Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Luận văn thạc sĩ Luật học: Phiên tòa sơ thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (45.25 MB, 85 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYEN THUY HANG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự

Mã sô: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DAN KHOA HỌC: TS. NGUYEN TRIEU DUONG

HÀ NỘI - 2014

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

Tơi xin cam đoan, đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

<small>liệu và vụ việc nêu trong Luận văn là trung thực. Những phân tích, luận giải</small>

đề đưa ra các kết luận khoa học của Luận văn được kế thừa và phái triển trên

<small>cơ sở có tham khảo các cơng trình nghiên cứu trước đó nhưng phù hợp với</small>

những sửa đối, bồ sung của pháp luật Tổ tung dân sự và với một góc tiếp cận, phạm vi nghiên cứu riêng. Những kết luận của Luận văn chưa từng được ai

công bồ trong bat kỳ cơng trình nghiên cứu nào khác.

TÁC GIÁ LUẬN VĂN

Nguyễn Thuý Hằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

LỜI CẢM ƠN

Với tắm lịng biết ơn sâu sắc, tơi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn

Triều Dương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tơi trong suốt thời gian tơi <small>hồn thành Luận văn này.</small>

Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy cô

<small>giáo Khoa sau đại học — Trường đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy</small>

chúng tơi trong suốt thời gian vừa qua.

Đồng thời tôi cũng xin được cảm ơn chân thành tới tập thể Lãnh đạo

Toà án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và các đồng nghiệp

luôn ở bên, động viên, tạo điều kiện cho tơi trong suốt q trình học tập cũng

như nghiên cứu. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những <small>người thân trong gia đình tơi, những người ln động viên, chia sẻ với tơi</small> trong q trình học tập và nghiên cứu dé hoàn thành Luận văn.

Mặc dù đã cố gang nghiên cứu để hồn thiện Luận văn nhưng van

khơng tránh khỏi có những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp <small>ý của của các thây cơ giáo đê Luận văn được hồn thiện hơn.</small>

<small>Hà nội, ngày 23 tháng 5 năm 2014</small> HỌC VIÊN

Nguyễn Thuý Hằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

002710001. ...-<... | 1. Tính cấp thiết của việc nghiín cứu...--- + +52 +E+ESE2EEEEEEEEEEEEEEEEErEerrrees | <small>2. Tinh hinh nghiĩn CU. ... .ỐỒ.ồ..íễ... 23. Mục đích vă nhiệm vụ nghiĩn CỨU...- -- -- c6 211133331133 EEESEEEEEkkesrkerree 34. Phạm vi nghiÍn CỨU...- - -- -c c1 1222211111113 19111111 111 80111111 ke cư 35. Phương phâp nghiín cứu...---c c2 1xx, 4</small> 6. Kết cầu của luận văn...--- tt Sn S113 10 1111311155 15151 155111111511 111 111111511115 51 115151. txe. 4 <small>000 633445... 5</small> MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE PHIEN TOA SƠ THĐM DĐN SỰ... 5 1.1. Khai niệm, đặc điểm vă ý nghĩa của phiín tịa sơ thẩm dđn sự...-- 5 1.1.1. Khâi niệm phiín tịa sơ thấm dđn SU ...-.- 6. St SeS S123 E111 exer 5 1.1.2. Đặc điểm của phiín toăn sơ thẩm dđn sự ...-- - - 2 2 2 +s+x+E+EzEzEerersreez tT 1.1.3. Ý nghĩa của phiín tịa sơ thđm dđn SU... cece csesesesesesesesscessesesetseeeeeesteseeees 10 1.2. Câc u tơ tâc động đến việc tiến hănh phiín tịa sơ tham dđn sự... 13 1.2.1. Câc yếu tô khâch quan...-- ¿+ 25+ E 99 EEEEEEE2151515111 1121711111111 1E 2 13 1.2.2. Câc yếu t6 chủ qua...--¿-¿- +5 St S3 3519151511 1111211111111111111 011111110 1E6 15 CHUONG 2: QUY ĐỊNH CUA PHÂP LUAT TO TUNG DAN SỰ VIỆT NAM HIEN HANH VE PHIEN TOA SƠ THAM DAN SU ...esssesstessessseeseeeseeeseeeneeens 24 2.1. Những quy định chung về phiín tịa sơ thđm dđn sự ...--- - 252 s+s+ 24 2.1.1. Nguyín tắc tiễn hănh phiín tịa sơ thđm dđn sự...---- - 2-s+s+cz£szszs+ 24 2.1.2. Thănh phần HDXX sơ thđm... - 5 St SE 3 1E EEEEEEEEEEEEEEEEEEEEErkrkrkes 26 2.1.3. Những người tham gia phiín tịa sơ thđm dđn sự...---- 2-5 +cscs+s+s+ 27 2.1.4. Sự tham gia của KSV tại phiín tịa sơ thấm dđn sự...--¿----s+ssscscsessz 29 <small>“hi 0 e...a... 31</small> 2.2. Thủ tục tiến hănh phiín tịa sơ thấm dđn sự vă thực tiễn thực hiện... 36 2.2.1. Bắt đầu phiín t0a ..c.ceececccsccescscecscsecscscsecsescsssescsesessesessescsesesstsesesseseseeeees 36

<small>2.2.2.Hỏi tại phiín tỊa...-.--c c2 2S 2n nă, 372.2.3.Tranh luận...--- eeeeeeeeeeeeeeeeeeeeeeeeengers 46</small>

<small>ada, UT 2th Vel TOO Bi. asa nă inna HĂ H2 12g12 ồ4 8N HL1154831343031.064 403403 SaaS 4833640314 48</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

THỰC TIÊN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THÂM DAN SỰ TẠI TOA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHO CẢM PHA TINH QUANG NINH VÀ KIÊN NGHỊ HOÀN THIỆN PHAP LUẬT VE PHIÊN TOA SƠ THÂM DÂN SỰ...-- 1-5221 15212151112121511215121111111111111111 11111121 1x6 52 3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về phiên tòa sơ thấm dân sự ở Tòa án nhân dân thành phố Cam Phả, tinh Quảng Ninh...- 5-5-5 2 S2 2 E2E2E£E£EzEEzxzxrxez 32 3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cau tô chức của TAND thành phố Cam Pha, tỉnh Quảng Ninh... S2 E319 9E 1EE2151511EE111112171115 11111111 1X. 52 3.1.2. Thực tiễn tiến hành phiên tòa sơ thâm tại TAND thành phố Cam Phả - tinh <small>Quang Ninh... cece ...Ả.... 56</small> 3.2. Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật về phiên tịa so thẩm dân sự... 61 3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về PTSTDS... 61 3.2.2. Các kiến nghị nhằm thực hiện các quy định pháp luật về phiên tòa sơ thẩm <small>CAN SỰ... .-LLcc Q0 HH HH nu CC cv và 69</small> KẾT LUẬN...--- 5-52 S21 SE219E121515252121112121111111211111111111111111211 1111211 re. 72 THONG KE TONG HOP TINH HÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ CUA NGANH TOA ÁN NHÂN DAN TINH QUANG NINH ...--- 5+: 73 DANH MỤC TAI LIEU THAM KHAO 2.0... .ececececscssscecseececscecececettsvevsvsvsvevevsveveeees 75

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004

Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đôi bố sung năm 2011 : Hội đồng xét xử

: Hội thầm nhân dân : Kiểm sát viên

: Nghị quyết số: 05/2012/NQ-HĐTP NGÀY 03/12/2012 của <small>Hội đơng thâm phán Tịa án nhân dân Tôi cao</small>

PLTTGQCVADS_ : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dan sự PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động Phiên tồ sơ thâm dân sự

: Tịa án nhân dân Tối cao

: Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh : Viện kiểm sát

<small>: Xã hội chủ nghĩa</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu

Tố tụng dân sự gồm nhiều giai đoạn và thủ tục khác nhau như: khởi kiện và thụ lý; chuẩn bị xét xử sơ thẩm; phiên tòa sơ thấm; giai đoạn phúc thẩm; thủ tục đặc biệt giám đốc thâm, tái thâm. Tuy nhiên, giai đoạn xét xử sơ thâm và phiên tòa sơ thâm dân sự (PTSTDS) là giai đoạn rất quan trọng. Bởi vì ở PTSTDS, toàn bộ các tài liệu, chứng cứ của vụ án và những yêu cầu của các bên đương sự được xem xét, đánh giá trực tiếp, công khai, khách quan và tồn diện để Tịa án ra bản án, quyết <small>định.</small>

Chủ trương, đường lối và chiến lược cải cách tư pháp đã được xác định rõ trong Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số: 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đã chỉ rõ: Cần đổi mới việc tơ chức phiên tịa xét xử, xác định rõ hon vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính cơng khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên <small>tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá các hoạt động tư pháp [19, tr.5].</small>

Thực hiện đường lối cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa (XHCN), Quốc hội khóa XI nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có hiệu lực từ ngày 01/01/2005. BLTTDS này cũng đã được sửa đổi, bố sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (BLTTDS năm 2011). Trong đó, các quy định về PTSTDS trong BLTTDS năm 2011 đã được sửa đôi, bổ sung đã khắc phục được nhiều điểm bat cập, hạn chế của các quy định trước đó về PTSTDS trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vu án kinh tế (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ).

Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS, BLTTDS năm 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành cho thấy vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế về các quy định về PTSTDS cũng như các quy định có liên quan đến PTSTDS như: một số quy định về PTSTDS chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn xét xử, dẫn đến việc hiểu và áp

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

dụng tại các Tịa án khơng thống nhất, địi hỏi cần phải được nghiên cứu tồn diện nhăm tìm ra các giải pháp khắp phục.

Ngồi ra, do các quy định của pháp luật về PTSTDS của BLTTDS năm 2011 có những điểm mới so với quy định trước đó và do các nguyên nhân khách quan và chủ quan đã dẫn đến những sai phạm trong quá trình tiến hành PTSTDS trên thực tế như: tình trạng hỗn PTSTDS vẫn cịn nhiều; vẫn tién hành PTSTDS theo thủ tục cũ trước đây trong suốt quá trình ở phiên tịa chỉ có thủ tục hỏi và đáp, khơng có tranh luận hoặc tranh luận rất sơ sài; tién hành nghị án chiếu lệ (biên bản nghị án và biên bản phiên tịa thé hiện khơng thống nhất về thời gian mở phiên tòa, kết thúc phiên <small>tòa) [46] ...</small>

Vi cac ly do trén day, hoc vién da lua chon đề tài: “Phiên tòa so thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng <small>Ninh” làm nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.</small>

<small>2. Tình hình nghiên cứu</small>

PTSTDS là khâu trung tâm và quyết định kết quả của quá trình giải quyết vụ <small>án dân sự. Vì vậy, PTSTDS ln được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu pháp</small> luật. Trước đây đã có một số cơng trình nghiên cứu giải quyết cơ sở lý luận, thực tiễn cho từng van đề của Té tụng dân sự liên quan đến PTSTDS như đề tài khoa học cấp bộ: “Van dé tổ chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tổ chức tại phiên toa cua Toa an nhân đân, ma số 97-98/043/BT của Tòa án nhân dân Tối cao (TANDTC) đã đề cập đến vấn đề tổ chức phiên tịa nói chung như: Bài trí phịng xử án, tư thế, tác phong, trang phục của những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, hình thức xét xử cơng khai, xét xử kín hay lưu động...; Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Thị Minh Ngọc với đề tài: “Thủ tục xét xử các vụ án dân sự tại phiên tòa sơ thâm theo qui định của PLTTGQCVADS và thực tiễn áp dụng các qui định đó tại Tịa án nhân dân thành phó Hà Nội. Ngồi ra, cịn có luận văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thu Hà với đề tài: “Tranh trụng tại PTSTDS”, đặc biệt là luận án tiến sỹ luật học của Bùi Thị Huyền với dé tài “PTSTDS những vấn dé lý luận và thực tién”...Cac cơng trình này đã giải quyết khá toàn diện các van đề lý luận và thực tiễn về PTSTDS. Tuy nhiên, các van đề được các cơng trình

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

này nghiên cứu chung về PTSTDS, nhưng chưa có nghiên cứu ở một phạm vi hẹp về PTSTDS và việc tiến hành PTSTDS ở một Tòa án cụ thể với những đặc thù về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội.

<small>3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu</small>

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTSTDS, các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về PTSTDS và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Cam Phả, tỉnh Quảng Ninh (Tòa án Cam Phả). Trên cơ sở đó, xác định rõ các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện, bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật Việt Nam về PTSTDS nói chung và việc tiến hành PTSTDS tại Tịa án Cẩm Phả.

Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề cơ bản sau:

- Lam rõ những van dé lý luận cơ bản về PTSTDS;

- Phân tích làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về PTSTDS; - Phân tích và đánh giá về thực tiễn thực hiện PTSTDS dé chỉ ra những kết quả đạt được, những ton tại, hạn chế va nguyên nhân;

- Phân tích và luận giải dé đề xuất các kiến nghị cụ thé về hoàn thiện và thực hiện pháp luật tố tụng về PTSTDS.

<small>4. Phạm vi nghiên cứu</small>

Đây là một đề tài rất rộng, bao gồm rất nhiều vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn, Đặc biệt, trước đây đã có những cơng trình nghiên cứu rất cơng phu về vấn đề này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học và <small>với những kinh nghiệm đã tích lũy được trong q trình làm cơng tác xét xử tại</small> ngành Tịa án, học viên tập trung vào nghiên cứu về các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của PTSTDS, các yếu tố bảo đảm tiến hành PTSTDS, nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về PTSTDS và đặc biệt chỉ nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các PTSTDS tại Tòa án Cam Pha trong nhưng <small>năm gân đây.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

<small>Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác —</small> Lênin về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Ngoài ra, dé <small>hoàn thành luận văn còn sử dụng các pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như:</small> lich sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tông hợp và phương pháp thống kê, khảo sát thực tế.

6. Kết cấu của luận văn.

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE PHIEN TOA SƠ THÁM DAN SU

Chương 2: QUY ĐỊNH CUA PHAP LUAT TO TUNG DAN SỰ VIET NAM HIEN HANH VE PHIEN TOA SƠ THẤM DAN SỰ

Chuong 3: THUC TIEN THUC HIEN CAC QUY DINH CUA PHAP LUAT VE PHIEN TOA SO THAM DAN SU TAI TOA AN NHAN DAN THANH PHO CAM PHA TINH QUANG NINH VA KIEN NGHI HOAN THIEN PHAP LUAT VE PHIEN TOA SO THAM DAN SU

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Chương 1</small>

MOT SO VAN DE LÝ LUẬN VE PHIEN TOA SƠ THAM DAN SỰ 1.1. Khai niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự

Trong tồn bộ các thủ tục được Tịa án tiến hành trong giai đoạn xét xử sơ thâm vụ án dân sự thì thủ tục tiến hành PTSTDS có tam quan trọng đặc biệt, quyết định đến kết quả giải quyết các vụ án dân sự. Vì vậy, việc xác định và làm rõ được khái niệm PTSTDS là cơ sở quan trọng dé tìm hiểu các van đề lý luận về phiên tịa, từ đó giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ và tồn diện về PTSTDS. PTSTDS có thê được xem xét ở những góc độ khác nhau, có thé là một thủ tục tố tụng hoặc là một giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thâm. Tuy nhiên, tác giả luận văn chỉ đi vào nghiên cứu PTSTDS dưới góc độ là một thủ tục tố tụng. <small>Vậy, dưới góc độ này PTSTDS là gì ?</small>

1.1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự

Hiểu theo nghĩa chung nhất về ngữ nghĩa theo từ điển tiếng Việt thì “Phiên” là lần mà từng người, từng nhóm phải đảm nhiệm để bảo đảm tính liên tục, cịn “Toa” được hiểu là: Tịa án (nói tắt), ra tịa, tịa mở phiên xét xử công khai [56, tr. 1257 và 1597]. Vì vậy, ghép hai từ này ta có thể thấy: phiên tòa là một lần Tòa án tiến hành dé giải quyết vụ việc.

Theo nghĩa pháp lý, “phiên toa” đã được giải thích trong các từ điển luật học của nhiều quốc gia cũng có những tương đơng, trong từ điển luật học Việt Nam phiên tịa là: “hình thức hoạt động xét xu của Toa án” [55, tr. 62] hoặc theo từ điển <small>Pháp — Việt, pháp luật — hành chính [53, tr. 40], phiên tịa là phiên họp của Tòa án</small> xét xử các tội phạm, các tranh chấp hay phiên tịa có nghĩa là “Audience”, là phiên họp (Sesance au recours) dé Tòa án xem xét yêu cầu của các bên, thâm cứu vụ kiện, nghe lời biện hộ của các bên và đưa ra phán quyết (Từ điển Luật học của Pháp, trang 55). Trong từ điển luật học Anh [58, tr. 407], phiên tòa có nghĩa là “trial”. “Trial” có nghĩa là sự xét xử một vụ việc dan sự hoặc hình sự trước Tịa án có thâm qun, các phiên tịa phải được tiễn hành cơng khai (rất hiếm khi có ngoại lệ). Theo <small>một cách giải thích khác, “Trial có nghĩa là phiên xử tại Tòa án với sự tham gia</small>

của Thâm phán hoặc Hội đồng bồi thâm dé quyết định về vụ việc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Nhu vậy, về mặt pháp ly chúng ta có thé thay có khá nhiều cách định nghĩa khác nhau về phiên tòa, nhưng tựu chung lại thì phiên tịa là phiên họp có những đặc thù về người tiễn hành, người tham gia và nguyên tắc, trình tự, thủ tục tiến <small>hành.</small>

Ngồi ra, để có thể làm rõ PTSTDS là gì, chúng ta cũng cần thấy được “Sơ thẩm” là gì ? Theo đại từ điển tiếng Việt là “xét xử lần đầu một vụ việc ở Tòa án cấp thấp” [56, tr.146]. Còn dưới góc độ pháp lý, sơ thâm dân sự là việc giải quyết lần đầu một vụ việc dân sự, bao gồm các hoạt động khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải và ở PTSTDS, PTSTDS là khâu cuối cùng của sơ thâm dân sự và tại đó Tòa án sẽ xét xử dé đưa ra được phán quyết về vụ việc dân sự.

<small>Theo Giáo sư John Henry Merryan (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân</small> Tối cao năm 2000 "Về pháp luật t6 tung dân sự") thì: Sự cần thiết khi đưa một số <small>những người vào nghe lời khai của nhân chứng, xem xét các chứng cứ, tìm ra sự</small> thật và dé áp dung sự thật vào luật pháp dưới sự hướng dẫn của Thâm phan, đã day <small>phiên toà thành một dạng sự kiện... Sẽ tự nhiên và hiệu quả hơn cho các bên, cho</small> luật sư, cho Tham phán của họ nếu có thé gặp nhau trong một thời gian nhất định để

thực hiện, một lần duy nhất, phần tố tụng dân sự cần tới sự tham gia chung của họ.

Sự kiện đó như chúng ta biết, là phiên tồ. Đây khơng phải là một định nghĩa về PTSTDS mà là một sự diễn giải về thành phan chủ thé tiến hành như Tham phan, Hội thâm nhân dân (HTND) hay Bồi thâm đoàn và các chủ thé tham gia là các bên đương sự, luật sư, nhân chứng nhằm xem xét chứng cứ, xác định tình tiết của vụ việc để áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc diễn ra trong khoảng thời gian, địa điểm nhất định.

Theo thạc sĩ Ngơ Thị Minh Ngọc phiên tịa được hiểu “/a một phiên họp đặc biệt và các trình tự của phiên họp nay do pháp luật về tô tụng quy định chặt chẽ mà ở dé Hội đồng xét xử sơ thẩm vu án không thé tùy tiện thêm, bớt các bước trong quá <small>trình xét xử hoặc làm sai các trình tu nay” [28, tr.11]. Khái niệm này đã phản anh</small> được một số dấu hiệu của phiên toà như là một phiên họp, có tính chặt chẽ và thủ tục, do Hội đồng xét xử (HDXX) tiến hành. Tuy nhiên, đây là việc mô tả một phiên

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

tịa nói chung chứ chưa định nghĩa cụ thê về PTSTDS và chưa làm rõ được ở phiên tòa cịn có sự tham gia của đương sự, người tham gia tố tụng khác.

Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự năm 2005 của Trường Dai học Luật Ha Nội thì “phiên toa so thẩm vụ án dân sự là phiên xét xu vụ an dân sự lan đầu của Tòa án” [51, tr. 265]. Khái niệm này đã giải thích về PTSTDS theo BLTTDS Việt Nam ở mức độ khái quát nhất, tuy nhiên chưa khái quát được đầy đủ các đặc điểm <small>cơ bản của PTSTDS.</small>

Từ việc phân tích trên cho thấy, P7S7DS là phiên họp lan dau do Tòa án tiễn hành với sự tham gia của những người tham gia tô tụng được thực hiện trên những nguyên tắc và thủ tục do pháp luật quy định nhằm giải quyết vụ án dân sự.

1.1.2. Đặc điểm của phiên toà sơ thẩm dân sự

PTSTDS cũng giống như các phiên tịa sơ thâm khác nên PTSTDS có những đặc điểm chung của phiên toà sơ thâm, đồng thời lại có những điểm khác so với phiên tịa sơ thâm hình sự, phiên tịa sơ thâm hành chính hay phiên toà phúc thâm dân sự và phiên toà giám đốc thâm, tái thẩm dân sự hoặc với phiên họp giải quyết việc dân sự như theo quy định của PLTTDS Việt Nam hiện hành. Đề làm rõ các đặc điểm này, chúng ta phân biệt một số nội dung sau đây:

* Phân biệt giữa PTSTDS với phiên tòa sơ thẩm hình sự và phiên tịa sơ thâm hành chính.

Về bản chất, các phiên tòa đều là do Tòa án là cơ quan Nhà nước thực hiện quyên lực nhà nước về tư pháp dé thực hiện quyền tài phán dé đưa ra phán quyết giải quyết. Tuy nhiên, do đối tượng giải quyết ở các phiên tòa cũng khác nhau nên PTSTDS có những sự khác biệt với các phiên tịa sơ thâm hình sự, sơ thâm hành chính. Cụ thê:

- PTSTDS được tiễn hành trên cơ sở và dé giải quyết yêu cau của đương sự Đối với việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước và người thực hiện hành vi phạm tội nên phiên tịa sơ thâm hình sự được tiễn hành trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tô tụng. Các quyết định đó sẽ là căn cứ dé Tịa án tiến hành và xác định phạm vi giải quyết vụ án hình sự. Tuy <small>nhiên, việc giải quyêt vụ việc dân sự là giải quyêt các quyên và nghĩa vụ dân sự</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

lợi ích của Nhà nước nên để có việc giải quyết vụ án và có PTSTDS thì vấn đề trước hết là đương sự có u cầu Tịa án giải quyết, khơng có u cầu thì cũng sẽ khơng có việc giải quyết. Trong suốt q trình tố tụng dân sự (TTDS), Tịa án giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự; có rất nhiều cách giải quyết, có thé thơng qua hịa giải nhưng có thể phải tiến hành PTSTDS khi vẫn cịn những vấn đề cần được đưa ra xem xét ở PTSTDS.

- Phạm vi xét xử của Tòa án và diễn biến của PTSTDS luôn tôn tại trong <small>trạng thai động</small>

Trong tồn bộ q trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính thì phạm vi xét xử khá rõ ràng và ơn định và rất ít thay đổi. Tuy nhiên, trong TTDS, đương sự có quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự nên trong suốt quá trình trước hay tại PTSTDS phạm vi giải quyết của Tịa án ln có sự biến động do trong q trình đó đương sự đã khởi kiện, họ có quyền tự quyết định về việc tự tham gia

TTDS hay ủy quyền cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ

yêu cầu bằng việc thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu. Trong trường hợp đó phạm vi xét xử của Tòa án bị thay đổi theo, đây cũng chính là một trong những lý do dé chúng ta có thé hiểu được sự phức tạp và khó khăn khi Tịa án giải quyết các vụ án dân sự. Vì vậy, khi tiến hành PTSTDS, trước khi đi vào giải quyết về nội dung vụ án, Tòa án phải hỏi các đương sự về việc thay đồi, b6 sung và rút yêu cầu của họ; về việc họ có hịa giải được với nhau hay khơng: Nếu các đương sự rút yêu cầu và việc rút u cầu đó là tự nguyện thì Tịa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án; nếu các đương sự hịa giải được với nhau thì Tịa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận. Chỉ khi vẫn còn yêu cầu Tòa án phải giải quyết thì các thủ tục phiên tịa mới thực hiện để xem xét về nội dung yêu cầu. Vì vậy, chúng ta có thé thay dién bién cua PTSTDS phu thudc chu yếu vào quyền tự định đoạt của các đương sự.

- Tại PTSTDS việc chứng minh chu yếu thuộc về các bên đương sự

Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bi cáo có quyền nhưng khơng buộc phải <small>chứng minh mình là vơ tội. Vì vậy, tại phiên tịa hình sự, nghĩa vụ chứng minh tội</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

phạm thuộc về các cơ quan tiễn hành tô tụng. Tuy nhiên, trong TTDS, các đương sự là người trong cuộc nên hơn ai hết họ có thê chứng minh được các tình tiết, sự kiện mà Tòa án đang giải quyết phát sinh giữa họ với nhau. Vì vậy, việc chứng minh trước hoặc tại PTSTDS trước hết thuộc trách nhiệm của các đương sự và của những người tham gia tô tụng như: người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Vì vậy, thủ tục tiến hành PTSTDS có những điểm khác biệt so với phiên tịa sơ thâm hình sự.

So với phiên tịa sơ thâm hành chính, chúng ta có thể thấy PTSTDS có những đặc điểm giống so với phiên tòa sơ thâm hành chính. Bởi vì, về bản chất các đương sự trong tố tụng dân sự và tơ tụng hành chính là bình dang với nhau [37, tr. 262]. Nếu luật hành chính là luật cơng và trong quan hệ hành chính các bên các chủ thé này bất bình đắng nhưng trước Tịa án thì các chủ thé bat bình đăng trong quan hệ hành chính đã trở thành các chủ thé bình dang của pháp luật tơ tụng hành chính.

BLTTDS năm 2004 ra đời lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ mới đó là “việc dân sự” đây là những vụ việc mà trong đó Tịa án giải quyết các u cầu mà khơng có tranh chap và dé giải quyết việc dân sự bằng một phiên họp chứ khơng phải là <small>một phiên tịa. Vì vậy, bên cạnh khái niệm PTSTDS cịn có khái niệm phiên họp.</small> Phiên họp dùng để chỉ phiên giải quyết các việc dân sự lần đầu của Tòa án. PTSTDS dùng để chỉ phiên xét xử lần đầu vụ án dân sự của Tòa án. Phiên họp giải quyết việc dân sự được rút gọn hơn về thành phan tiến hành tổ tụng, thủ tục và thời hạn giải quyết. Thành phan tiến hành t6 tụng của PTSTDS có HTND tham gia nhưng đối với phiên họp giải quyết việc dân sự không HTND tham gia, do Thâm phán tiến hành, những người tham gia cũng ít hơn, các bên khơng có tranh chấp, mâu thuẫn về quyền và lợi ích nên thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân <small>sự cũng đơn giản hơn so với PTSTDS.</small>

* Phân biệt giữa PTSTDS với phiên toà phúc thẩm

Mặc dù thống nhất trong một thủ tục giải quyết vụ án dân sự nhưng PTSTDS

có những điểm khác biệt với các phiên tịa phúc thâm dân sự như: đây là phiên họp dé Tòa án giải quyết lần đầu với một vụ án dân sự, trong khi đó phiên tịa phúc thâm là phiên xét xử lần thứ hai và thơng thường phiên tịa phúc thâm được thực hiện sau

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

khi đã có PTSTDS nhưng sau đó đương sự có kháng cáo, Viện kiểm sát (VKS) có kháng nghị phúc thâm. Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thâm tại PTSTDS có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định có việc xét xử phúc thấm hay khơng. Bởi vì, nếu PTSTDS được thực hiện tốt và đưa ra được bản án, quyết định đúng đắn, khách quan và được đương sự, VKS đồng tình thì sẽ có thể khơng có việc xét xử phúc thâm và điều đó cũng đồng nghĩa là khơng có phiên tịa phúc thâm dân sự. Ngồi ra, khi có việc xét xử tại phiên tịa phúc thâm dân sự thì kết quả của việc tiến hành PTSTDS là cơ sở và tiền đề để tiến hành phiên tòa phúc thâm dân sự. Bởi vì, HDXX phúc thâm phải tơn trọng kết quả xét xử của PTSTDS, khơng xét xử lại tồn <small>bộ nội dung của vụ án dân sự mà chỉ xét xử những nội dung của vụ án đã được giải</small> quyết ở Tịa án cấp sơ thâm mà có kháng cáo, kháng nghị.

Ngồi ra, PTSTDS có sự tham gia của tat cả những người tham gia tô tung bao gồm các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích <small>hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và sự</small> tham gia của đại diện VKS (trong trường hợp VKS bắt buộc phải tham gia PTSTDS) vì đây là phiên họp lần đầu để xem xét tất cả các vấn đề của vụ án. Tòa án chỉ xét xử vắng mặt họ trong trường hợp có căn cứ do luật định, khi đó lời khai hay tài liệu do người vắng mặt cung cấp phải được công bố công khai. Đây là một nội dung thể hiện nguyên tắc Tịa án xét xử trực tiếp, cơng khai. Tuy nhiên, phiên tồ phúc thâm khơng nhất thiết phải triệu tập đầy đủ những người tham gia tô tung do phạm vi xét xử của Tòa phúc thâm thường hẹp hơn phạm vi xét xử của Tòa án sơ thâm. Chỉ đương sự kháng cáo, đương sự không kháng cáo nhưng có quyền và lợi ích liên quan đến việc xem xét kháng cáo, kháng nghị hay người làm chứng, người giám định, người phiên dịch cần thiết cho việc xem xét kháng cáo, kháng nghị mới phải tham gia ở phiên tịa phúc thâm. Đặc biệt, ở PTSTDS có thể VKS khơng bắt buộc phải tham gia thì phiên tịa phúc thâm bắt buộc các trường hợp VKS phải tham <small>gia.</small>

1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa sơ thắm dân sự

Như đã phân tích trên đây, chúng ta thấy răng PTSTDS là trung tâm của hoạt động tổ tụng ở giai đoạn sơ thâm, kết quả của việc tiến hành PTSTDS có giá trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

quyết định với việc giải quyết quyền và lợi ich của các bên đương sự. Vi vậy, việc tiến hành PTSTDS có rất nhiều ý nghĩa quan trọng thé hiện ở những nội dung cơ <small>bản sau đây:</small>

- Thứ nhất, thơng qua PTSTDS có thé đánh giá được một cách tổng thé va toàn diện chất lượng và hiệu quả của các hoạt động mà Tịa án thực hiện trước đó như: thụ lý, chuẩn bị xét xử, hịa giải dé từ đó có thé đưa ra những xử lý kip thời nhằm khắc phục các sai sót, vi phạm pháp luật của hoạt động ở các giai đoạn tố tụng trước PTSTDS. Chang hạn, tai PTSTDS, HDXX có thể xác định được việc thụ <small>lý có đúng khơng, các hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ đã được thực hiện</small> đúng chưa, đầy đủ chưa, Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật chưa... PTSTDS là hoạt động tố tụng quan trọng nhất ở giai đoạn xét xử sơ thâm và tồn bộ q trình Tịa án giải quyết vụ án dân sự. Vi vậy, việc tiễn hành PTSTDS được thực hiện tốt, HĐXX ra được các bản án, quyết định sơ thâm đúng đắn, khách quan sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời hạn chế việc kháng cáo, kháng nghị phúc thâm hay khiếu nai theo thủ tục giám đốc thẩm làm mat thời gian, công sức và tiền bạc của đương sự và của Tòa án.

Trong trường hợp vụ án được giải quyết mà kết thúc ngay sau PTSTDS thì sẽ bảo đảm việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và quyên và lợi ich hợp pháp của đương sự được bảo vệ kịp thời, tiết kiệm chi phí tố tụng cho Nhà nước và các đương sự. Như vậy có thể thấy, nếu khơng có PTSTDS sẽ khơng có bản án sơ thâm và cũng khơng thé có việc xét xử phúc thâm, giám đốc thâm, tái thâm bản án đó.

- Thứ hai, thơng qua việc tiến hành PTSTDS sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với hoạt động lập pháp. Bởi vì, thơng qua việc tiến hành PTSTDS, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng sẽ tiễn hành hàng loạt các thủ tục nhằm kiểm tra, phân tích đánh giá yêu cầu, chứng cứ, tài liệu, cũng như phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để ra bản án, quyết định giải quyết vụ án dân sự. Thông qua hoạt động này, những người tiến hành tố tụng, những

người tham gia tố tụng sẽ phát hiện ra những bất cập, hạn chế của các quy định

pháp luật nội dung, cũng như pháp luật hình thức để qua đó tổng kết và có những đề

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

xuất sửa đổi, bố sung các văn bản pháp luật hoặc ban hành các văn bản pháp luật nhăm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và khắc phục những hạn chế về pháp luật.

Ngồi ra, chúng ta thấy một hạn chế khó khắc phục được của hệ thống luật thành văn là thiếu tính cụ thé mà để có thé giải quyết được hạn chế này, chúng ta cần nghiên cứu toàn điện và nghiêm túc để có thể đưa vào một nguyên tắc áp dụng án lệ trong pháp luật về tố tụng. Khi đó, kết quả giải quyết của PTSTDS sẽ trở thành một chuẩn mực thứ hai bên cạnh chuẩn mực thứ nhất là các quy định của pháp luật do Nhà nước ban hành để Tòa án giải quyết các vụ án dân sự phát sinh trong đời sống xã hội.

<small>- Thứ ba, thông qua PTSTDS giúp cho người dân nâng cao được ý thức tôn</small> trọng pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm pháp luật.

<small>Thông qua việc xét xử công khai tại PTSTDS với sự tham gia của người</small> tham gia tơ tụng và những ngươi tham dự phiên tịa đã bảo đảm được một mục dich khác của việc giải quyết đó là việc phơ biến, tun truyền về pháp luật cho người dân, đồng thời việc xét xử nghiêm minh sẽ răn đe và phòng ngừa được những hành vi vi phạm pháp luật. Qua PTSTDS, HĐXX giải quyết xác định các quyền và nghĩa <small>vụ của các bên trong bản án sẽ giúp các đương sự nhận thức được quy định của</small> pháp luật, nhận thức được hành vi sai trái của mình để sửa chữa, khắp phục, đồng thời đương sự cũng thấy được những sai sót của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác có liên quan nhằm kiến nghị các cơ quan này khắc phục.

Ngoài ra, việc xét xử với chất lượng tốt tại PTSTDS sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo công bang và ôn định xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo uy tín của <small>cơ quan tư pháp, của Tịa án.</small>

Như vậy, thơng qua PTSTDS, Tịa án thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục

pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, củng có lịng tin của nhân dân vào đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động tiến hành PTSTDS được tiến hành tốt sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả của cơng tác

giáo dục chính tri, tư tưởng, giáo dục pháp luật và thực hiện tốt việc tuyên truyền

đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

PTSTDS tiến hành có nhiều vi phạm thì hệ qua làm cho mọi người thiếu tin tưởng vào hoạt động xét xử của Tòa án dẫn đến tâm lý coi thường sự tôn nghiêm của pháp luật. Đặc biệt, thông qua việc tiến hành PTSTDS, chúng ta có thể đánh giá được trình độ chun mơn, nghiệp vụ của Tham phán, HTND, KSV, người bảo vệ quyền <small>và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định, người phiên dịch. Qua</small> PTSTDS những người tiễn hành tố tụng, người tham gia tố tụng có thể tích lũy thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng, trình độ chun mơn.

1.2. Các yếu tố tác động đến việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự

PTSTDS là một hoạt động đặc biệt quan trọng do Tịa án tiến hành trong q trình giải quyết vụ án dân sự tai Tòa án cấp sơ thẩm. Việc tiến hành PTSTDS do những người tiễn hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng với sự tham gia của những người tham gia tố tụng. Việc tiễn hành phiên tòa chịu ảnh hưởng của các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan. Dé các phiên tịa sơ thâm có thê tiến hành với hiệu quả tốt chúng ta cần xác định được day đủ các yếu tố dé nhằm tìm ra được những giải pháp đồng bộ nhằm phát huy những tác động tích cực và hạn chế những tác động tiêu cực. Ảnh hưởng tới việc tiễn hành phiên tòa sơ thâm vụ án dân sự bao gồm các yếu tổ sau:

1.2.1. Các yếu tố khách quan

* Yếu tô kinh tế - chính trị - văn hóa — xã hội

Kinh tế và chính trị ln có những tác động đến mọi mặt của đời sông xã hội. Với một nền kinh tế mới bước đầu phát triển mà lại phải gánh chịu những anh hưởng nghiêm trọng của khủng hoảng kinh tế thế giới thì nó sẽ tác động làm gia tăng các tranh chấp, xung đột về lợi ích, đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc áp dụng pháp luật nói chung va áp dụng pháp luật dé tiến hành PTSTDS nói riêng.

Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã và đang chịu sự tác động của nhiều yếu

tố trong nước và quốc tế khiến cho nền kinh tế thiếu ổn định, giá tri đồng tiền Việt Nam thay đổi khá nhanh nên khi văn bản pháp luật định ra một quy định nào đó thì có thê khơng lâu sau nó đã trở nên khơng cịn phù hợp nữa. Chang hạn, pháp luật tố tụng quy định sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự nhưng với điều kiện kinh tế cịn rất khó khăn của đương sự thì đương sự đâu có th hay

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

<small>mời được luật sư tham gia PTSTDS.</small>

Các yêu tố xã hội có thể tác động đến chất lượng quyết định áp dụng pháp luật một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động gián tiếp là trường hợp các yêu tố xã hội tác động đến quá trình xây dựng pháp luật làm cho các quy phạm pháp luật phù hợp với điều kiện xã hội. Pháp luật càng phản ánh đầy đủ, khách quan các yếu tố xã hội thì càng hợp lí và vì vậy quyết định áp dụng ban hành trên cơ sở pháp luật đó càng có nhiều khả năng có chất lượng cao. Tác động trực tiếp là trường hợp các yếu tố xã hội liên quan trực tiếp đến điều kiện, hoàn cảnh áp dụng pháp luật cụ thể, đến khả năng thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cụ thé, những yếu tố này chi phối nội dung quyết định áp dụng ở một mức độ nhất định. Vì vậy, khi áp dụng pháp luật, bên cạnh những điều kiện, tiêu chuẩn cứng do pháp luật quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền phải xem xét những nét riêng biệt của từng trường hop áp dụng, những điều kiện cụ thể tạo nên bối cảnh phát sinh sự việc cần áp dụng. Chang han, dé tiến hành các PTSTDS nhằm giải quyết một vụ việc về hôn nhân và gia đình thì cần tìm hiểu kỹ lưỡng về nguyên nhân, thực trạng quan hệ vợ chồng, điều kiện hoàn cảnh của các bên ... mới có thể tiến hành PTSTDS dé có thé giải

quyết tốt được. Ở đây, các yếu tơ tự nhiên, xã hội, thậm chí cả yếu tố chính trị đều

ảnh hưởng đến nội dung của quyết định áp dụng, đều cần được quan tâm thích đáng. Chính vi cân nhắc các yếu tố xã hội trong từng trường hợp áp dụng pháp luật cụ thé mà việc áp dụng pháp luật mới đảm bảo được sự linh hoạt, sống động của pháp luật với sự đa dạng vốn có của cuộc sơng và nhờ đó nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật nói chung và tiến hành PTSTDS nói riêng.

* Chất lượng của hệ thơng văn bản quy phạm pháp luật

Trong q trình giải quyết vụ án dân sự nói chung và việc tiến hành <small>PTSTDS nói riêng có hai loại qui phạm pháp luật được áp dụng là quy phạm nội</small> dung và qui phạm hình thức. Qui phạm pháp luật nội dung chỉ rõ đối tượng áp dụng, loại quan hệ được áp dụng, nghĩa là nó có vai trị tạo lập cơ sở cho phép tiến hành áp dụng pháp luật được hay khơng: chỉ rõ các quyết định có thé được ban hành <small>trong quá trình áp dụng pháp luật. Trong TTDS các quy phạm pháp luật nội dung</small> bao gồm: quy phạm pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

<small>lao động. Qui phạm pháp luật hình thức hay qui phạm pháp luật thủ tục qui định</small> cách thức tiến hành áp dụng pháp luật, các bước hay các giai đoạn tiễn hành áp dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật trong việc tiến hành PTSTDS cũng song hành cả áp dụng pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức.

<small>Quy phạm pháp luật đóng một vai trị quan trọng trong quá trình áp dụng</small> pháp luật, đây là cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động, thủ tục ở các giai đoạn tố tụng, nhất là tại PTSTDS. Một hệ thống pháp luật có chất lượng cao là điều kiện đầu tiên dé có thé có được quyết định áp dụng pháp luật có chất lượng cao. Chất lượng của qui phạm pháp luật thé hiện ở sự phù hợp với quan hệ xã hội cần điều chỉnh, không tạo nên sự khác biệt trong nhận thức nội dung, không đem lại khả <small>năng xung đột pháp luật và những hệ lụy pháp lý phức tạp.</small>

Đề đảm bảo chất lượng của hệ thống quy phạm pháp luật, cần đảm bảo cả hai yếu tố tính thống nhất và tính khách quan. Pháp luật thống nhất sẽ giúp các chủ thé dé dang lựa chọn các quy phạm dé việc áp dụng được thống nhất và loại bỏ cơ hội để người áp dụng pháp luật lợi dụng pháp luật vào các mục đích riêng. Pháp luật khách quan sẽ phản ánh đúng thực tiễn và xu hướng vận động của đời sống xã hội. Ngoài ra, pháp luật vừa phải có tính khái qt, phố biến, vừa có khả năng thích ứng với các điều kiện cụ thé dé có thé áp dụng pháp luật một cách cơng bang và có sức thuyết phục trong hầu hết các trường hợp. Vì vậy, hệ thống pháp luật tố tụng nói chung và các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về PTSTDS hoàn thiện và phù hợp với thực tế sẽ là yêu tô tác động đến hiệu quả của việc tiến hành PTSTDS.

Ngược lại nếu quy định này còn bat cap, han ché va chua phù hợp thi việc tiễn hành

<small>PTSTDS sẽ gặp những khó khăn, trở ngại và hiệu quả khơng cao.</small> 1.2.2. Các yếu tố chủ quan

* Chất lượng của đội ngũ tiễn hành tô tụng tại PTSTDS

Tại PTSTDS, Thâm phán là người nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn trong việc xét xử. Do vậy, Tham phan la chu thé không thể thiếu được trong một PTSTDS. Có thể là một Tham phán hoặc HDXX gồm ba Thâm phán. Tùy theo truyền thống tổ tụng mà vai trị của Thâm phán tại PTSTDS có những điểm khác nhau.

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Đối với các nước theo truyền thống tố tụng tranh tung, tại PTSTDS Thâm phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ do các bên cung cấp. Do đó, Thâm phán chỉ giữ vai trị như trọng tài, đảm bảo sự tuân thủ các thủ tục tố tụng và ra phán quyết dựa trên các chứng cứ mà các bên chứng minh tại PTSTDS. Việc tiến hành các thủ tục tố tụng là trách nhiệm của các bên với sự trợ giúp của Luật sư. Tham phán chỉ can thiệp vào việc điều khiển phiên tòa dé cuộc tranh luận giữa các bên đương sự được rõ ràng và trung thực [45, tr 172]. Ưu điểm của mơ hình tố tụng này là vai trị của các bên đương sự được dé cao và đảm bảo tính khách quan trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, mơ hình tố tụng này địi hỏi rất cao đối với các bên đương sự về điều kiện và khả năng tranh tụng với sự hỗ trợ của Luật sư.

Tuy nhiên, đối với các nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi, Thâm phán giữ vai trò chủ động, tích cực hơn. Ngồi việc điều khiển phiên tịa, đảm bảo phiên tịa được tiễn hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, Tham phan con chu động kiểm tra căn cước của các đương sự, xét hỏi đương sự, người làm chứng về những van đề của vụ việc, điều khiến tranh luận tập trung vào những van đề đương sự còn mâu thuẫn, tranh chấp. Do Tham phán được nghiên cứu hồ sơ từ trước nên PTSTDS diễn ra theo kế hoạch nhưng mang tính hình thức và vai trị của các bên <small>đương sự khá bị động và mở nhạt.</small>

Trong xu hướng hiện tại, khi mà hệ thống pháp luật trên thế giới đang xích lại gần nhau thì đối với các nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng, Tham phan cũng có vai trị nhất định trong việc quản lý vụ việc chứ khơng hồn tồn phụ thuộc vào Luật sư của các bên, Tham phán có thé hỏi những câu hỏi dé làm sáng tỏ các

tình tiết vụ việc. Ngược lại, đối với các nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi,

quyền xét hỏi của Tham phán đã giảm dan, thay vào đó là quyền của đương sự trong việc chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc dân sự. Như vậy, dù theo truyền thống tố tụng tranh tụng hay tố tụng xét hỏi thì Tham phán là người tiến hành tố tụng có ảnh hưởng rat lớn đến việc tiễn hành PTSTDS.

Về mặt bản chất, việc tiến hành PTSTDS là hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng và pháp luật nội dung nhằm bảo vệ công lý; mang lại sự công bằng, đảm bảo

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

ồn định, phat triển xã hội. Vi vay, địi hỏi cán bộ Tịa án nói chung và đội ngũ Tham phán nói riêng phải có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng thuần thục và một đạo đức nghề nghiệp trong sáng.

Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của Thâm phan là yêu tố quan trọng đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật dé tiến hành các PTSTDS được đúng dan, khách quan và hiệu quả. Tham phán là những người cầm cân, nảy mực, do đó, địi hỏi phải có kiến thức rộng, bao qt, ý thức pháp luật, trình độ chun mơn nghiệp vụ, phâm chất đạo đức, năng lực chính trị - xã hội. Để làm tốt công tác xét xử Thâm phán cần phải luôn trau dồi kiến thức, học hỏi không ngừng, cập nhật <small>được những văn bản pháp luật, những quy định mới của pháp luật cũng như các</small> kiến thức khoa học pháp ly dé đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác, tiến hành PTSTDS để đưa ra được phán quyết đúng đắn hợp lý, hợp tình. Nếu khơng có trình độ chun môn nghiệp vụ cao và phâm chất đạo đức không trong sáng thì việc áp dụng pháp luật trong việc tiến hành PTSTDS sẽ không được bảo đảm, dẫn đến giải quyết không khách quan, không đảm bảo quyền và lợi ích của đương sự, bản án hoặc quyết định có thé bi Tịa án cấp trên sửa, hủy dé giải quyết <small>lại...</small>

Ngoài ra, tham gia vào hoạt động tiến hành PTSTDS cịn có HTND hoặc có sự tham gia của Bồi thẩm đoàn tùy theo pháp luật của mỗi nước. Các nước theo hệ thống pháp luật án lệ (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân tối cao năm 2000 "Về pháp luật tố tụng dân sự”, tr. 60) thì có thể có sự tham gia Bồi thâm đoàn xét xử tai PTSTDS. Mặc dù, Bồi thâm đoàn cũng là đại diện của quần chúng nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử nhưng vai trò của họ có điểm khác so với HTND của nước ta. Họ tham gia xét xử với nhiệm vụ chủ yếu là xem xét các tình tiết của vụ việc. Tuy nhiên, việc xét xử có Bồi thâm đồn khơng phải là bắt buộc vì nếu cả hai phía khơng địi hỏi phải có Bồi thâm đồn thì khơng có Bồi thâm đoàn tham gia. Hiện nay, thủ tục xét xử tại PTSTDS khơng có Bồi thâm đồn tham gia, trừ khi Tịa án có quyết định khác và điều này rất hiếm khi xảy ra [57, tr. 378].

Ngược lại, ở những nước theo truyền thống pháp luật dân sự lại khơng có truyền thống tơ chức phiên tịa có HTND. Đối với Cộng hòa Pháp, HTND chỉ tham

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

gia vào HĐXX sơ thâm của các Toà án chuyên biệt. Họ là những người hoạt động trong lĩnh vực xét xử sơ thâm các vụ việc thương mại do các thương nhân, chủ ngân hàng bầu ra; thành phần HĐXX các vụ kiện lao động gồm hai đại diện của người lao động và hai đại điện của chủ sử dụng lao động. Các Thâm phán chuyên nghiệp chỉ can thiệp vào việc giải quyết các loại việc đặc thù khi số phiếu của các HTND là ngang nhau. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau thì phiếu của chủ tọa sẽ là quyết định [52, tr. 20-23]. Đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, theo Điều 40 BLTTDS thì khi xét xử vụ việc dân sự có thé có HTND tham gia nhưng “trong thực tế hau như các Tịa án Trung Hoa khơng mời HTND tham gia xét xử; trừ một số ít trường hợp phải tham khảo ý kiến của những nhà chuyên môn trong q trình xét xử thì Tịa án mời HTND là người am hiểu lĩnh vực chun mơn đó (và cũng chỉ moi một HTND)” (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân tối cao năm 2000 "Về pháp luật tô tụng dân su", tr 39-40)

Ở Việt Nam, trong thành phan HDXX sơ thâm vụ án dân sự ln có HTND tham gia. Mục đích của quy định này nhăm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân sự được nhanh chóng, tạo điều kiện cho Thâm phán có thể chủ động trong cơng việc của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thâm phán, thực hiện những bước đi cơ bản của công cuộc cải cách tư pháp. Tuy nhiên, đối với đội ngũ HTND những người làm cơng tác kiêm nhiệm, do đó kiến thức về pháp luật không được cập nhật thường xuyên. Khi tham gia vào hoạt động xét xử ở tại PTSTDS của Tịa án, kiến thức, trình độ chun mơn nghiệp vụ về pháp luật của HTND bị hạn chế rất nhiều. Khi xét xử HTND được ngang quyền với Thâm phán trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến vụ án, nhưng trên thực tế hầu như trong các PTSTDS, HTND không thực hiện được đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình và quyền quyết định đều do các Thâm phán thực hiện. Để đảm bảo được tính khách quan cũng như hiệu quả của áp dụng pháp luật cao thì HTND cần thiết phải có được trình độ và kiến thức pháp luật chuyên nghiệp hơn từ đó bảo đảm việc tiến hành PTSTDS có hiệu quả và đúng <small>pháp luật.</small>

* Vai trò giám sát trong quá trình tiễn hành PTSTDS

Hoạt động áp dụng pháp luật dé tiến hành PTSTDS đều hướng tới mục tiêu

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, của Nhà nước và xã hội được bảo đảm một cách tốt nhất, không bị vi phạm. Đề đảm bảo được việc thực hiện những mục tiêu trên thì ngồi việc đảm bảo chất lượng của đội ngũ tiến hành tố tụng và hoạt động xét xử thì việc giám sát đối với việc tiến hành PTSTDS cũng đóng vai trị rất quan trọng.

Nếu như trong tố tụng hình sự việc tham gia của Viện kiêm sát (VKS) hay Viện cơng tố là cơ quan có vai trị đặc biệt quan trọng thì trong tơ tung dân sự có thé khơng có sự tham gia của VKS hay Viện cơng tố. Có một số nước ghi nhận việc tham gia của VKS hay Viện công tố, tuy nhiên mức độ và phạm vi tham gia cũng được quy định rất khác nhau tùy theo mơ hình, chức năng, nhiệm vụ. Với hai mơ hình tố tụng điển hình trên thế giới thì vai trị của VKS hay Viện công tố được ghi nhận cũng rất khác nhau. Đối với mơ hình tố tụng tranh tụng ở các nước theo truyền thống pháp luật án lệ thì cơ quan cơng tố chủ yếu tham gia vào lĩnh vực hình sự mà không tham gia vào lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên, các nước với mơ hình tố tụng xét hỏi mà theo truyền thống pháp luật dân sự thì vai trị của VKS hay Viện cơng tố <small>trong lĩnh vực dân sự cũng được ghi nhận.</small>

Ở Việt Nam, pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận vai trò kiểm sát hoạt động tố tụng của Tịa án trong đó có kiểm sát việc tiến hành các PTSTDS nhằm bảo đảm hạn chế tính chủ quan của Tham phán, HTND khi thực hiện quyền lực nhà nước trong việc xét xử. Vì vậy, bên cạnh việc Thâm phán, HTND tiến hành PTSTDS thì việc tiến hành này cần phải được kiểm tra, giám sat chặt chẽ dé đảm bảo các thủ tục ở tại PTSTDS được tiễn hành đúng đắn để có thể đưa ra được bản án, quyết định đúng đắn.

Ngồi ra, chúng ta cịn thấy rằng việc tham gia giám sát việc tiến hành PTSTDS cịn có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (mà phần lớn họ là các Luật sư). Sự tham gia tố tụng của Luật sư cũng có tác dụng giúp cho Tòa án tránh được khuynh hướng coi thường đương su và khắc phục được tình trạng chủ quan, tùy tiện trong giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, việc tham gia hoạt động của Luật sư tại PTSTDS có ý nghĩa làm cho việc giải quyết vụ án dân sự được <small>nhanh chóng, khách quan.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

Việc kiểm tra, giám sát trong quá trình Tòa án tiến hành PTSTDS là rất cần thiết và nếu hoạt động kiểm tra, giám sát này được coi trọng đúng mức và phát huy hết giá trị thì có thể ngăn ngừa, hạn chế, phát hiện sớm các trường hợp có những vi phạm nghiêm trọng trong quá trình tiến hành PTSTDS.

* Chất lượng của hoạt động bồ trợ Tư pháp

Công tác bé trợ tư pháp bao gồm hoạt động Luật sư, trợ giúp pháp lí, cơng chứng, giám định tư pháp... không chỉ liên quan trực tiếp đến lợi ích khách hàng mà cịn có mối liên hệ chặt chẽ với hoạt động của các cơ quan tiễn hành tô tụng. Băng hoạt động nghề nghiệp của mình, các luật sư, trợ giúp viên pháp lý, cơng chứng viên, giám định viên... có thể có những tác động đến việc giải quyết các vụ việc ở Tòa án. Việc sử dụng dịch vụ pháp lý từ một số hoạt động bô trợ tư pháp nêu trên của người dân đã góp phan cho họ có thể tiếp cận công lý dé dang hơn, giúp người dân đảm bao được quyên và lợi ich hợp pháp của họ khi tham gia vào qua trình tố tụng tại PTSTDS.

<small>* Bao dam tính độc lập trong hoạt động xét xử của Toa an</small>

Để việc xét xử có thể đảm bảo được tính khách quan, cơng bằng thì cần phải đảm bảo được tính độc lập trong q trình xét xử. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam năm 1946 đã quy định về nguyên tắc xét xử: Thâm phán độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Trong quá trình phát triển của khoa học pháp lí cũng như qua các giai đoạn lịch sử khác nhau thì Nhà nước ta vẫn khang định rang trong hoạt động xét xử, Thâm phán không phụ thuộc vào bat kỳ cá nhân hay tổ chức nào khi đưa ra các nhận định đánh giá, phán quyết. Ngồi ra địi hỏi Thâm phán phải nâng cao trách nhiệm, buộc họ nghiêm chỉnh tuân thủ pháp luật, chủ động nghiên cứu hồ sơ <small>của vụ án, phải có trách nhiệm xét xử đúng pháp luật, phải ngăn chặn được sự lạm</small> dụng địa vị pháp lý trong quan hệ tố tụng, không bị lệ thuộc vào những lý do của những người tham gia tô tụng hay những kết luận của cơ quan, tô chức đưa ra.

Việc duy trì tính độc lập của Tham phan la cần thiết dé đạt được mục dich của xét xử. Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại PTSTDS không một cơ quan, tô chức hay cá nhân nào được can thiệp, tác động đến hoạt động xét xử của Tham phán. Tham phán phải trung thực, chính trực và tơn trong tính độc lập của tư

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

pháp biéu hiện qua việc tránh có những hành vi sai trái, vi phạm pháp luật, dao đức nghề nghiệp trong tất cả các hoạt động của mình.

<small>Bảo đảm được tính độc lập trong hoạt động xét xử của Tịa án nói chung,</small> giải quyết vụ án của Thâm phán nói riêng sẽ đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật tiến hành PTSTDS nhằm giải quyết các vụ án được khách quan, đúng pháp luật, hạn chế được mức thấp nhất bản án, quyết định bị sửa, hủy do lỗi chủ quan của Thâm <small>phán.</small>

* Cơ sở vật chát, chế độ đãi ngộ, chính sách tiền lương

Bên cạnh việc nâng cao trình độ của các cán bộ, nhà nước cần trang bị thêm các trang thiết bị hiện đại hơn nhằm hỗ trợ cho Tòa án thực hiện cơng việc nói chung và tiến hành PTSTDS nói riêng một cách hiệu quả nhất cũng như có những ưu đãi nhất định dé nâng cao tinh thần làm việc khiến họ yên tâm sống với nghé, <small>tránh gây ra tình trạng khơng chun tâm vào cơng việc vì phải lo toan với cuộc</small> sống do quá khó khăn.

Mặc dù việc đầu tư cho việc xây dựng trụ sở và trang thiết bị phục vụ cho công tác xét xử và việc tiễn hành PTSTDS đã được quan tâm, song so với yêu cầu thực tế hiện nay vẫn chưa đáp ứng được. Nhiều trang thiết bị như phòng xử án, hệ thống âm thanh, ánh sáng và các công cụ khác phục vụ cho việc tiễn hành PTSTDS còn thiếu hay phương tiện dé di chuyén thực hiện việc tống đạt phiên tòa chưa được <small>trang bi.</small>

Đời sống vật chat của cán bộ Tòa án hiện cịn rất khó khăn, tiền lương qua

thấp, đối với Tham phán, nhất là Thâm phán Tòa án cấp huyện thực tế vẫn còn nhiều bat hợp lý tiền lương chưa đủ sống, không phải là động lực kinh tế thực sự

thúc đây Thâm phán làm việc do đó cịn xảy ra nhiều trường hợp tham nhũng, sách nhiễu của một số Thâm phán trong quá trình giải quyết các vụ án. Đối với đội ngũ thư ký Tòa án - những người giúp việc cho Thâm phán trong việc điều tra xét xử vụ án - phần lớn là những người đã tốt nghiệp cử nhân luật khi được tuyển dụng vào ngạch thư ký Tòa án, mức lương khởi điểm cịn q thấp. Điều này tác động khơng nhỏ đến tinh thần, sự an tâm công tác của đội ngũ Thâm phán và cán bộ Tòa án. Đây cũng chính là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng cơng tác của Tịa án nói chung, chất lượng của việc tiễn hành PTSTDS nói riêng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

* Việc tham gia và thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự

Đương sự là chủ thể không thể thiếu của PTSTDS. Tham gia PTSTDS sẽ giúp cho đương sự chứng minh và bảo vệ yêu cầu của mình, đồng thời, giúp cho quá trình xác định sự thật của vụ việc được thực hiện nhanh chóng nhất. Vì vậy, khi tiễn hành PTSTDS, Tịa án cần triệu tập hợp lệ dé duong su tham gia PTSTDS. Néu đương sự vắng mặt có lý do chính đáng thi Tịa án phải hỗn phiên tịa. Tịa án chi xét xử văng mặt đương sự khi đương sự vắng mặt nhưng có don đề nghị Tịa án xét xử vắng mặt hoặc có người đại diện hợp pháp tham gia hoặc trường hợp bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vắng mặt khơng có lý do chính đáng.

Đương sự có quyền tự định đoạt ở tại PTSTDS như có quyền thay đơi, bố sung, rút u cầu và Tịa án có trách nhiệm chỉ giải quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự, trừ một sỐ trường hợp ngoại lệ. Bên cạnh đó, nếu tại PTSTDS, các đương

sự tự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ việc và thỏa thuận đó khơng vi

phạm điều pháp luật cắm, khơng trái đạo đức xã hội thì Tịa án khơng cần xét xử mà ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Phạm vi xét xử của PTSTDS được xác định dựa trên yêu cầu của đương sự, diễn biến của PTSTDS phụ thuộc vào quyền tự định đoạt của các đương sự. Như vậy, có thể thấy diễn biến của PTSTDS sẽ bị chi phối rất lớn khi đương sự thực hiện quyền tự định đoạt.

Mặt khác, nếu đương sự có những hành vi cản trở việc tiến hành PTSTDS như lần trốn khơng đến phiên tịa, viện ra những ly do khác nhau dé trì hỗn phiên tòa hay gây rối, hành hung đe doa người tiến hành tô tụng, người tham gia tố tụng khác cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiến hành PTSTDS.

Đối với người đại diện của đương sự là người thay mặt đương sự dé thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự nên việc tham gia của người này được xác <small>định như đương sự.</small>

* Các yếu tô khác

Đề PTSTDS được tiến hành thuận lợi thì một trong những yếu tố bảo đảm là sự tham gia của các cá nhân, cơ quan, tô chức hỗ trợ cho việc xét xử. Cụ thé như

<small>sau :</small>

- Thứ nhất, việc tham gia của người làm chứng ở tại các PTSTDS có vai trị đặc biệt quan trọng. Có những PTSTDS nếu người làm chứng không tham gia,

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

khơng hop tác với Toa án thì việc xét xử của Tịa án sẽ gặp nhiều khó khăn. Thực tế <small>có những trường hợp người làm chứng bị đe dọa, bị mua chuộc thì cũng gây khó</small> khăn cho việc tiền hành PTSTDS.

<small>- Thr hai, sự tham gia của người giám định, người phiên dịch, người định</small> giá, của tô chức thẩm định giá hay của các cá nhân, tô chức có liên quan cũng là yếu tố tác động rất lớn đến việc tiễn hành kịp thời và có hiệu quả các PTSTDS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

<small>Chương 2</small>

QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TÓ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN HANH VE PHIÊN TOA SƠ THAM DÂN SỰ 2.1. Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm dân sự

2.1.1. Nguyên tắc tiễn hành phiên tòa sơ thẩm dân sự

Theo quy định tại Điều 197 BLTTDS năm 2011 thì việc tiến hành PTSTDS trước hết phải được tiến hành trực tiếp. Tính trực tiếp được hiểu là tại phiên tịa, HDXX phải trực tiếp xác định tất cả các tình tiết, sự kiện của vụ án thông qua việc <small>hỏi và nghe lời trình bày của các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo</small> vệ quyên và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tô tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe các bên đương sự tranh luận về chứng cứ cũng như về việc áp dụng pháp luật, nghe Kiểm sát viên (KSV) phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án, trong trường hợp có KSV tham gia phiên tịa. Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại phiên tòa và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên tịa. Tính trực tiếp của việc xét xử này đã được tham chiếu rất rõ trong pháp luật tố tụng dân sự của Cộng hịa Pháp, theo đó Điều 16 Bộ luật tố tụng dân sy (BLTTDS) của Cộng hòa Pháp ghi nhận: Trong quyết định của mình, Tham phán chỉ có thé dựa vào những căn cứ, văn bản giải thích và các tài liệu do đương sự viện dẫn hoặc xuất trình, néu những căn cứ, những ý kiến lý giải và những tài liệu xuất trình cũng đã được thảo luận theo thê thức tranh tụng. Tham phán không thé dựa trên các căn cứ pháp luật mà mình tự viện dẫn dé ra quyết định nếu trước đó khơng yêu cầu các bên đương sự trình bày ý kiến của các bên; hay Điều 7 quy định: Tham phan khơng thé ra quyết định căn cứ vào các tình tiết không được viện dan trong khi tranh luận [6, tr.10-11]. Điều này cũng được quy định rất rõ tại Khoản 1 Điều 157 BLTTDS của Liên bang Nga, theo đó, Tịa án xét xử vụ án phải trực tiếp nghiên cứu chứng cứ của vụ án; Tòa án nghe lời giải thích và trình bay của ngun don, bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng, kết luận của giám định viên, tư vấn và thuyết trình của các nhà chuyên môn, kiểm tra thư chứng, xem xét vật chứng, nghe và xem xét băng ghi âm, ghi hình [5, tr.131-132]. Như vậy, có thé thấy răng dé mở rộng tranh tụng pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

luật tố tụng dân sự của Việt Nam va rat nhiều các quốc gia cùng có quy định về nguyên tắc xét xử trực tiếp. Việc ghi nhận này một mặt bảo đảm quyền tranh tụng của đương sự mặt khác hạn chế được việc xét xử ở Tịa án mang tính hình thức với hiện tượng vẫn còn tồn tại ở Việt Nam như: án tại hồ sơ; án bỏ túi.

Ngoài ra, pháp luật tố tụng dân sự của Việt Nam trước đây và hiện tại, cũng như pháp luật t6 tụng của nhiều quốc gia trên thế giới còn quy định về nguyên tắc Tịa án xét xử liên tục. Theo đó, PTSTDS phải được tiễn hành liên tục, trừ thời gian nghỉ. Các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, điều đó có nghĩa là với một HDXX thì các thành viên HĐXX phải tiến hành các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để xét xử xong vụ án này mới được chuyền sang xét xử đến vụ án khác. Trong trường hợp đặc biệt thì việc xét xử có thể tạm ngừng không quá năm ngày làm việc. Hết thời hạn tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục. Việc pháp luật tô tụng dân sự quy định về tạm ngừng phiên tòa thực chất là sự cụ thé hóa nguyên tắc xét xử liên tục. Tuy nhiên, một trong những hạn chế đó là pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành lại không có quy định căn cứ để tạm ngừng phiên tịa nên đã dẫn đến những việc hiểu khác nhau về vấn đề này.

- Cách hiểu thứ nhất: Tòa án tạm ngừng phiên tòa khi phiên tòa đang diễn ra <small>ở các thủ tục hỏi, tranh luận, nghị án tại phiên tịa. Tịa án hỗn phiên tịa ở giai</small> đoạn bắt đầu phiên tòa. Tuy nhiên, cách hiểu này lại mâu thuẫn ngay trong chính quy định tại Khoản 4 Điều 230 BLTTDS 2011 bởi theo quy định này thì ngay cả khi đang ở thủ tục hỏi tại phiên toa, HDXX vẫn có quyền hỗn phiên tịa.

- Cách hiểu thứ hai: Tòa án chỉ tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp được quy định tại Khoản 1 Điều 198 BLTTDS 2011.

Vì vậy, chúng tơi thấy răng BLTTDS 2011 cần có quy định cụ thể về căn cứ và thời điểm tạm ngừng phiên tòa dé làm cơ sở pháp ly cho việc áp dụng quy định này trên thực tế. Tham khảo quy định trong BLTTDS của Liên bang Nga với quy định khá giống trong quy định của BLTTDS 2011 của Việt Nam. Theo quy định tại Khoản 3 Điều 157 BLTTDS 2011 thì việc xét xử được tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ, trước khi kết thúc xét xử hoặc trước khi tạm ngừng xét xử, Tịa án khơng

được giải quyết những vụ án dân sự, hình sự, hành chính khác. Ngồi ra, tại Điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

169 BLTTDS của Liên bang Nga quy định việc tạm hỗn phiên tịa với tinh thần <small>khơng phân biệt giữa tạm ngừng phiên tịa và hỗn phiên tịa như BLTTDS 2011</small> của Việt Nam và khi đã tạm hỗn phiên tịa thì việc xét xử được tiễn hành lại từ đầu, thời hạn tạm hỗn khơng có quy định chỉ xác định chung là Tòa án chỉ định ngày mở phiên tịa mới sao cho có đủ thời gian dé triệu tập người tham gia tô tung hoặc dé yêu cầu cung cấp chứng cứ. Đây là một nội dung chúng ta cần tham khảo dé sửa đối, bổ sung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành.

Ngoài nguyên tắc xét xử trực tiếp, liên tục thì việc tiến hành phiên tịa cịn phải dựa trên nguyên tắc xét xử bằng lời nói, theo đó việc tiến hành tố tụng của người tiến hành tô tụng, việc tham gia t6 tụng của những người tham gia tố tung phải thể hiện bằng lời nói tại phiên tòa ở các thủ tục bắt đầu, thủ tục hỏi, thủ tục tranh luận. Day là quy định bảo dam sự công khai, minh bạch trong hoạt động tô <small>tụng tại PTSTDS các vụ án dân sự.</small>

2.1.2. Thanh phan Hội đồng xét xử sơ thẩm

Điều 52 BLTTDS 2011 quy định về thành phan HDXX sơ thẩm vụ án dân sự gồm: một Thâm phán và hai HTND, trong trường hợp đặc biệt thì HĐXX sơ thâm có thé gồm hai Tham phán và ba HTND. Việc quy định như vậy là cơ sở dé bảo đảm việc thực hiện nguyên tắc xét xử tập thể và quyết định theo đa số nhằm bảo đảm tính dân chủ trong tố tụng dân sự. Việc quy định sự tham gia của HTND với số lượng trong một HDXX sơ thâm nhiều hơn Thâm phán, đồng thời HTND lại ngang quyền với Tham phan tạo cơ sở cho việc bảo đảm tính dân chủ trong tố tụng khi trình độ chun môn, nghiệp vụ về pháp luật của HTND đáp ứng được yêu cầu của hoạt động xét xử. Tuy nhiên, nếu trình độ chun mơn, nghiệp vụ của đội ngũ HTND nếu khơng đáp ứng được u cầu này thì việc tham gia của HTND có thê <small>mang tính hình thức và không hiệu quả.</small>

Tham khảo pháp luật tố tụng dân sự của nhiều quốc gia trên thé giới, chúng ta thay rằng, hầu hết thành phan HDXX sơ thâm là sự tham gia của các Tham phan mà không có sự tham gia của HTND như của Việt Nam. Ở Mỹ một phiên xử có thê do một Thâm phán thực hiện mà khơng có Bồi thâm đồn hoặc một phiên xử có Bồi thâm đồn, nhưng Bồi thâm đồn thường khơng chun biệt về khả năng đối với

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

các vụ phức tap nên vì vay, các bên đương sự đều muốn đưa nội vu vào tay quan tịa mà khơng có Bồi thâm đồn, 12 Bồi thẩm viên đều được chọn lựa dưới hình thức rút thăm để tham gia xử một vụ duy nhất, những người này phải có những điều kiện như quốc tịch, quyền bầu cử, ti tác, sức khỏe và tính công bằng, khi tham gia họ phải tuyên thé [27, tr.143, 144]. Điều này cũng thé hiện trong quy định của BLTTDS của Liên bang Nga, theo quy định tại Khoản 1 Điều 14 của Bộ luật này, Tòa án cấp sơ thâm giải quyết vụ án dân sự theo chế độ một Thâm phán. Trong trường hợp đặc biệt luật Liên bang Nga quy định, Tòa án cấp sơ thâm giải quyết vụ án dân sự với thành phần xét xử gồm 3 Thâm phán chuyên nghiệp. Như vậy, đây là một trong những tham khảo dé khi sửa đổi pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, bởi xét về mặt thực tế trình độ chun mơn, kinh nghiệm xét xử, thời gian tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án dân sự và trách nhiệm đối với kết quả giải quyết vụ án thì đa số các Thâm phán vượt trội hơn so với HTND, trong khi đó về số lượng theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành thì trong các HĐXX 3 thành <small>viên hay 5 thành viên thì HTND bao giờ cũng áp đảo hơn mà HTND lại ngang</small> quyền với Thâm phán nên việc tham gia này có thé khơng có hiệu qua, chất lượng tốt hoặc sẽ thuần túy mang tính hình thức. Vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ hoặc chúng ta mạnh dạn bỏ quy định về việc tham gia của HTND hoặc vẫn duy trì thì chúng ta cũng cần có tiêu chuẩn hóa đội ngũ HTND như là các Tham phán không chuyên trách nhưng họ hội đủ các điều kiện về trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, về kinh nghiệm xét xử có như vậy mới có thê vừa bảo đảm tính dân chủ trong hoạt động xét xử, đồng thời bảo đảm được chất lượng thực tế cho hoạt động xét xử.

Đặc biệt, dé bảo đảm việc tiến hành PTSTDS được thực hiện tốt thì Điều 198 BLTTDS 2011 quy định về việc thay thế thành viên HDXX trong trường hợp đặc biệt khi có một thành viên của HDXX khơng thể tham gia xét xử. Quy định này là một bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc xét xử mà chúng tơi đã trình bày ở trên <small>đây.</small>

2.1.3. Những người tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự

BLTTDS 2011 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có quy định về sự tham gia của những người tham gia tô tụng. Cụ thé tại các Điều 199, 202, 204, 205, 206

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

<small>cua BLTTDS này, theo đó PTSTDS phải có sự tham gia của đương sự (nguyên don,</small> bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan), người đại điện của đương sự (nếu có), người bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng trong trường hợp cần thiết cho việc xét xử tại phiên tòa, người giám định, người phiên dịch khi được Tòa án triệu tập tham gia phiên tòa. Đối với đương sự đây là chủ thê chính trong hoạt động tơ tụng, việc tham gia phiên tòa sơ thâm vừa là quyền và vừa là nghĩa vụ của đương sự, thông qua việc tham gia phiên tịa các đương sự có thé thực hiện các quyền và nghĩa vụ ở tại PTSTDS để chứng minh cho yêu cầu hay ý kiến phản đối của mình, đồng thời việc tham gia PTSTDS cũng là một bảo đảm cho Tịa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ án dân sự.

Vi vậy, về nguyên tắc khi Tòa án tiễn hành PTSTDS, Tòa án phải triệu tập hợp lệ các đương sự (theo các quy định từ Điều 146 đến Điều 156 BLTTDS 2011) nhằm bảo đảm sự tham gia PTSTDS của đương sự. Khoản 1 Điều 199 BLTTDS 2011 quy định về nghĩa vụ có mặt tại PTSTDS của đương sự, theo đó Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đương sự phải có mặt, trường hợp đương sự vắng mặt thì <small>Tịa án phải hỗn phiên tịa.</small>

Ngồi ra, theo quy định tại Điều 202 BLTTDS 2011, Tòa án xét xử vắng mặt <small>đương sự trong các trường hợp sau:</small>

- Nguyên đơn, bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tịa có đơn đề nghị Tịa án xét xử vắng mặt;

- Nguyên don, bị đơn hoặc người có quyên lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt <small>tại phiên tịa có người đại diện hợp pháp tham gia phiên tịa;</small>

- Bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khơng có u cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tịa.

Trong suốt q trình tơ tụng cũng như tại PTSTDS đương sự có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình theo quy định tại các điều từ Điều 58 đến Điều 62 BLTTDS 2011 như: Giữ nguyên, thay đôi, bố sung hoặc rút yêu cầu; cung cấp tài liệu, chứng cứ; Đề nghị Tịa án đưa người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan <small>tham gia tô tụng; Đưa ra câu hỏi với người khác vê vân đê liên quan đên vụ án khi</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

được phép của Tòa án hoặc đề xuất với Tòa án những van dé cần hỏi với người khác, được đối chất với nhau ...

Ngồi ra, PTSTDS cịn có thé có sự tham gia của người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người <small>giám định, người phiên dịch. Người đại diện của đương sự là người thay mặt đương</small> sự tham gia tố tụng ở tại PTSTDS có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện ủy quyền nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ của đương sự. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý răng trong tô tụng dân sự hay tại PTSTDS đương sự có các quyền và nghĩa vụ về dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại, lao động và có cả các quyền và nghĩa vụ về tô tung. Do vậy, trong những PTSTDS chúng ta cần xác định rõ phạm vi thâm quyền đại diện của mỗi người đại diện khi có sự tham gia PTSTDS của những người này nhăm vừa bảo đảm việc đương sự có người đại điện tham gia PTSTDS nhưng cũng hạn chế được sự lạm dụng của người đại diện trước quyên lợi của đương sự.

Theo quy định tại Điều 63, 64, 199 BLTTDS 2011 thì tại PTSTDS cịn có thé có sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Người này tham gia nhằm hỗ trợ đương sự về mặt pháp lý, giúp đương sự thực hiện tốt hơn các quyền và nghĩa vụ của mình thơng qua việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ như: xác minh, thu thập chứng cứ, cung cấp chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ; tham gia PTSTDS và có văn ban bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự...

Trong một số vụ án cụ thê tại PTSTDS cịn có thể có sự tham gia của người <small>làm chứng, người giám định, người phiên dịch. Khi tham gia PTSTDS họ có các</small> quyền và nghĩa vụ được quy định tại các Điều 6ó, 68, 70 BLTTDS 2011.

2.1.4. Sự tham gia của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm dân sự

<small>Trước khi BLTTDS năm 2004 có hiệu lực thi hành thì VKS có một vai trị</small> đặc biệt quan trọng trong hoạt động tố tụng dân sự, theo đó VKS có quyền khởi tố vụ án dan sự và tham gia tố tụng với những vụ án dân sự mà VKS thấy cần thiết. Tuy nhiên, để bảo đảm quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự, BLTTDS năm 2004 đã thu hep vai trò của VKS trong tố tụng dân sự, theo quy định tại khoản 2 Điều 85 BLTTDS năm 2004 quy định, VKS chỉ tham gia PTSTDS đối

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

với những vụ án dân sự mà đương sự có khiếu nại về biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. Với quy định này, VKS tham gia nhăm thực hiện kiểm sát việc xác <small>minh, thu thập chứng cứ của Tòa án. Mặc dù vậy, sau một thời gian thi hành</small> BLTTDS năm 2004 cho thấy quy định của BLTTDS năm 2004 về việc tham gia của VKS ở phiên tòa sơ thâm đã bộc lộ hạn chế, bất cập làm cho VKS không thực hiện được chức năng kiểm sát và Tịa án đã có những sự tùy tiện trong việc giải quyết nên BLTTDS năm 2011 đã có những sửa đổi theo hướng mở rộng hơn việc tham gia của VKS ở phiên tòa sơ thâm. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 21 BLTTDS năm 2011 thì VKS tham gia PTSTDS với những vụ án mà Tòa án tiễn hành thu thập chứng cứ hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản cơng, lợi ích cơng cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc có một bên đương sự là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thé chất, tâm than.

Ngoài ra, quy định tại Điều 234 BLTTDS năm 2011 đã có một sự thay đơi so <small>với quy định trong BLTTDS năm 2004. Theo đó, với quy định của BLTTDS năm</small> 2004 thì những vụ án mà VKS phải tham gia PTSTDS, KSV phát biểu quan điểm của VKS về giải quyết vụ án. Tuy nhiên, theo BLTTDS năm 2011 thì VKS tham gia phiên tịa chỉ phát biều ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thâm phán, HĐXX, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tung dân sự, ké từ thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HDXX nghị án. Quy định này đã giúp cho VKS có thể kiểm sát được hoạt động tố tụng, đồng thời vẫn bảo đảm được quyền tự định đoạt của đương sự và sự độc lập của Tịa án trong q trình giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thâm.

Đề cu thé hóa quy định trên đây của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành, theo Điều 8 Thông tư liên tịch số: 04/2012/TTLT/VKSNDTC-TANDTC thì tại phiên tịa sơ thâm xét xử vụ án dân sự, sau khi những người tham gia tô tụng phát biểu tranh luận và đối đáp, KSV phát biểu ý kiến của VKS về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Tham phán, HDXX trong quá trình giải quyết vụ án, ké từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HĐXX nghị án. Trong trường hợp KSV yêu cầu HDXX khắc phục các vi phạm về thủ tục tố tụng thì HĐXX phải xem xét, quyết định và có thể chấp nhận hoặc không chấp nhận; trường hợp không chấp nhận, thì phải nêu rõ lý

</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">

do. Quyét dinh vé viéc chap nhận hoặc không chấp nhận yêu cầu của KSV được

<small>HDXX thảo luận va thông qua tại phòng xử án và phải được ghi vào biên bản phiên</small> toà. Phát biểu ý kiến về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm HDXX nghị án, không phát biểu về quan điểm giải quyết vụ án. Ý kiến phát biểu của KSV phải thể hiện bằng <small>văn bản, có chữ ký của KSV tham gia phiên tòa, phiên họp và phải được gửi cho</small> Tòa án trong thời hạn 05 ngày làm việc, ké từ ngày kết thúc phiên tòa, phiên họp dé lưu vào hồ sơ vụ việc dân sự.

Như vậy, có thé thay vai trị của VKS trong tố tụng dân sự vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm bảo vệ quyền và lợi ích cơng cộng, lợi ích nhà nước và lợi ích của những người “yếu thế” do những nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần, đồng thời bảo đảm hạn chế được sự tùy tiện của Tịa án trong q trình giải quyết vụ án <small>dân sự.</small>

<small>2.1.5. Hỗn phiên tịa</small>

Đề bao đảm việc tham gia tố tung của đương sự và những người tham gia tố tụng khác ở tại PTSTDS va đồng thời bảo đảm cho Tịa án có thé có đủ các điều

kiện cần thiết cho VIỆC giải quyết vụ án dân sự ở tại PTSTDS, pháp luật tô tụng dân

sự hiện hành quy định về việc hoãn PTSTDS tại Điều 208 BLTTDS năm 2011. Theo đó, căn cứ, thời hạn, thâm quyền và hình thức hỗn phiên tịa được xác định <small>như sau:</small>

<small>* Căn cứ hoãn phiên toa: HDXX sẽ hỗn PTSTDS khi có một trong các cănCỨ Sau:</small>

- Trường hợp phải thay đơi Tham phán, HTND, Thu ký Tịa án, KSV hoặc không thé tiếp tục tham gia phiên tịa mà khơng có người dự khuyết dé thay thế như quy định tại Khoản 2 Điều 51 và Khoản 2 Điều 207 BLTTDS năm 2011; vắng mặt KSV trong trường hợp VKS phải tham gia phiên tòa như quy định tại Khoản 2 Điều <small>207 BLTTDS năm 2011;</small>

- Trường hợp đương sự, người đại diện của họ, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt lần thứ nhất như quy định tại Khoản 1 Điều 199 <small>BLTTDS năm 2011;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">

- Trường hợp vắng mặt người làm chứng, người giám định mà sự có mặt của người này có ý nghĩa quan trọng trong việc tiến hành PTSTDS nhằm làm sáng tỏ các tình tiết, sự kiện của vụ án như theo quy định tại Điều 204 và 205 BLTTDS <small>năm 2011.</small>

- Trường hợp phải thay đôi người giám định mà khơng có người khác thay thế như quy định tại Khoản 2 Điều 72 BLTTDS năm 2011 hoặc khi HĐXX quyết định giám định bé sung, giam dinh lai theo quy dinh tai Khoan 4 Diéu 230 <small>BLTTDS nam 2011;</small>

- Trường hợp vắng mặt người phiên dich mà khơng có người khác thay thé, trừ trường hợp đương sự vẫn yêu cầu tiến hành xét xử như quy định tại Khoản 2 Điều 206 BLTTDS năm 2011;

Như vậy, có thé thay các căn cứ hoãn PTSTDS trong quy định của BLTTDS <small>năm 2011 so với các quy định trong BLTTDS năm 2004 đã có những hồn thiện và</small> cụ thê hơn đáp ứng yêu cầu của thực tiễn áp dụng tại Tịa án. Tuy nhiên, các căn cứ hỗn phiên tòa trong BLTTDS năm 2011 vẫn còn một số hạn chế nhất định như: có một số căn cứ hỗn phiên tòa chưa rõ ràng, chưa đầy đủ so với các trường hợp xảy ra trong thực tiễn, một số quy định và hướng dẫn áp dụng vẫn thé hiện sự duy tình hơn là duy lý nên dẫn đến việc đương sự lạm dụng dé hỗn PTSTDS nhằm trì hỗn tố tung hay có một số quy định có những cách hiểu và áp dụng khác nhau. Quy định tại Điều 199 chỉ đề cập đến việc xử lý ở hai trường hợp là Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất và lần thứ hai mà đương sự vắng mặt. Tuy nhiên, nếu đó là trường hợp Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 3, thứ 4 hoặc nhiều hơn mà việc vắng mặt đó do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng thì giải quyết như thế nào lại khơng có quy định nên thực tiễn áp dụng Điều 199 phải suy luận để áp dụng theo hướng đương sự được Tòa án triệp tập mà vắng mặt từ lần thứ 2 trở nên mà do trở ngại khách quan thì Tịa án phải hỗn phiên tịa. Vì vậy, vấn đề này cần được quy định cụ thé trong Điều 199 BLTTDS 2011 dé làm cơ sở cho việc giải quyết ở Tịa án.

Bởi vì, hiện tại theo hướng dẫn tại Điều 28 Nghị quyết số: 05/2012/NQ-HĐTP ngày

03/12/2012 của Hội đồng thâm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ hai "Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp sơ

</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">

thâm" của Bộ luật Tổ tụng dân sự (NQ số: 05/2012/NQ-HĐTP) thì Tịa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vắng mặt mà không có đơn đề nghị Tịa án xét xử vắng mặt theo quy định tại Khoản 1 Điều 199 của BLTTDS năm 2011 thi đà có hay khơng có lý do chính đáng, Tồ án hỗn phiên tồ. Tịa án chỉ tiến hành xét xử vắng mặt đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nếu Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ nhất mà thuộc một trong các trường hợp sau đây:

+ Có một hoặc một số đương sự; người đại diện của một hoặc một sỐ đương sự; người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của một hoặc một số đương sự có đơn đề nghị Tồ án xét xử văng mặt và các đương sự còn lại, người đại diện của các đương sự còn lại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự cịn lại vẫn có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

+ Tat cả các đương sự và người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ án đều có đơn đề nghị Tồ án xét xử văng mặt. Trong trường hop này, HDXX căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ dé giải quyết theo quy định pháp luật.

Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, đương sự hoặc người đại diện của họ, người bảo vệ quyên và lợi ich hợp pháp của đương sự phải có mặt tại phiên tồ, nếu văng mặt khơng vì sự kiện bất khả kháng thì xử lý theo quy định tại Khoản 2 Điều 199 của BLTTDS năm 2011. Trường hợp đương sự, người bảo vệ quyên và lợi ích hợp pháp của đương sự đã nhận được quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Khoản 2 Điều 195 của BLTTDS năm 2011, đã được Toà án tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà theo quy định từ Điều 150 đến Điều 156 của BLTTDS năm 2011 và đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã chuẩn bị tham gia phiên toà xét xử vụ án, nhưng do sự kiện bat khả kháng xảy ra đối với họ vào trước thời điểm Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để tham gia phiên toà (do thiên tai, địch hoa, bi tai nan, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu, người thân bị chết... .) nên họ khơng thể có mặt tại phiên tồ theo giấy triệu tập của Tồ án, thì Tồ án cũng hỗn phiên tồ.

</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">

Tuy nhiên, một van đề chúng ta có thé dé nhận thấy là ngay trong NQ số: 05/2012/ NQ-HDTP lại không thống nhất khi thì dùng cụm từ 1) đo chính đáng, khi thì dùng cụm từ sự kiện bat khả kháng đã dẫn đến người đọc thay rằng hướng dẫn <small>mới nhưng lại sử dụng cả những cụm từ cũ và những cụm từ mới trong khi đó,</small> BLTTDS năm 2011 đã sử dụng cụm từ mới là sự kiện bat khả kháng.

- Hoan phiên tòa khi đương sự yêu cầu giám định lại, giám định bổ sung và Tòa án thay cần thiết phải giám định lại, giám định bổ sung.

Khoản 4 Điều 230 BLTTDS năm 2011 quy định sau khi các đương sự trình <small>bày và Tịa án đã hỏi đương sự mà đương sự, người giám định đã trình bày hoặc</small> Tịa án đã cơng bố kết luận giám định mà đương sự yêu cầu Tòa án giám định lại, giám định bổ sung va Tòa án thấy cần thiết phải giám định lại, giám định bổ sung thi HDXX hỗn phiên tịa dé thực hiện việc giám định. Với quy định này, chúng ta có thé thấy việc quy định hỗn phiên tịa là khơng phù hợp bởi về ngun tắc chỉ hỗn phiên tịa ở giai đoạn bắt đầu phiên tòa, còn trường hợp này Tòa án cần tạm <small>ngừng phiên tòa là phù hợp. Tuy vậy, thời gian tạm ngừng phiên tòa 5 ngày làm</small> việc là quá ngăn nên dé bảo đảm việc giám định lại, giám định bố sung cần quy <small>định kéo dài thời gian tạm ngừng phiên tòa khi tạm ngừng phiên tòa trong trường</small> hợp này, còn các trường hợp khác địi hỏi phải tiếp tục phiên tịa lại sớm thì thời hạn tạm ngừng vẫn là 5 ngày làm việc, đồng thời nếu tạm ngừng phiên tịa vì để giám định lại, giám định bổ sung do thời gian tạm ngừng dài nên khi mở lại phiên tòa cần phải được tiễn hành lại từ đầu mới bảo đảm.

<small>* Thời hạn hỗn phiên tịa</small>

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 208 BLTTDS năm 2011 và Điều 29 của NQ số : 05/2012/NQ-HĐTP thì thời hạn hỗn phiên tồ sơ thâm không quá ba mươi ngày, ké từ ngày HDXX ra quyết định hỗn phiên tồ. Nếu phiên tồ xét xử một vụ án bị hỗn nhiều lần, thì thời hạn của mỗi lần hỗn phiên tồ khơng được q giới hạn cho phép là ba mươi ngày, kê từ ngày HDXX ra quyết định hỗn phiên tồ của lần đó. Thời gian hỗn phiên tồ khơng tính vào thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 179 của BLTTDS năm 2011 và được hướng dẫn tại Điều 14 của NQ số: 05/2012 /NQ-HĐTP. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự,

</div>

×