quan trọng trong việc điều

<small>chỉnh quan hệ ni con ni, góp phân đảm bảo sự thông nhât và hiệu quả.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

<small>CHƯƠNG 2</small>

NOI DUNG CÁC NGUYEN TAC GIẢI QUYET VIỆC NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI

Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi trong pháp luật Việt Nam được quy định tại Điều 4 Luật nuôi con nuôi, được áp dụng cho cả nuôi con nuôi trong nước và ni con ni có yếu tổ nước ngồi. Các nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi theo quy định của Luật ni con ni đã nội luật hóa các nguyên tắc của Công ước Lahay và phát triển những nguyên tắc đó cho

phù hợp với đặc điểm văn hóa, xã hội và truyền thống gia đình của Việt Nam.

Cu thé như sau:

2.1. “Khi giải quyết việc nuôi con nuôi, cần tôn trọng quyền của trẻ em được sống trong mơi trường gia đình gốc”

Đây là một ngun tắc được thừa nhận chung trong cộng đồng quốc tế.

Điều 3, Tuyên bố của Liên Hợp Quốc về các nguyên tắc pháp lý và xã hội liên quan đến phúc lợi và bảo về trẻ em ghi nhận: “wu tién hàng đâu đối với trẻ em là phải được cha mẹ đẻ chăm sóc”. Lời nói đầu Cơng ước của Liên Hợp quốc về quyền trẻ em tin tưởng rang, “gia đình với tư cách là nhóm xã

hội cơ bản và là môi trường tự nhiên cho sự phát triển và hạnh phúc của tất cả các thành viên gia đình, đặc biệt là trẻ em cần có sự bảo vệ và giúp đỡ cần

thiết có thể đảm đương đầy đủ các trách nhiệm của mình trong cộng đồng”. Lời nói đầu Công ước Lahay năm 1993 nhắc lại rằng “mỗi nước cần phải ưu

tiên tiến hành các biện pháp thích hop dé trẻ em có thé được chăm sóc trong

gia đình gốc của mình”.

Gia đình là một đơn vi trung tâm trong đời sống chính tri, xã hội và tơn

giáo, là “một hình thức cộng đồng xã hội đặc biệt, được hình thành, duy tri va củng cố trên cơ sở hôn nhân và huyết thong hoặc nuôi dưỡng, giáo đục ” [30]. Cịn “gia đình gốc” thì được hiểu theo phạm vi hẹp hơn, đó là gia đình của những người có quan hệ huyết thống (khoản 7 Điều 3 Luật nuôi con nuôi),

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

bao gồm bố, mẹ, ơng, bà, anh, chị em ruột, cơ, dì, chú, bác ruột của trẻ em.

Lời nói đầu của Luật HN-GD năm 2000 đã khang định “Gia đình là tế bào

<small>của xã hội, là cái nôi nuôi dưỡng con người, là mơi trường quan trọng hình</small>

thành và giáo duc nhân cách, góp phan vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Gia đình tot thì xã hội mới tot, xã hội tốt thì gia đình càng tot”; Như vậy, có thé thay vai trị cần thiết của gia đình đối với mỗi cá nhân, đặc biệt là

đối với trẻ em thì gia đình gốc được coi là mơi trường lý tưởng nhất cho sự

phát triển. Do còn non not cả về thé chất lẫn trí tuệ nên việc lớn lên và được chăm sóc, đùm bọc của những thành viên trong gia đình là điều vơ cùng quan

trọng. Điều này giúp cho trẻ em có được sự gần gũi trong cách sống, phong

tục cũng như về tính cách trong cuộc sống hằng ngày. Do vậy, duy trì trẻ em

được sống trong gia đình gốc là việc làm cần được ưu tiên hàng đầu dé bảo

đảm trẻ em được lớn lên trong bầu khơng khí u thương của cha mẹ đẻ.

Trong khi xem xét giải quyết việc nuôi con nuôi, trước hết cần phải chú ý đến

điều này, không được đưa trẻ em ra khỏi mơi trường gia đình gốc trái với ý chí, nguyện vọng và lợi ích tốt nhất của trẻ em.

Mặt khác, xuất phát từ những hạn chế dang cịn tơn tai trong q trình cho và nhận con ni, vẫn cịn tồn tại những vụ môi giới cho trẻ em làm con nuôi người nước ngồi nham trục lợi bat chính, lợi dụng trẻ em như một “món

hàng” đẻ kiếm lời mà khơng quan tâm đến quyên lợi hợp pháp của trẻ. Do đó việc ghi nhận nguyên tắc trên là cần thiết để đảm bảo cho trẻ có được một mơi

trường sống tốt nhất.

Đề bảo đảm thực hiện nguyên tắc này, Luật nuôi con nuôi và Nghị định 19/2011/NĐ-CP đã quy định một số biện pháp đảm bảo trẻ em được cho làm

con nuôi là vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Đó là:

“Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con ni khi con đã được sinh ra ít nhất 15 ngày (Khoản 4 Điều 21 Luật nuôi con nuôi). Sở di pháp luật quy định vấn dé này là dé tránh những trường hợp vừa sinh con ra người cha,

<small>người me do chưa có sự suy nghĩ chín chăn đã quyết định cho con làm con</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

nuôi. Y học và thực tế chứng minh rằng người phụ nữ sau khi sinh con có nhiều sự thay đơi về tâm sinh lý, thậm chí có nhiều người bị tram cảm, vì thé rất có thê họ có những hành động “bột phát”, đặc biệt đối với những người mẹ trẻ đơn thân có con ngồi giá thú, do sự căng thắng, lo lắng hoặc do áp lực cộng thêm với tâm lý sau sinh đã vội vàng quyết định cho con đi làm con ni. Do đó, dé hạn chế những trường hợp này và dé bảo vệ tốt nhất quyền lợi

<small>của trẻ em, pháp luật quy định cha mẹ đẻ của trẻ chỉ được phép cho con làm</small>

con nuôi sau 15 ngày kế từ ngày trẻ được sinh ra.

Trường hợp cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ đồng ý cho trẻ là con ni thì việc đồng ý phải bằng văn ban thông qua biên bản đồng ý cho con làm con nuôi hoặc giấy viết tay tự nguyện cho con làm con nuôi. Pháp

luật quy định, khi lấy ý kiến của những người này, cán bộ tư pháp — hộ tịch

phải tư van để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình gốc. Nếu những người liên quan do chưa nhận thức đầy đủ, chưa hiểu rõ những van đề được tư vẫn hoặc bị ảnh hưởng, tác động bởi yếu tố tâm lý, sức khỏe đã đồng ý cho trẻ em làm con ni nhưng sau đó muốn thay đổi ý kiến thì vẫn có quyền rút lại ý kiến về

việc cho trẻ em làm con nuôi trong thời hạn 15 ngày (đối với việc nuôi con

nuôi trong nước) hoặc 30 ngày (đối với việc nuôi con ni có yếu tố nước ngồi) kế từ ngày được lấy ý kiến (khoản 2, khoản 3 Điều 9 Nghị định

Thực tế công tác giải quyết việc nuôi con nuôi trong thời gian qua cho thấy, có nhiều người mẹ trẻ đơn thân có con ngồi giá thú, vì khơng chịu được

định kiến xã hội đã vội vàng quyết định cho con làm con ni. Sau đó, các thủ

tục liên quan đã được thực hiện thì mẹ đẻ đã thay đôi ý kiến, không muốn cho

con đi làm con nuôi nữa. Đối với những trường hợp này, mặc dù chưa có quy định của pháp luật nhưng Cục Con ni vẫn áp dụng nguyên tắc được thừa nhận chung trong cộng đồng quốc tế, đó là ưu tiên quyền của trẻ em được song trong gia đình gốc. Do đó, Cục đã hướng dẫn các địa phương tiễn hành

<small>các thủ tục cân thiệt đê mẹ đẻ của trẻ em được nhận lại con minh.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Nguyên tắc này cũng được thể hiện rõ nét thông qua quy định về “thứ

tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế” cho trẻ em quy định tại Điều 5 Luật

nuôi con ni. Theo đó, trong trường hợp trẻ khơng được bố, mẹ đẻ chăm sóc, ni dưỡng thì ưu tiên đầu tiên là dành cho những người thân trong gia đình,

những người có quan hệ ni dưỡng hoặc huyết thống với trẻ em như cha

dượng, mẹ kế, cơ, cậu, đì, chú, bác ruột của người được nhận làm con nuôi. Điều này sẽ phần nào giúp các em bù đắp những thiệt thịi khi khơng được sống trong tình thương u của chính cha, mẹ đẻ của mình. Rõ ràng, việc được sống cùng mẹ đẻ và cha dượng hoặc bố đẻ và mẹ kế vẫn tốt hơn rất nhiều so với việc sơng trong mơi trường gia đình khác hồn toàn xa lạ, bởi dù sao hơn ai hết cha đẻ, mẹ đẻ cũng là người gần gũi và hiểu các em nhất vì vậy, việc chăm sóc, ni dưỡng về thê chất cũng như tâm sinh lý cũng thuận tiện và đảm bảo hơn. Cịn nếu các em khơng may mắn khi không được sống

<small>cùng với cả cha đẻ hoặc mẹ đẻ thì việc được chăm sóc bởi những người có</small> mối quan hệ họ hàng ruột thịt như cơ, dì, chú, bác ruột sẽ được ưu tiên tiếp

theo, đây là những người có mối quan hệ họ hàng gần gũi nhất. Tục ngữ có câu “một giọt máu đào hơn ao nước lã” cũng là vì thế.

Đây là những quy định hoàn toàn mới so với pháp luật về nuôi con nuôi trước đây. Điều này nhằm bảo đảm đến mức tối đa cơ hội trẻ em được sống

trong gia đình gốc của mình.

2.2.“Việc ni con ni phải bảo đảm quyền và lợi ich hợp pháp của

<small>người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi, tự nguyện. bình</small>

đẳng, khơng phân biệt nam nữ, khơng trái pháp luật và đạo đức xã hội” 2.2.1. Việc nuôi con ni phải bảo đảm qun và lợi ích hợp pháp của người

<small>được nhận làm con nuôi và người nhận con ni</small>

Trong việc ni con ni, quyền và lợi ích của trẻ em phải được quan tâm, chú ý trước tiên. Điều 21 của Công ước Liên Hợp quốc về quyền trẻ em đã quy định răng, các quốc gia thành viên mà công nhận hoặc cho phép chế

<small>độ nuôi con nuôi phải dam bảo rang những lợi ich tot nhât của trẻ em là môi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

quan tâm cao nhất. Điều 1 Công ước Lahay 1993 cũng quy định rằng, mục đích của Cơng ước là thiết lập những bảo đảm để việc nuôi con nuôi diễn ra vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Sở di, quyền và lợi ích hợp pháp của con ni phải được đặt lên hàng đầu là vì trẻ em được cho làm con ni thường là những trẻ em có hồn cảnh đặc biệt khó khăn như trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em khuyết tật hoặc mắc bệnh hiểm nghèo. Nếu không thuộc những trường hợp

trên thì các em cũng khơng may mắn được sống cùng với cha đẻ, mẹ đẻ nên

được cho làm con ni dé đồn tụ cùng với người thân, do đó, việc cho trẻ em

làm con ni phải vì lợi ích của trẻ, tạo điều kiện giúp cho trẻ em vượt qua khó khăn và thiệt thịi trong cuộc sống để phát triển hài hịa về mọi mặt.

Điều 2 Luật ni con ni quy định về “mục đích ni con ni” cũng đã xác định “việc nuôi con nuôi nhằm xác lập quan hệ cha, mẹ và con lâu dài,

bền vững, vì lợi ích tốt nhất của người được nhận làm con ni...”. Tuy

nhiên, như thế nào là “lợi ích tốt nhất” thì hiện nay khơng có khái niệm nào cụ thé, mặt khác đây là van dé này mang tính định tính nên cũng khơng thé rõ

ràng, định lượng được. Tuy nhiên, căn cứ vào “tinh thần” của pháp luật quốc

tế cũng như pháp luật Việt Nam về bảo vệ chăm sóc trẻ em nói chung và

trong lĩnh vực ni con ni nói riêng thì có thể hiểu răng đảm bảo lợi ích tốt nhất của trẻ em được nhận làm con nuôi là đảm bảo cho con nuôi được ni

dưỡng, chăm sóc, giáo dục trong mơi trường tốt nhất có thé, trong những hồn cảnh, điều kiện như nhau thì phải xem xét, cân nhắc dé làm sao phù hợp nhất với đặc điểm của trẻ, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ thực hiện và được hưởng một cách đầy đủ nhất các quyền của mình. Ví dụ cùng một trẻ bị mồ côi cha

<small>mẹ nhưng lại được gia đình bác ruột và gia đình khác có nguyện vọng nhậntrẻ làm con ni thì như phân tích ở trên, rõ ràng sẽ ưu tiên cho gia đình nhà</small>

bác ruột. Tuy nhiên cũng là trẻ đó nhưng bị mắc bệnh hiểm nghèo có thể chữa trị được đang sống tại cơ sở ni dưỡng, được một gia đình trong nước và

<small>một gia đình người nước ngồi có nguyện vọng nhận ni thì việc cho trẻ emlàm con ni của gia đình nào mới là vì “lợi ích tơt nhât” của trẻ cân phải</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

được xem xét cụ thé. Có phải cứ nhất thiết ưu tiên cho trẻ làm con nuôi trong

nước hay không? Trong trường hợp này phải cân nhắc kỹ lưỡng các điều kiện

và hoàn cảnh của mỗi gia đình. Cụ thé là gia đình nào có điều kiện kinh tế khá hơn, quốc gia nào có trình độ y học phát triển hơn để trẻ có thé tiếp cận và được chữa trị bệnh tật... Tất cả các yếu tơ này phải được tính toán cân than dé đảm bao tốt nhất quyền va lợi ích của trẻ.

Lợi ích tốt nhất của trẻ em địi hỏi các cơ quan có thâm quyền phải cân

nhắc kỹ lưỡng mọi khả năng nuôi dưỡng trẻ em để có quyết định phù hợp nhất. Về nguyên tắc trẻ em phải được ưu tiên sống trong gia đình gốc. Trường hợp trẻ em không được nuôi dưỡng trong môi trường gia đình gốc thì phải thu xếp cho trẻ em làm con nuôi trong nước và cuối cùng mới cho làm con ni nước ngồi. Điều này thể hiện rất rõ qua “thứ tự ưu tiên lựa chọn gia đình thay thế”. Như trên đã phân tích, ưu tiên đầu tiên là những người thân trong

gia đình, là cha dượng, mẹ kế, cơ, dì, chú, bác ruột rồi sau đó mới đến cơng

<small>dân Việt Nam ở trong nước. Những người nước ngoài thường trú ở Việt Namsẽ được ưu tiên hơn so với công dân Việt Nam định cư ở nước ngồi, vì dù</small>

sao người nước ngồi thường trú ở Việt Nam vẫn ở trong lãnh thổ Việt Nam, trẻ vẫn được tiếp xúc với con người, phong tục tập qn, ngơn ngữ... Việt Nam, có điều kiện để duy trì bản sắc của mình. Đối với trường hợp cơng dân Việt Nam định cư ở nước ngồi thì đây là mơi trường hồn tồn khác cả về

ngơn ngữ, phong tục tập quán lẫn con người. Thứ tự cuối cùng là người nước

ngoài thường trú ở nước ngoài. Rõ ràng, đây là những con người, quốc gia

<small>hoàn toàn khác biệt với các em, việc hịa nhập cũng khó khăn hơn nên việc</small>

cho trẻ em làm con nuôi trong trường hợp này phải là biện pháp cuối cùng.

Ngoài ra, pháp Luật ni con ni cịn có nhiều quy định khác nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi như: bảo đảm quyền được biết về nguồn gốc của trẻ (Điều 11 Luật nuôi con nuôi), quy định về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi (Điều 24 Luật nuôi con ni) và u cầu thơng báo tình hình phát triển của con nuôi (Điều 39 Luật

<small>nuôi con nuôi).</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Theo đó, con ni có quyền được biết về nguồn gốc của mình, khơng ai được cản trở con ni được biết về nguồn gốc của mình. Đây là một quyền rất cơ bản và đương nhiên của trẻ em. Thực tiễn làm công tác tiếp nhận và thâm định hồ sơ của người nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi cho thay, trong các báo cáo điều tra tâm lý, gia đình thì cha mẹ nuôi đều thé hiện sự sẵn sàng cho con nuôi biết về nguồn gốc của mình, họ sẵn sàng giải đáp những câu hỏi liên quan đến nguồn gốc, lịch sử trong trường hợp người con nuôi đặt ra với họ. Mặt khác, Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp hiện nay đã tiếp

nhận một số trường hợp trẻ được nhận làm con ni người nước ngoai muốn

tìm về cội nguồn. Nhận thức được van dé này sẽ trở nên phô biến trong thời gian tới, Cục Con nuôi đã có ý tưởng thực hiện chương trình tìm về cội

nguồn. Mặc dù mới chỉ đang trong giai đoạn ý tưởng, nhưng có thê thấy được

sự quan tâm của Nhà nước đối với vấn đề này nhằm bảo đảm tốt nhất quyền

<small>lợi của người được nhận làm con nuôi.</small>

Về hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi, Luật nuôi con nuôi đã chú

trọng điều chỉnh cụ thé hơn về mỗi quan hệ ba bên chủ thê, đó là mối quan hệ

<small>giữa cha mẹ nuôi và con nuôi, giữa cha mẹ đẻ và con nuôi, giữa cha mẹ nuôi</small> và cha mẹ đẻ. Đặc biệt là, trong mối quan hệ giữa cha mẹ ni và con ni thì

con ni có sự sắn bó chặt chẽ hơn về quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi, cụ thê là “Kể tir ngày giao nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con ni có day đủ các qun, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ ni cũng có các quyền, nghĩa vụ đối với nhau theo quy định của pháp luật về hơn nhân và gia đình, pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Mỗi quan hệ này có sự kế thừa Điều 74 Luật HN-GD năm 2000. Theo đó, ké từ thời điểm đăng ký nuôi con nuôi, cha mẹ ni sẽ có các quyền và nghĩa vụ đối với con như chăm sóc, ni dưỡng

giáo dục con, là người đại diện theo pháp luật cho con chưa thành niên, mất

năng lực hành vi dân sự, con nuôi cũng phải có bổn phận u q, kính trọng,

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>chăm sóc cha mẹ nudi...Bén cạnh đó, Luật ni con nuôi cũng quy định thêm</small>

về mối quan hệ pháp lý giữa con nuôi và các thành viên khác của gia đình cha

<small>mẹ ni. Khi trở thành thành viên trong gia đình cha mẹ ni, con ni sẽ có</small>

mỗi quan hệ gan bó, chặt chẽ, có các quyền, nghĩa vụ với các thành viên khác

trong gia đình cha mẹ ni như con đẻ. Quy định này là hợp lý nhằm đảm bảo

cho con ni có thể hịa nhập một cách tốt nhất vào gia đình cha mẹ ni. Về u cầu thơng báo tình hình phát triển của con ni: hiện nay Luật nuôi con nuôi quy định sáu tháng một lần trong thời hạn 03 năm, kê từ ngày

<small>giao nhận con ni, cha mẹ ni có trách nhiệm thơng báo cho Bộ Tư pháp và</small>

Cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước nơi con ni thường trú về tình trạng sức khỏe, thé chất, tinh thần, sự hòa nhập của con ni với cha mẹ ni, gia

đình, cộng đồng. Việc quy định cha mẹ ni có trách nhiệm báo cáo tình hình

phát triển của con ni nhằm quản lý, kiểm tra, theo dõi sau khi trẻ được nhận

làm con nuôi, đánh giá kết quả việc cho nhận con nuôi. Qua đó, giúp cho cha

<small>mẹ ni nhận thức được nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong việc nidưỡng, chăm sóc con nuôi theo quy định của pháp luật, ngăn chặn những</small>

hành vi vi phạm pháp luật đối với con nuôi (ngược đãi trẻ em, lạm dụng trẻ

<small>em...) và bảo đảm cho trẻ em được nhận làm con nuôi được nuôi dưỡng, chăm</small>

sóc, giáo dục tốt nhất trong mơi trường gia đình thay thế. Quy định này cũng gop phan tăng cường trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em nhất là trẻ em có hồn cảnh đặc biệt.

Quyền và lợi ích hợp pháp của con ni phải được quan tâm hàng đầu

nhưng không phải là duy nhất. Do vậy, Luật vừa đảm bảo quyền và lợi ích

hợp pháp của con nuôi, vừa phải đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ ni. Chỉ khi được pháp luật bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của mình

thì cha mẹ ni mới có thê yén tâm thực hiên đầy đủ trách nhiệm làm cha mẹ

đối với con ni, và chính khi đó quyền và lợi ích của con ni mới được bảo đảm một cách đầy đủ. Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cha mẹ ni

<small>sẽ có tác dụng:</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Tứ nhất, thiết lập môi quan hệ bền vững, lâu dai và ôn định giữa cha mẹ nuôi với con nuôi. Điều này cũng phù hợp với mục đích của việc ni con ni cũng như đảm bảo được quyền và lợi ích cho con ni.

Thứ hai, góp phần củng cố, phát triển những tinh cảm nhân ái tốt đẹp,

<small>u thương đùm bọc trẻ em có hồn cảnh khó khăn. Qua đó thực hiện được</small>

chính sách “khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có

hồn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi” của Nhà nước ta, tạo nên sự 6n định, bền vững, lành mạnh cho xã hội.

Một nguyên tắc chung được thừa nhận trong pháp luật quốc tế là “tìm

<small>một gia đình cho trẻ em” chứ khơng phải là tìm trẻ em cho gia đình. Tuy</small>

nhiên việc bảo đảm quyền và lợi ích cho cha mẹ ni là cần thiết nhằm duy trì mỗi quan hệ ni con ni bởi nếu chỉ có “con ni” thì mối quan hệ này

cũng khơng thé được hình thành. Do đó, quyền và lợi ích hợp pháp của cha

mẹ nuôi cũng cần được bảo đảm trong mối tương quan giữa quyền và lợi ích

<small>hợp pháp của con nuôi.</small>

So với quy định tại khoản 1 Điều 35 Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định về nguyên tắc giải quyết việc nuôi con nuôi “việc cho nhận trẻ em làm con nuôi chi được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, nhằm bảo đảm lợi ích tốt nhất cho trẻ em và tôn trọng các quyền cơ bản của trẻ em” thì rõ ràng nguyên tắc trên của Luật nuôi con nuôi là một điểm mới và đầy đủ hơn rất nhiều.

Nguyên tắc “việc nuôi con nuôi phải bảo đảm quyên và lợi ích hợp pháp của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi” được thể

hiện rất rõ thông qua quy định về chấm dứt việc ni con ni. Theo đó, bên

cạnh sự tự nguyện chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi giữa cha mẹ ni và con

ni thì trong trường hợp một trong hai bên có những hành vi xâm phạm đến

tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của bên kia thì để bảo vệ quyền và

lợi ích của mình, bên bị xâm phạm có quyền u cầu Tịa án chấm dứt việc

<small>niI con ni.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

Liên quan đến căn cứ cham dứt việc nuôi con nuôi, một van đề đặt ra là

có những hành vi quy định tại Điều 13 có thể là căn cứ hủy việc ni con

ni, vi dụ như căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 13 “Lợi dụng việc nuôi con nuôi dé trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm hại tinh duc; bắt cóc, mua bán trẻ em hoặc căn cứ tại khoản 4 “Loi dụng việc cho con nuôi để vi phạm pháp luật về dân số”. Day là những trường hop vi phạm quy định về nuôi con

<small>nuôi ngay từ giai đoạn xác lập quan hệ ni con ni, vì vậy, các trường</small>

hợp này cần được coi là những căn cứ để hủy việc nuôi con nuôi. Tuy

nhiên, Luật nuôi con ni lại khơng có quy định nào về van dé này, mặc dù trên thực tế xảy ra không ít các trường hợp vi phạm trên. Đây là một điểm

hạn chế cần sửa đồi trong Luật nuôi con nuôi.

Cũng liên quan đến vấn đề này, hiện nay có một số trường hợp xảy

ra trên thực tiễn như: người nhận con nuôi hoặc trẻ em được nhận làm con nuôi không đủ điều kiện đăng ký nuôi con nuôi nhưng vẫn được cơ quan

có thâm quyền đăng ký hoặc cha mẹ nuôi già yếu không thé tiếp tục nuôi con ni, cha mẹ ni khơng cịn đủ điều kiện về kinh tế để nuôi con nuôi hoặc cha mẹ nuôi ly hơn... Do khơng có quy định cụ thể nên dẫn đến tình trạng có địa phương áp dụng quy định chung về việc thu hồi và hủy quyết

định hành chính, có địa phương khơng áp dụng quy định này và yêu cầu tòa án giải quyết, tòa án lại bác đơn vì khơng có căn cứ để chấm dứt quan hệ nuôi con nuôi theo quy định tại Điều 25 Luật nuôi con nuôi.

<small>Tương tự như việc nuôi con ni trong nước, viéc ni con ni</small>

nước ngồi cũng xảy ra một số hiện tượng như cha mẹ nuôi không đến nhận con nuôi khi quá thời hạn luật định (khoản 2 Điều 37 Luật nuôi con

nuôi), cha mẹ nuôi đột nhiên mắc bệnh hiểm nghèo, ngay sau khi nhận

bàn giao con nuôi, không thể tiếp tục nuôi dưỡng con nuôi, hoặc trường hợp trẻ em mắc bệnh quá nặng, cha mẹ ni đã nhận bàn giao nhưng tình

trạng bệnh tật của trẻ em tiến triển đến mức không thể sống được trong

mơi trường gia đình mà địi hỏi phải thường xuyên điều trị tại bệnh viện,

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

<small>hoặc khơng dam bao an tồn tinh mạng trên đường đưa trẻ em ra nước</small>

ngoài" trong khi trẻ em chưa xuất cảnh Việt Nam. Những trường hợp này

trên thực tế đã phát sinh nhưng do chưa có quy định cụ thể nên các địa

phương cịn lúng túng khơng biết thực hiện thế nào.

2.2.2. Việc nuôi con nuôi phải được thực hiện tự nguyện, bình đăng, khơng <small>phân biệt nam nữ</small>

* “Tự nguyện” được hiểu là tự mình muốn làm, khơng phải bị thúc ép,

bắt buộc [28, tr.118]. Như vậy, tự nguyện trong lĩnh vực nuôi con nuôi được

hiểu rằng mọi quyết định liên quan đến việc nuôi con nuôi như quyết định nhận con nuôi (của cha mẹ nuôi), quyết định cho con nuôi (của cha đẻ, mẹ đẻ

hoặc người giám hộ) hay quyết định làm con nuôi (của trẻ em được nhận làm

con ni) phải hồn tồn xuất phát từ ý chí của các chủ thể đó mà khơng bị

tác động bởi bat cứ yếu tố nào, trên cơ sở vì lợi ích tốt nhất của trẻ. Ni con

ni là vấn đề nhạy cảm, hệ trọng liên quan đến số phận của những trẻ em có

hồn cảnh thiệt thịi phải sống xa gia đình, quê hương, đất nước nơi mình sinh ra. Vì vậy, nêu thiếu di sự nguyện thì sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của trẻ em.

Thậm chí có những trường hợp, sự thiếu đi tính “tự nguyện” lại trở thành tiền

đề của nạn buôn bán trẻ em - một hành vi vi phạm pháp luật rất đáng lên án. Đây cũng là nguyên tắc được thừa nhận trong Công ước Lahay. Điều 4 Công ước Lahay quy định rằng, những cá nhân, tổ chức, các cơ quan có thâm quyền mà việc cho con ni cần có sự đồng ý của họ thì họ phải đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện. Đây là sự đồng ý vô điều kiện, không kèm theo

bat kỳ một khoản tiền hay bồi thường nao, không bị ảnh hưởng bởi bat kỳ tác

động nào (như do lừa dối, xuyên tạc, cưỡng ép, gây ảnh hưởng thái quá hoặc do hiểu nhằm).

<small>! Năm 1982, Hiệp hội vận chuyên hàng không Mỹ (ATAA) và Hiệp hội y học Mỹ (AMA) đã thống</small>

<small>nhất danh sách các bệnh tật mà người mắc không được phép hoặc nên hạn chế đi trên các chuyến</small>

<small>bay thương mại (chứ không phải các chuyến bay y tế). Vì vậy, Có những trường hợp trẻ em bị bệnh</small>

<small>tim rat nặng không thé đảm bảo sức khỏe dé ngồi trên máy bay mấy chục giờ đồng hồ đi cùng cha</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

Dé bao đảm các chủ thé đưa ra sự đồng ý một cách tự nguyện, Công ước đã quy định những người này phải được tham khảo ý kiến ở mức độ cần thiết và đã được thông báo kỹ lưỡng về hệ quả mà sự đồng ý của họ có thể đem lại, đặc biệt là việc ni con ni cịn giữ hay cắt đứt mối quan hệ pháp lý giữa trẻ em và gia đình gốc. Việc ni con ni chỉ có thể được thực hiện một cách thật sự tự nguyện khi các chủ thể có liên quan nhận thức, hiểu rõ tác

<small>động, hệ quả pháp lý của việc nuôi con nuôi.</small>

Các nước gốc phải có nghĩa vụ bảo đảm việc đưa ra ý kiến đồng ý cần

thiết không bị phụ thuộc vào yếu tô ép buộc, dụ dỗ, hoặc được hứa hẹn trả

tiền để có được ý kiến đồng ý đó. Đề bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đó, một số nước gốc đã có những quy định cam việc dụ dé trong việc cho nhận con nuôi; rất nhiều nước đã có chế tài hình sự và dân sự để loại bỏ những biểu hiện mang tính chất trục lợi làm ảnh hưởng trực tiếp đến sự tự nguyện của các chủ thé; cho phép các cơ quan công quyên tiến hành điều tra những người có can

<small>dự vào việc buôn bán trẻ em.</small>

Thừa nhận nguyên tắc này, Luật nuôi con nuôi cũng đã ghi nhận “tự

nguyện” là một trong những nguyên tắc cơ bản trong quá trình giải quyết việc

nuôi con nuôi. Điều này được thê hiện rõ nhất tại khoản 3 Điều 21 Luật nuôi con

nuôi. Cụ thé là sự đồng ý cho làm con ni “phdi hồn fồn tự nguyện, trung

<small>thực, khơng bị ép buộc, khơng bị de doa hay mua chuộc, không vụ lợi, không</small>

kèm theo yêu câu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác”. Theo đó, việc cha me đẻ hoặc người giám hộ của người được nhận làm con nuôi đồng ý cho con làm con

ni phải hồn tồn xuất phát từ ý chí chủ quan của mình, xem xét đó là quyết

định phù hợp với hoàn cảnh khách quan của mỗi bên, là một nhu cầu cần thực

hiện vì lợi ích của trẻ. Còn đối với trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên, việc quyết định

làm con nuôi của người khác phải hoàn toàn xuất phát từ mong muốn, nguyện

vọng của các em mà khơng được có bat kỳ su dụ dỗ, ép buộc nào.

Mặt khác, khoản 3 Điều 36 Luật ni con ni khơng cho phép có bất

<small>ky sự tiêp xúc nào giữa người nhận con nuôi với cha mẹ, người giám hộ hoặc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trước khi nhận được thông báo giới thiệu trẻ em lam</small>

con nuôi. Quy định này để tránh xảy ra những trường hợp mua chuộc giữa

<small>người nhận con nuôi với cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ sở ni dưỡng trẻ</small>

em. Trước đây, khi mà chủ thể có chức năng giới thiệu trẻ không phải là Sở

<small>Tư pháp địa phương theo như quy định của pháp Luật nuôi con ni mà là cơsở ni dưỡng và quy trình giới thiệu trẻ cũng không nghiêm ngặt, chặt chẽ</small> như hiện nay thì tình trạng mua chuộc, cị moi giữa người nhận con nuôi hoặc <small>người môi giới với cha mẹ, người giám hộ hoặc cơ sở nuôi dưỡng xảy ra</small>

tương đối nhiều. Có những trường hợp, cơ sở ni dưỡng đã đồng ý giới thiệu trẻ cho một tổ chức con ni nước ngồi nhưng sau đó vì có những tác động về vật chất mà trung tâm đã từ chối giới thiệu trẻ cho tổ chức ban đầu để giới

thiệu cho một tổ chức con ni nước ngồi khác. Đây chỉ là một trong số

những ví dụ cho thấy tác động không tốt của việc tiếp xúc ban đầu giữa

những chủ thé có liên quan đến quyết định cho trẻ em làm con ni. Do đó

quy định trên là hoàn toàn cần thiết và hợp lý.

Đồng thời, Nghị định 19/2011/NĐ-CP cũng hướng dẫn cụ thé thủ tục

lấy ý kiến của những người liên quan để bảo đảm thực hiện nguyên tắc tự

nguyện. Đó là trước khi đưa ra sự đồng ý, những người liên quan phải được

người lấy ý kiến thơng báo, tư vấn đầy đủ mục đích của việc nuôi con nuôi,

quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ ni va con sau khi người đó được nhận làm con nuôi. Sau khi đã được tư vấn day đủ thì ý kiến đồng ý đối với việc cho

<small>làm con ni của những người liên quan phải hồn tồn tự nguyện, trungthực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không</small>

kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác.

Đảm bảo thực hiện nguyên tắc này đòi hỏi trách nhiệm, sự hiểu biết

trình độ của cán bộ tư pháp - hộ tich thuộc UBND cấp xã và Sở Tư pháp được đào tạo, bồi dưỡng dé đáp ứng được công việc. Bởi lẽ, theo pháp luật về nuôi

con nuôi hiện nay thì đối với việc ni con ni trong nước, trường hợp trẻ

em có cha mẹ đẻ thì cán bộ Tư pháp - hộ tịch phải trực tiếp lấy ý kiến của cha

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

mẹ đẻ về việc cho trẻ em làm con nuôi, nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết, mất

tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng xác định được thì phải được sự

đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mat tích, mat năng

lực hành vi dân sự hoặc khơng xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Trường hợp trẻ em từ 9 tuổi trở lên thì cịn phải lấy ý kiến của

trẻ em về việc nuôi con nuôi.

Khi lay ý kiến của những người liên quan theo quy định tại Điều 20 và

Điều 21 của Luật nuôi con nuôi, công chức tư pháp - hộ tịch phải tư van dé trẻ em tiếp tục được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình. Trường hợp cho trẻ em làm con ni là giải pháp cuối cùng vì lợi ích tốt nhất của trẻ em, thì cơng chức tư pháp - hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người liên quan về mục đích ni con ni; quyền và nghĩa vụ phát sinh giữa cha mẹ nuôi và con nuôi sau khi đăng ký nuôi con nuôi; về việc cha mẹ đẻ sẽ khơng cịn các qun, nghĩa vụ đối với con theo quy định tại khoản 4 Điều 24 của Luật nuôi con nuôi, nếu cha mẹ đẻ và cha mẹ ni khơng có thỏa thuận khác. Cịn đối với việc ni con ni

nước ngồi thì trách nhiệm này thuộc về Sở Tư pháp. Theo đó, Sở Tư pháp

kiểm tra hồ sơ và cử cán bộ trực tiếp lấy ý kiến của những người liên quan về việc cho trẻ em làm con ni ở nước ngồi. Việc kiêm tra hồ sơ và lay ý kiến cũng phải bảo đảm các yêu cầu trên.

Việc “lấy ý kiến của những người liên quan về việc cho trẻ em làm con

<small>nuôi” là quy định mới của các văn bản pháp Luật nuôi con nuôi hiện hành.</small>

Các văn bản trước đây chỉ quy định về những người có quyền ký giấy đồng ý cho trẻ em làm con nuôi, mà không quy định về việc tư vấn đối với sự đồng ý, các yêu cầu đối với sự đồng ý, thời hạn được rút lại ý kiến đồng ý. Những quy định trên một mặt tránh việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi thực hiện phiến diện, quan liêu, mặt khác nâng cao trách nhiệm của chính quyền địa phương trước yêu cầu giải quyết việc nuôi con nuôi của người dân, bảo đảm việc nuôi con nuôi là biện pháp thay thế vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Có thể nói sự tự

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

nguyện trong việc nuôi con nuôi là yếu t6 quan trọng nhất, anh hưởng trực

tiếp đến thân phận của trẻ em được nhận làm con nuôi. Sự tự nguyện của

<small>người nhận con nuôi, của người cho con nuôi và của chính bản thân trẻ em</small>

được nhận làm con ni (khi ở độ tuổi nhất định) sẽ quyết định việc nuôi con

ni có đúng với bản chất của nó hay khơng. Nếu thiếu đi sự tự nguyện của một trong ba chủ thể này thì việc ni con ni khi đó chỉ là “vỏ bọc” cho

<small>những hành vi phi pháp khác như bóc lột sức lao động, xâm hại tình dục, trục</small>

lợi bất chính, bn bán trẻ em...

* Việc ni con ni phải đảm bảo sự bình đăng. Điều này thể hiện ở

nhiều khía cạnh:

- Xét về giới tính, việc ni con nuôi không phân biệt giữa người nhận

<small>nuôi là nam hay nữ, không phân biệt trẻ em được nhận nuôi là trai hay gái.</small>

Nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật đối với người nhận con nuôi hay đối với người được cho làm con nuôi thi dù nam hay nữ đều có cơ hội

<small>như nhau.</small>

- Về điều kiện nuôi con nuôi: Luật nuôi con nuôi quy định về điều kiện

<small>của người được nhận làm con nuôi và người nhận con nuôi giữa nuôi con nuôi</small>

trong nước và ni con ni có yếu tố nước ngồi là như nhau. Điều này nhằm bảo đảm sự bình dang, khơng phân biệt cơ hội trẻ em được làm con

<small>nuôi trong nước hay làm con ni ở nước ngồi cũng như người nhận con</small>

nuôi là công dân Việt Nam hay người nước ngoài. Cụ thể là:

Đối với người được nhận lam con nuôi:

Theo quy định của pháp luật trước đây, nếu trẻ em được cho làm con ni nước ngồi, thì bên cạnh việc đáp ứng những điều kiện của nuôi con

ni trong nước cịn phải đáp ứng một số điều kiện khác (quy định tại Điều 36

Nghị định 68/2002/NĐ-CP được sửa đổi, bố sung bằng mục 8 Điều 1 Nghị định 69/2006/NĐ-CP). Hiện nay, Điều 8 Luật nuôi con nuôi đã thống nhất các điều kiện của người được nhận làm con ni trong nước và nước ngồi. Theo

<small>đó, về nguyên tac, người được nhận làm con nuôi phải là trẻ em dưới 16 tuôi.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

Trường hợp trẻ em được cha dượng, me kế hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột

nhận làm con ni thì dưới 18 tuôi. Đây là sự khác biệt duy nhất của Luật

<small>Việt Nam so với Cơng ước Lahay vì Cơng ước Lahay quy định việc nuôi con</small>

nuôi được áp dụng đối với trẻ em dươi 18 tuổi mà khơng có sự phân biệt trong các độ tuổi với nhau. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Ủy ban thường trực công ước Lahay thì quy định của Cơng ước chỉ nhăm mục đích xác định phạm vi áp dụng của Công ước, không cô ý tạo lập độ tuổi của trẻ em được

<small>nhận làm con nuôi. Khả năng trẻ em được cho làm con nuôi cũng như các</small>

điều kiện cụ thể là do pháp luật của nước gốc quy định. Nếu pháp luật của nước gốc cho trẻ em làm con nuôi ở độ tudi thấp hơn thì cũng khơng trái với

<small>quy định của Công ước.</small>

Đối với người nhận nuôi con nuồi:

<small>+ Trường hợp người Việt Nam nhận trẻ em trong nước làm con ni thì</small>

dù là nam hay nữ cơ hội nhận con nuôi của họ là như nhau nếu đáp ứng được các điều kiện về kinh tế, sức khỏe, tư cách đạo đức cũng như độ tuôi chênh lệch phù hợp với con nuôi. Cụ thể là theo quy định tại Điều 14 Luật ni con

ni thì người nhận con ni phải có đủ các điều kiện: có năng lực hành vi

dân sự đầy đủ; hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên; có điều kiện về sức khỏe, kinh tế, chỗ ở bảo đảm việc chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con ni; có tư cách đạo đức tốt (có một ngoại lệ là đối với trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con ni hoặc cơ, cậu, dì, chú,

bác ruột nhận cháu làm con ni thì khơng áp dụng các điều kiện về độ tuổi

chênh lệch và điều kiện về kinh tế, sức khỏe). Điều này được thể hiện rất rõ thông qua các quy định về hồ sơ của người nhận con nuôi (Điều 17 Luật nuôi

<small>con ni). Bên cạnh đó người nhận ni con ni khơng thuộc các trường</small>

hợp: đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên;

đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; đang chấp hành hình phạt tù hoặc chưa được xóa án tích về một trong <small>các tội cơ ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phâm, danh dự của người</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

khác; ngược đãi hoặc hành ha ông ba, cha mẹ, vo chồng, con, cháu, người có

cơng ni dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thành niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em.

Còn nếu trường hợp là cặp vợ chồng muốn nhận trẻ em làm con ni thì phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Nếu thiếu sự đồng ý của một trong hai bên thì việc nhận con nuôi cũng không thể thực hiện được.

+ Trường hợp ni con ni có u tố nước ngồi cũng áp dung thống nhất các điều kiện đối với người nhận nuôi như quy định tại Điều 14 Luật nuôi con ni. Ngồi ra, đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người

<small>nước ngoài thường trú ở nước ngoài còn phải tuân theo quy định của pháp</small>

luật nước nơi người đó thường trú. Đối với cơng dân Việt Nam nhận người

<small>nước ngồi làm con ni thì phải tn theo pháp luật của nước nơi ngườiđược nhận làm con nuôi thường trú.</small>

Sự “bình dang” khơng chỉ thé hiện ở khía cạnh về giới tính, về điều kiện ni con ni mà nó cịn thé hiện ở việc “bình dang về ý chí”. Do là:

+ Đối với người nhận con ni: trong trường hợp một cặp vợ chồng

muốn nhận trẻ em làm con ni thì phải được sự đồng ý của cả hai vợ chồng. Điều này được thê hiện rõ ở phần khai các thông tin của hai vợ chồng trong

“don xin nhận con nuôi”. Nêu thiêu sự đồng ý của một trong hai bên thì việc nhận con ni cũng không thể thực hiện được. Như vậy, ở đây sự “tự nguyện”

gan liền với yêu tố “bình dang”.

+ Đối với cha mẹ đẻ của trẻ: trường hợp trẻ đang sống tại gia đình cùng với cha mẹ đẻ thì việc cho con làm con nuôi phải được sự đồng ý của cả cha đẻ và mẹ đẻ. Sự đồng ý này thê hiện thông qua “biên bản đồng ý cho con làm con nuôi” hoặc “giấy đồng ý cho con làm con nuôi”. Nếu chỉ xuất phát từ ý chí của một bên hoặc thiếu sự thé hiện ý chí của một bên thì trường hợp này

việc cho nhận con ni cũng khơng thé thực hiện được.

Ngồi ra, xét về quyền và lợi ích hợp pháp thì con ni hay con đẻ đều có quyền và nghĩa vụ bình đắng như nhau, cha mẹ nuôi không được phân biệt

<small>giữa con đẻ và con nuôi.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

<small>2.2.3. Việc nuôi con nuôi không trái pháp luật và đạo đức xã hội</small>

<small>Việc nuôi con nuôi phải phù hợp với các quy định của pháp luật như</small>

không được lợi dụng việc ni con ni để trục lợi, bóc lột sức lao động, xâm

hại tình dục; bắt cóc, mua bán trẻ em; lợi dụng việc cho con nuôi dé vi phạm

pháp luật về dân số; lợi dụng việc làm con nuôi của thương binh, người có cơng với cách mạng, người thuộc dân tộc thiêu số dé hưởng chế độ, chính sách

<small>ưu đãi của Nha nước...Những hành vi này trong lĩnh vực nuôi con nuôi bị quy</small>

định là hành vi bị cắm. Nếu vi phạm sẽ bị xử ly theo pháp luật. Cụ thé là theo quy định của Nghị định 110/2013/NĐ-CP thì phạt tiền từ 01-03 triệu đồng đối

với một trong các hành vi: cho, nhận con nuôi khi cơ quan Nha nước có thâm

quyền đã có văn bản khơng chấp nhận việc cho, nhận con nuôi; sử dụng giấy tờ giả dé làm thủ tục đăng ký cho, nhận con nuôi. Đối với hành vi lợi dụng việc cho con ni dé vi pham phap luat về dân số thì sẽ bi phạt tiền từ 03-05 triệu

đồng. Phạt tiền từ 05-10 triệu đồng đối với một trong các hành vi: du dỗ, mua

chuộc, ép buộc, đe doa dé có sự đồng ý của người có quyền đồng ý cho trẻ em

<small>làm con nuôi; làm dịch vụ môi giới cho hoặc nhận con nuôi.</small>

Việc nuôi con nuôi phải phù hợp với đạo đức, với thuần phong mỹ tục, truyền thong văn hóa tốt đẹp của dân tộc: Ni con ni là van đề mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, tuy nhiên không phải trường hợp nào pháp luật

cũng thừa nhận mối quan hệ này. Ví dụ, việc ni con ni giữa những người có quan hệ huyết thống khơng được pháp luật cho phép, bởi lẽ điều này sẽ dẫn

đến làm đảo lộn trật tự ngôi thứ trong gia đình, khơng phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo lý của người Việt Nam. Chang hạn, nếu pháp luật cho phép một

<small>người cháu được làm con nuôi của ông, bà (nội, ngoại) thì pháp luật sẽ phảithừa nhận ơng bà là cha mẹ nuôi, người cháu sẽ trở thành con nuôi, và như vậy</small>

người cháu sẽ ngang hàng với các con đẻ của ông bà, tức là “con bằng vai bố mẹ”. Hoặc những người đang là anh chị đối với nhau mà được pháp luật công

<small>nhận là cha mẹ nuôi và con nuôi cũng sẽ làm đảo lộn ngôi thứ và gây xáo trộnvê quyên và nghĩa vụ dân sự đơi với nhau trong quan hệ gia đình. Rõ ràng, việc</small>

</div>

×