Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Phiên tòa sơ thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện tại tòa án nhân dân thành phố cẩm phả, tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (702.56 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THÚY HẰNG

PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ VÀ THỰC TIỄN
THỰC HIỆN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ
CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH
Chuyên ngành: Luật Dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và vụ việc nêu trong Luận văn là trung thực. Những phân tích, luận giải
để đưa ra các kết luận khoa học của Luận văn được kế thừa và phát triển trên
cơ sở có tham khảo các công trình nghiên cứu trước đó nhưng phù hợp với
những sửa đổi, bổ sung của pháp luật Tố tụng dân sự và với một góc tiếp cận,
phạm vi nghiên cứu riêng. Những kết luận của Luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thuý Hằng


LỜI CẢM ƠN
Với tấm lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn tới TS. Nguyễn
Triều Dương, người đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi
hoàn thành Luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban giám hiệu, các thầy cô
giáo Khoa sau đại học – Trường đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy
chúng tôi trong suốt thời gian vừa qua.
Đồng thời tôi cũng xin được cảm ơn chân thành tới tập thể Lãnh đạo
Toà án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và các đồng nghiệp
luôn ở bên, động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng
như nghiên cứu. Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến những
người thân trong gia đình tôi, những người luôn động viên, chia sẻ với tôi
trong quá trình học tập và nghiên cứu để hoàn thành Luận văn.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu để hoàn thiện Luận văn nhưng vẫn
không tránh khỏi có những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp
ý của của các thầy cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.

Hà nội, ngày 23 tháng 5 năm 2014
HỌC VIÊN

Nguyễn Thuý Hằng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu....................................................................... 1

2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 3
4. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................................. 3
5. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………………..4
6. Kết cấu của luận văn. ........................................................................................... 4
Chương 1................................................................................................................. 5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ .................. 5
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự .......................... 5
1.1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự .............................................................. 5
1.1.2. Đặc điểm của phiên toàn sơ thẩm dân sự ....................................................... 7
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự .......................................................... 10
1.2. Các yếu tố tác động đến việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự .................... 13
1.2.1. Các yếu tố khách quan ................................................................................. 13
1.2.2. Các yếu tố chủ quan ..................................................................................... 15
CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ ........................................... 24
2.1. Những quy định chung về phiên tòa sơ thẩm dân sự ....................................... 24
2.1.1. Nguyên tắc tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự ............................................ 24
2.1.2. Thành phần HĐXX sơ thẩm......................................................................... 26
2.1.3. Những người tham gia phiên tòa sơ thẩm dân sự.......................................... 27
2.1.4. Sự tham gia của KSV tại phiên tòa sơ thẩm dân sự ...................................... 29
2.1.5. Hoãn phiên tòa ............................................................................................. 31
2.2. Thủ tục tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự và thực tiễn thực hiện .................. 36
2.2.1. Bắt đầu phiên tòa ......................................................................................... 36

2.2.2.Hỏi tại phiên tòa……………………………………………………….37
2.2.3.Tranh luận……………………………………………………………...46
2.2.4. Nghị án và tuyên án ..................................................................................... 48



Chương 3............................................................................................................... 52
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA
SƠ THẨM DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ TỈNH
QUẢNG NINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA
SƠ THẨM DÂN SỰ ............................................................................................. 52
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về phiên tòa sơ thẩm dân sự ở Tòa án nhân
dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh ............................................................. 52
3.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và cơ cấu tổ chức của TAND thành phố
Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh .................................................................................... 52
3.1.2. Thực tiễn tiến hành phiên tòa sơ thẩm tại TAND thành phố Cẩm Phả - tỉnh
Quảng Ninh ........................................................................................................... 56
3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về phiên tòa sơ thẩm dân sự ................ 61
3.2.1. Các kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về PTSTDS ...................... 61
3.2.2. Các kiến nghị nhằm thực hiện các quy định pháp luật về phiên tòa sơ thẩm
dân sự .................................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ........................................................................................................... 72
THỐNG KÊ TỔNG HỢP TÌNH HÌNH GIẢI QUYẾT CÁC VỤ VIỆC DÂN SỰ
CỦA NGÀNH TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH QUẢNG NINH .............................. 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 75


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS năm

: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004


2004

:

BLTTDS năm

Bộ luật tố tụng dân sự đã được sửa đổi bổ sung năm 2011

2011
HĐXX

: Hội đồng xét xử

HTND

: Hội thẩm nhân dân

KSV

: Kiểm sát viên

NQ số:

: Nghị quyết số: 05/2012/NQ-HĐTP NGÀY 03/12/2012 của

05/2012/NQ-

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao


HĐTP
PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ

: Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động

PTSTDS

Phiên toà sơ thẩm dân sự

TANDTC

: Tòa án nhân dân Tối cao

Tòa án Cẩm Phả

: Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh

VKS

: Viện kiểm sát

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Tố tụng dân sự gồm nhiều giai đoạn và thủ tục khác nhau như: khởi kiện và
thụ lý; chuẩn bị xét xử sơ thẩm; phiên tòa sơ thẩm; giai đoạn phúc thẩm; thủ tục đặc
biệt giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên, giai đoạn xét xử sơ thẩm và phiên tòa sơ
thẩm dân sự (PTSTDS) là giai đoạn rất quan trọng. Bởi vì ở PTSTDS, toàn bộ các
tài liệu, chứng cứ của vụ án và những yêu cầu của các bên đương sự được xem xét,
đánh giá trực tiếp, công khai, khách quan và toàn diện để Tòa án ra bản án, quyết
định.
Chủ trương, đường lối và chiến lược cải cách tư pháp đã được xác định rõ
trong Nghị quyết số: 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 và Nghị quyết số: 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong đó đã chỉ rõ:
Cần đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách
nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm
tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên
tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá các hoạt động tư pháp [19, tr.5].
Thực hiện đường lối cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã
hội chủ nghĩa (XHCN), Quốc hội khóa XI nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã thông qua Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) có hiệu lực từ ngày
01/01/2005. BLTTDS này cũng đã được sửa đổi, bổ sung bởi Luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2011 (BLTTDS năm 2011). Trong đó,
các quy định về PTSTDS trong BLTTDS năm 2011 đã được sửa đổi, bổ sung đã
khắc phục được nhiều điểm bất cập, hạn chế của các quy định trước đó về PTSTDS
trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS), Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ).
Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành BLTTDS, BLTTDS năm 2011 và các văn
bản hướng dẫn thi hành cho thấy vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế về các quy định về
PTSTDS cũng như các quy định có liên quan đến PTSTDS như: một số quy định về
PTSTDS chưa cụ thể, chưa phù hợp với thực tiễn xét xử, dẫn đến việc hiểu và áp



2
dụng tại các Tòa án không thống nhất, đòi hỏi cần phải được nghiên cứu toàn diện
nhằm tìm ra các giải pháp khắp phục.
Ngoài ra, do các quy định của pháp luật về PTSTDS của BLTTDS năm 2011
có những điểm mới so với quy định trước đó và do các nguyên nhân khách quan và
chủ quan đã dẫn đến những sai phạm trong quá trình tiến hành PTSTDS trên thực tế
như: tình trạng hoãn PTSTDS vẫn còn nhiều; vẫn tiến hành PTSTDS theo thủ tục cũ
trước đây trong suốt quá trình ở phiên tòa chỉ có thủ tục hỏi và đáp, không có tranh
luận hoặc tranh luận rất sơ sài; tiến hành nghị án chiếu lệ (biên bản nghị án và biên
bản phiên tòa thể hiện không thống nhất về thời gian mở phiên tòa, kết thúc phiên
tòa) [46] …
Vì các lý do trên đây, học viên đã lựa chọn đề tài: “Phiên tòa sơ thẩm dân
sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh” làm nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
PTSTDS là khâu trung tâm và quyết định kết quả của quá trình giải quyết vụ
án dân sự. Vì vậy, PTSTDS luôn được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu pháp
luật. Trước đây đã có một số công trình nghiên cứu giải quyết cơ sở lý luận, thực
tiễn cho từng vấn đề của Tố tụng dân sự liên quan đến PTSTDS như đề tài khoa học
cấp bộ: “Vấn đề tổ chức phiên tòa và việc thực hiện các quy định của pháp luật tổ
chức tại phiên tòa của Tòa án nhân dân”, mã số 97-98/043/ĐT của Tòa án nhân dân
Tối cao (TANDTC) đã đề cập đến vấn đề tổ chức phiên tòa nói chung như: Bài trí
phòng xử án, tư thế, tác phong, trang phục của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng, hình thức xét xử công khai, xét xử kín hay lưu động…;
Luận văn thạc sĩ luật học của Ngô Thị Minh Ngọc với đề tài: “Thủ tục xét xử các vụ
án dân sự tại phiên tòa sơ thẩm theo qui định của PLTTGQCVADS và thực tiễn áp
dụng các qui định đó tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. Ngoài ra, còn có luận
văn thạc sĩ luật học của Nguyễn Thị Thu Hà với đề tài: “Tranh trụng tại PTSTDS”,
đặc biệt là luận án tiến sỹ luật học của Bùi Thị Huyền với đề tài “PTSTDS những

vấn đề lý luận và thực tiễn”…Các công trình này đã giải quyết khá toàn diện các
vấn đề lý luận và thực tiễn về PTSTDS. Tuy nhiên, các vấn đề được các công trình


3
này nghiên cứu chung về PTSTDS, nhưng chưa có nghiên cứu ở một phạm vi hẹp
về PTSTDS và việc tiến hành PTSTDS ở một Tòa án cụ thể với những đặc thù về
điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản
về PTSTDS, các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về PTSTDS và thực tiễn
thực hiện tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh (Tòa án Cẩm
Phả). Trên cơ sở đó, xác định rõ các cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất
những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện, bảo đảm thực hiện các quy định pháp luật
Việt Nam về PTSTDS nói chung và việc tiến hành PTSTDS tại Tòa án Cẩm Phả.
Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu có nhiệm vụ giải
quyết những vấn đề cơ bản sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về PTSTDS;
- Phân tích làm rõ các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về PTSTDS;
- Phân tích và đánh giá về thực tiễn thực hiện PTSTDS để chỉ ra những kết
quả đạt được, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân;
- Phân tích và luận giải để đề xuất các kiến nghị cụ thể về hoàn thiện và thực
hiện pháp luật tố tụng về PTSTDS.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đây là một đề tài rất rộng, bao gồm rất nhiều vấn đề về lý luận cũng như
thực tiễn, Đặc biệt, trước đây đã có những công trình nghiên cứu rất công phu về
vấn đề này. Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi của luận văn thạc sĩ luật học và
với những kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình làm công tác xét xử tại
ngành Tòa án, học viên tập trung vào nghiên cứu về các vấn đề như: khái niệm, đặc
điểm, ý nghĩa của PTSTDS, các yếu tố bảo đảm tiến hành PTSTDS, nội dung các

quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về PTSTDS và đặc biệt
chỉ nghiên cứu về thực tiễn thực hiện các PTSTDS tại Tòa án Cẩm Phả trong nhưng
năm gần đây.


4
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải
cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN. Ngoài ra, để
hoàn thành luận văn còn sử dụng các pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành như:
lịch sử, phân tích, so sánh, chứng minh, tổng hợp và phương pháp thống kê, khảo
sát thực tế.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM
DÂN SỰ
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT
NAM HIỆN HÀNH VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ CẨM PHẢ TỈNH QUẢNG NINH VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ


5
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHIÊN TÒA SƠ THẨM DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự

Trong toàn bộ các thủ tục được Tòa án tiến hành trong giai đoạn xét xử sơ
thẩm vụ án dân sự thì thủ tục tiến hành PTSTDS có tầm quan trọng đặc biệt, quyết
định đến kết quả giải quyết các vụ án dân sự. Vì vậy, việc xác định và làm rõ được
khái niệm PTSTDS là cơ sở quan trọng để tìm hiểu các vấn đề lý luận về phiên tòa,
từ đó giúp chúng ta có cái nhìn đầy đủ và toàn diện về PTSTDS. PTSTDS có thể
được xem xét ở những góc độ khác nhau, có thể là một thủ tục tố tụng hoặc là một
giai đoạn của quá trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Tuy nhiên,
tác giả luận văn chỉ đi vào nghiên cứu PTSTDS dưới góc độ là một thủ tục tố tụng.
Vậy, dưới góc độ này PTSTDS là gì ?
1.1.1. Khái niệm phiên tòa sơ thẩm dân sự
Hiểu theo nghĩa chung nhất về ngữ nghĩa theo từ điển tiếng Việt thì “Phiên”
là lần mà từng người, từng nhóm phải đảm nhiệm để bảo đảm tính liên tục, còn
“Tòa” được hiểu là: Tòa án (nói tắt), ra tòa, tòa mở phiên xét xử công khai [56, tr.
1257 và 1597]. Vì vậy, ghép hai từ này ta có thể thấy: phiên tòa là một lần Tòa án
tiến hành để giải quyết vụ việc.
Theo nghĩa pháp lý, “phiên tòa” đã được giải thích trong các từ điển luật học
của nhiều quốc gia cũng có những tương đồng, trong từ điển luật học Việt Nam
phiên tòa là: “hình thức hoạt động xét xử của Tòa án” [55, tr. 62] hoặc theo từ điển
Pháp – Việt, pháp luật – hành chính [53, tr. 40], phiên tòa là phiên họp của Tòa án
xét xử các tội phạm, các tranh chấp hay phiên tòa có nghĩa là “Audience”, là phiên
họp (Sesance au recours) để Tòa án xem xét yêu cầu của các bên, thẩm cứu vụ kiện,
nghe lời biện hộ của các bên và đưa ra phán quyết (Từ điển Luật học của Pháp,
trang 55). Trong từ điển luật học Anh [58, tr. 407], phiên tòa có nghĩa là “trial”.
“Trial” có nghĩa là sự xét xử một vụ việc dân sự hoặc hình sự trước Tòa án có thẩm
quyền, các phiên tòa phải được tiến hành công khai (rất hiếm khi có ngoại lệ). Theo
một cách giải thích khác, “Trial” có nghĩa là phiên xử tại Tòa án với sự tham gia
của Thẩm phán hoặc Hội đồng bồi thẩm để quyết định về vụ việc.


6

Như vậy, về mặt pháp lý chúng ta có thể thấy có khá nhiều cách định nghĩa
khác nhau về phiên tòa, nhưng tựu chung lại thì phiên tòa là phiên họp có những
đặc thù về người tiến hành, người tham gia và nguyên tắc, trình tự, thủ tục tiến
hành.
Ngoài ra, để có thể làm rõ PTSTDS là gì, chúng ta cũng cần thấy được “Sơ
thẩm” là gì ? Theo đại từ điển tiếng Việt là “xét xử lần đầu một vụ việc ở Tòa án
cấp thấp” [56, tr.146]. Còn dưới góc độ pháp lý, sơ thẩm dân sự là việc giải quyết
lần đầu một vụ việc dân sự, bao gồm các hoạt động khởi kiện, thụ lý, chuẩn bị xét
xử, hòa giải và ở PTSTDS, PTSTDS là khâu cuối cùng của sơ thẩm dân sự và tại đó
Tòa án sẽ xét xử để đưa ra được phán quyết về vụ việc dân sự.
Theo Giáo sư John Henry Merryan (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân
Tối cao năm 2000 "Về pháp luật tố tụng dân sự") thì: Sự cần thiết khi đưa một số
những người vào nghe lời khai của nhân chứng, xem xét các chứng cứ, tìm ra sự
thật và để áp dụng sự thật vào luật pháp dưới sự hướng dẫn của Thẩm phán, đã đẩy
phiên toà thành một dạng sự kiện… Sẽ tự nhiên và hiệu quả hơn cho các bên, cho
luật sư, cho Thẩm phán của họ nếu có thể gặp nhau trong một thời gian nhất định để
thực hiện, một lần duy nhất, phần tố tụng dân sự cần tới sự tham gia chung của họ.
Sự kiện đó như chúng ta biết, là phiên toà. Đây không phải là một định nghĩa về
PTSTDS mà là một sự diễn giải về thành phần chủ thể tiến hành như Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân (HTND) hay Bồi thẩm đoàn và các chủ thể tham gia là các bên
đương sự, luật sư, nhân chứng nhằm xem xét chứng cứ, xác định tình tiết của vụ
việc để áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc diễn ra trong khoảng thời gian, địa
điểm nhất định.
Theo thạc sĩ Ngô Thị Minh Ngọc phiên tòa được hiểu “là một phiên họp đặc
biệt và các trình tự của phiên họp này do pháp luật về tố tụng quy định chặt chẽ mà
ở đó Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án không thể tùy tiện thêm, bớt các bước trong quá
trình xét xử hoặc làm sai các trình tự này” [28, tr.11]. Khái niệm này đã phản ánh
được một số dấu hiệu của phiên toà như là một phiên họp, có tính chặt chẽ và thủ
tục, do Hội đồng xét xử (HĐXX) tiến hành. Tuy nhiên, đây là việc mô tả một phiên



7
tòa nói chung chứ chưa định nghĩa cụ thể về PTSTDS và chưa làm rõ được ở phiên
tòa còn có sự tham gia của đương sự, người tham gia tố tụng khác.
Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự năm 2005 của Trường Đại học Luật Hà
Nội thì “phiên toà sơ thẩm vụ án dân sự là phiên xét xử vụ án dân sự lần đầu của
Tòa án” [51, tr. 265]. Khái niệm này đã giải thích về PTSTDS theo BLTTDS Việt
Nam ở mức độ khái quát nhất, tuy nhiên chưa khái quát được đầy đủ các đặc điểm
cơ bản của PTSTDS.
Từ việc phân tích trên cho thấy, PTSTDS là phiên họp lần đầu do Tòa án tiến
hành với sự tham gia của những người tham gia tố tụng được thực hiện trên những
nguyên tắc và thủ tục do pháp luật quy định nhằm giải quyết vụ án dân sự.
1.1.2. Đặc điểm của phiên toà sơ thẩm dân sự
PTSTDS cũng giống như các phiên tòa sơ thẩm khác nên PTSTDS có những
đặc điểm chung của phiên toà sơ thẩm, đồng thời lại có những điểm khác so với
phiên tòa sơ thẩm hình sự, phiên tòa sơ thẩm hành chính hay phiên toà phúc thẩm
dân sự và phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự hoặc với phiên họp giải quyết
việc dân sự như theo quy định của PLTTDS Việt Nam hiện hành. Để làm rõ các đặc
điểm này, chúng ta phân biệt một số nội dung sau đây:
* Phân biệt giữa PTSTDS với phiên tòa sơ thẩm hình sự và phiên tòa sơ
thẩm hành chính.
Về bản chất, các phiên tòa đều là do Tòa án là cơ quan Nhà nước thực hiện
quyền lực nhà nước về tư pháp để thực hiện quyền tài phán để đưa ra phán quyết
giải quyết. Tuy nhiên, do đối tượng giải quyết ở các phiên tòa cũng khác nhau nên
PTSTDS có những sự khác biệt với các phiên tòa sơ thẩm hình sự, sơ thẩm hành
chính. Cụ thể:
- PTSTDS được tiến hành trên cơ sở và để giải quyết yêu cầu của đương sự
Đối với việc giải quyết vụ án hình sự là giải quyết mối quan hệ giữa Nhà
nước và người thực hiện hành vi phạm tội nên phiên tòa sơ thẩm hình sự được tiến
hành trên cơ sở các quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng. Các quyết định đó

sẽ là căn cứ để Tòa án tiến hành và xác định phạm vi giải quyết vụ án hình sự. Tuy
nhiên, việc giải quyết vụ việc dân sự là giải quyết các quyền và nghĩa vụ dân sự


8
thuần túy của các bên và trong một số trường hợp liên quan đến lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước nên để có việc giải quyết vụ án và có PTSTDS thì vấn đề
trước hết là đương sự có yêu cầu Tòa án giải quyết, không có yêu cầu thì cũng sẽ
không có việc giải quyết. Trong suốt quá trình tố tụng dân sự (TTDS), Tòa án giải
quyết trong phạm vi yêu cầu của đương sự; có rất nhiều cách giải quyết, có thể
thông qua hòa giải nhưng có thể phải tiến hành PTSTDS khi vẫn còn những vấn đề
cần được đưa ra xem xét ở PTSTDS.
- Phạm vi xét xử của Tòa án và diễn biến của PTSTDS luôn tồn tại trong
trạng thái động
Trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án hình sự, vụ án hành chính thì phạm
vi xét xử khá rõ ràng và ổn định và rất ít thay đổi. Tuy nhiên, trong TTDS, đương
sự có quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự nên trong suốt quá trình trước
hay tại PTSTDS phạm vi giải quyết của Tòa án luôn có sự biến động do trong quá
trình đó đương sự đã khởi kiện, họ có quyền tự quyết định về việc tự tham gia
TTDS hay ủy quyền cho người khác, tự quyết định về phạm vi, nội dung, mức độ
yêu cầu bằng việc thay đổi, bổ sung hoặc rút yêu cầu. Trong trường hợp đó phạm
vi xét xử của Tòa án bị thay đổi theo, đây cũng chính là một trong những lý do để
chúng ta có thể hiểu được sự phức tạp và khó khăn khi Tòa án giải quyết các vụ án
dân sự. Vì vậy, khi tiến hành PTSTDS, trước khi đi vào giải quyết về nội dung vụ
án, Tòa án phải hỏi các đương sự về việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu của họ; về
việc họ có hòa giải được với nhau hay không: Nếu các đương sự rút yêu cầu và việc
rút yêu cầu đó là tự nguyện thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án;
nếu các đương sự hòa giải được với nhau thì Tòa án ra quyết định công nhận sự
thỏa thuận. Chỉ khi vẫn còn yêu cầu Tòa án phải giải quyết thì các thủ tục phiên tòa
mới thực hiện để xem xét về nội dung yêu cầu. Vì vậy, chúng ta có thể thấy diễn

biến của PTSTDS phụ thuộc chủ yếu vào quyền tự định đoạt của các đương sự.
- Tại PTSTDS việc chứng minh chủ yếu thuộc về các bên đương sự
Trong tố tụng hình sự, trách nhiệm chứng minh hành vi phạm tội thuộc về
các cơ quan tiến hành tố tụng. Bị can, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải
chứng minh mình là vô tội. Vì vậy, tại phiên tòa hình sự, nghĩa vụ chứng minh tội


9
phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng. Tuy nhiên, trong TTDS, các đương sự
là người trong cuộc nên hơn ai hết họ có thể chứng minh được các tình tiết, sự kiện
mà Tòa án đang giải quyết phát sinh giữa họ với nhau. Vì vậy, việc chứng minh
trước hoặc tại PTSTDS trước hết thuộc trách nhiệm của các đương sự và của những
người tham gia tố tụng như: người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự. Vì vậy, thủ tục tiến hành PTSTDS có những điểm khác biệt so với
phiên tòa sơ thẩm hình sự.
So với phiên tòa sơ thẩm hành chính, chúng ta có thể thấy PTSTDS có
những đặc điểm giống so với phiên tòa sơ thẩm hành chính. Bởi vì, về bản chất các
đương sự trong tố tụng dân sự và tố tụng hành chính là bình đẳng với nhau [37, tr.
262]. Nếu luật hành chính là luật công và trong quan hệ hành chính các bên các chủ
thể này bất bình đẳng nhưng trước Tòa án thì các chủ thể bất bình đẳng trong quan
hệ hành chính đã trở thành các chủ thể bình đẳng của pháp luật tố tụng hành chính.
BLTTDS năm 2004 ra đời lần đầu tiên xuất hiện thuật ngữ mới đó là “việc
dân sự” đây là những vụ việc mà trong đó Tòa án giải quyết các yêu cầu mà không
có tranh chấp và để giải quyết việc dân sự bằng một phiên họp chứ không phải là
một phiên tòa. Vì vậy, bên cạnh khái niệm PTSTDS còn có khái niệm phiên họp.
Phiên họp dùng để chỉ phiên giải quyết các việc dân sự lần đầu của Tòa án.
PTSTDS dùng để chỉ phiên xét xử lần đầu vụ án dân sự của Tòa án. Phiên họp giải
quyết việc dân sự được rút gọn hơn về thành phần tiến hành tố tụng, thủ tục và thời
hạn giải quyết. Thành phần tiến hành tố tụng của PTSTDS có HTND tham gia
nhưng đối với phiên họp giải quyết việc dân sự không HTND tham gia, do Thẩm

phán tiến hành, những người tham gia cũng ít hơn, các bên không có tranh chấp,
mâu thuẫn về quyền và lợi ích nên thủ tục tiến hành phiên họp giải quyết việc dân
sự cũng đơn giản hơn so với PTSTDS.
* Phân biệt giữa PTSTDS với phiên toà phúc thẩm
Mặc dù thống nhất trong một thủ tục giải quyết vụ án dân sự nhưng PTSTDS
có những điểm khác biệt với các phiên tòa phúc thẩm dân sự như: đây là phiên họp
để Tòa án giải quyết lần đầu với một vụ án dân sự, trong khi đó phiên tòa phúc thẩm
là phiên xét xử lần thứ hai và thông thường phiên tòa phúc thẩm được thực hiện sau


10
khi đã có PTSTDS nhưng sau đó đương sự có kháng cáo, Viện kiểm sát (VKS) có
kháng nghị phúc thẩm. Kết quả giải quyết của Tòa án cấp sơ thẩm tại PTSTDS có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định có việc xét xử phúc thẩm hay không. Bởi vì,
nếu PTSTDS được thực hiện tốt và đưa ra được bản án, quyết định đúng đắn, khách
quan và được đương sự, VKS đồng tình thì sẽ có thể không có việc xét xử phúc
thẩm và điều đó cũng đồng nghĩa là không có phiên tòa phúc thẩm dân sự. Ngoài ra,
khi có việc xét xử tại phiên tòa phúc thẩm dân sự thì kết quả của việc tiến hành
PTSTDS là cơ sở và tiền đề để tiến hành phiên tòa phúc thẩm dân sự. Bởi vì,
HĐXX phúc thẩm phải tôn trọng kết quả xét xử của PTSTDS, không xét xử lại toàn
bộ nội dung của vụ án dân sự mà chỉ xét xử những nội dung của vụ án đã được giải
quyết ở Tòa án cấp sơ thẩm mà có kháng cáo, kháng nghị.
Ngoài ra, PTSTDS có sự tham gia của tất cả những người tham gia tố tụng
bao gồm các đương sự, người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người phiên dịch và sự
tham gia của đại diện VKS (trong trường hợp VKS bắt buộc phải tham gia
PTSTDS) vì đây là phiên họp lần đầu để xem xét tất cả các vấn đề của vụ án. Tòa
án chỉ xét xử vắng mặt họ trong trường hợp có căn cứ do luật định, khi đó lời khai
hay tài liệu do người vắng mặt cung cấp phải được công bố công khai. Đây là một
nội dung thể hiện nguyên tắc Tòa án xét xử trực tiếp, công khai. Tuy nhiên, phiên

toà phúc thẩm không nhất thiết phải triệu tập đầy đủ những người tham gia tố tụng
do phạm vi xét xử của Tòa phúc thẩm thường hẹp hơn phạm vi xét xử của Tòa án sơ
thẩm. Chỉ đương sự kháng cáo, đương sự không kháng cáo nhưng có quyền và lợi
ích liên quan đến việc xem xét kháng cáo, kháng nghị hay người làm chứng, người
giám định, người phiên dịch cần thiết cho việc xem xét kháng cáo, kháng nghị mới
phải tham gia ở phiên tòa phúc thẩm. Đặc biệt, ở PTSTDS có thể VKS không bắt
buộc phải tham gia thì phiên tòa phúc thẩm bắt buộc các trường hợp VKS phải tham
gia.
1.1.3. Ý nghĩa của phiên tòa sơ thẩm dân sự
Như đã phân tích trên đây, chúng ta thấy rằng PTSTDS là trung tâm của hoạt
động tố tụng ở giai đoạn sơ thẩm, kết quả của việc tiến hành PTSTDS có giá trị


11
quyết định với việc giải quyết quyền và lợi ích của các bên đương sự. Vì vậy, việc
tiến hành PTSTDS có rất nhiều ý nghĩa quan trọng thể hiện ở những nội dung cơ
bản sau đây:
- Thứ nhất, thông qua PTSTDS có thể đánh giá được một cách tổng thể và
toàn diện chất lượng và hiệu quả của các hoạt động mà Tòa án thực hiện trước đó
như: thụ lý, chuẩn bị xét xử, hòa giải để từ đó có thể đưa ra những xử lý kịp thời
nhằm khắc phục các sai sót, vi phạm pháp luật của hoạt động ở các giai đoạn tố
tụng trước PTSTDS. Chẳng hạn, tại PTSTDS, HĐXX có thể xác định được việc thụ
lý có đúng không, các hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ đã được thực hiện
đúng chưa, đầy đủ chưa, Tòa án đã tiến hành hòa giải theo quy định của pháp luật
chưa… PTSTDS là hoạt động tố tụng quan trọng nhất ở giai đoạn xét xử sơ thẩm và
toàn bộ quá trình Tòa án giải quyết vụ án dân sự. Vì vậy, việc tiến hành PTSTDS
được thực hiện tốt, HĐXX ra được các bản án, quyết định sơ thẩm đúng đắn, khách
quan sẽ bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời hạn chế
việc kháng cáo, kháng nghị phúc thẩm hay khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm
làm mất thời gian, công sức và tiền bạc của đương sự và của Tòa án.

Trong trường hợp vụ án được giải quyết mà kết thúc ngay sau PTSTDS thì sẽ
bảo đảm việc giải quyết vụ án được nhanh chóng và quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự được bảo vệ kịp thời, tiết kiệm chi phí tố tụng cho Nhà nước và các
đương sự. Như vậy có thể thấy, nếu không có PTSTDS sẽ không có bản án sơ thẩm
và cũng không thể có việc xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án đó.
- Thứ hai, thông qua việc tiến hành PTSTDS sẽ có ý nghĩa rất lớn đối với
hoạt động lập pháp. Bởi vì, thông qua việc tiến hành PTSTDS, những người tiến
hành tố tụng và tham gia tố tụng sẽ tiến hành hàng loạt các thủ tục nhằm kiểm tra,
phân tích đánh giá yêu cầu, chứng cứ, tài liệu, cũng như phân tích, đánh giá các quy
định của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng để ra bản án, quyết định giải quyết
vụ án dân sự. Thông qua hoạt động này, những người tiến hành tố tụng, những
người tham gia tố tụng sẽ phát hiện ra những bất cập, hạn chế của các quy định
pháp luật nội dung, cũng như pháp luật hình thức để qua đó tổng kết và có những đề


12
xuất sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật hoặc ban hành các văn bản pháp luật
nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và khắc phục những hạn chế về pháp luật.
Ngoài ra, chúng ta thấy một hạn chế khó khắc phục được của hệ thống luật
thành văn là thiếu tính cụ thể mà để có thể giải quyết được hạn chế này, chúng ta
cần nghiên cứu toàn diện và nghiêm túc để có thể đưa vào một nguyên tắc áp dụng
án lệ trong pháp luật về tố tụng. Khi đó, kết quả giải quyết của PTSTDS sẽ trở
thành một chuẩn mực thứ hai bên cạnh chuẩn mực thứ nhất là các quy định của
pháp luật do Nhà nước ban hành để Tòa án giải quyết các vụ án dân sự phát sinh
trong đời sống xã hội.
- Thứ ba, thông qua PTSTDS giúp cho người dân nâng cao được ý thức tôn
trọng pháp luật, đồng thời xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm pháp luật.
Thông qua việc xét xử công khai tại PTSTDS với sự tham gia của người
tham gia tố tụng và những ngươi tham dự phiên tòa đã bảo đảm được một mục đích
khác của việc giải quyết đó là việc phổ biến, tuyên truyền về pháp luật cho người

dân, đồng thời việc xét xử nghiêm minh sẽ răn đe và phòng ngừa được những hành
vi vi phạm pháp luật. Qua PTSTDS, HĐXX giải quyết xác định các quyền và nghĩa
vụ của các bên trong bản án sẽ giúp các đương sự nhận thức được quy định của
pháp luật, nhận thức được hành vi sai trái của mình để sửa chữa, khắp phục, đồng
thời đương sự cũng thấy được những sai sót của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
có liên quan nhằm kiến nghị các cơ quan này khắc phục.
Ngoài ra, việc xét xử với chất lượng tốt tại PTSTDS sẽ góp phần bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, đảm bảo công bằng và ổn định xã hội,
củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, đảm bảo uy tín của
cơ quan tư pháp, của Tòa án.
Như vậy, thông qua PTSTDS, Tòa án thực hiện việc tuyên truyền, giáo dục
pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, củng cố lòng tin của nhân dân
vào đường lối, chính sách và pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động tiến
hành PTSTDS được tiến hành tốt sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả của công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục pháp luật và thực hiện tốt việc tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Tuy nhiên, nếu


13
PTSTDS tiến hành có nhiều vi phạm thì hệ quả làm cho mọi người thiếu tin tưởng
vào hoạt động xét xử của Tòa án dẫn đến tâm lý coi thường sự tôn nghiêm của pháp
luật. Đặc biệt, thông qua việc tiến hành PTSTDS, chúng ta có thể đánh giá được
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của Thẩm phán, HTND, KSV, người bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của đương sự, người giám định, người phiên dịch. Qua
PTSTDS những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng có thể tích lũy
thêm kinh nghiệm nghề nghiệp, kỹ năng, trình độ chuyên môn.
1.2. Các yếu tố tác động đến việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm dân sự
PTSTDS là một hoạt động đặc biệt quan trọng do Tòa án tiến hành trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ thẩm. Việc tiến hành PTSTDS do
những người tiến hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật tố tụng với sự

tham gia của những người tham gia tố tụng. Việc tiến hành phiên tòa chịu ảnh
hưởng của các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan. Để các phiên tòa sơ thẩm
có thể tiến hành với hiệu quả tốt chúng ta cần xác định được đầy đủ các yếu tố để
nhằm tìm ra được những giải pháp đồng bộ nhằm phát huy những tác động tích cực
và hạn chế những tác động tiêu cực. Ảnh hưởng tới việc tiến hành phiên tòa sơ thẩm
vụ án dân sự bao gồm các yếu tố sau:
1.2.1. Các yếu tố khách quan
* Yếu tố kinh tế - chính trị - văn hóa – xã hội
Kinh tế và chính trị luôn có những tác động đến mọi mặt của đời sống xã
hội. Với một nền kinh tế mới bước đầu phát triển mà lại phải gánh chịu những ảnh
hưởng nghiêm trọng của khủng hoảng kinh tế thế giới thì nó sẽ tác động làm gia
tăng các tranh chấp, xung đột về lợi ích, đồng thời cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc
áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng pháp luật để tiến hành PTSTDS nói riêng.
Thực tế cho thấy nền kinh tế Việt Nam đã và đang chịu sự tác động của nhiều yếu
tố trong nước và quốc tế khiến cho nền kinh tế thiếu ổn định, giá trị đồng tiền Việt
Nam thay đổi khá nhanh nên khi văn bản pháp luật định ra một quy định nào đó thì
có thể không lâu sau nó đã trở nên không còn phù hợp nữa. Chẳng hạn, pháp luật tố
tụng quy định sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự nhưng
với điều kiện kinh tế còn rất khó khăn của đương sự thì đương sự đâu có thuê hay


14
mời được luật sư tham gia PTSTDS.
Các yếu tố xã hội có thể tác động đến chất lượng quyết định áp dụng pháp
luật một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Tác động gián tiếp là trường hợp các yếu tố
xã hội tác động đến quá trình xây dựng pháp luật làm cho các quy phạm pháp luật
phù hợp với điều kiện xã hội. Pháp luật càng phản ánh đầy đủ, khách quan các yếu
tố xã hội thì càng hợp lí và vì vậy quyết định áp dụng ban hành trên cơ sở pháp luật
đó càng có nhiều khả năng có chất lượng cao. Tác động trực tiếp là trường hợp các
yếu tố xã hội liên quan trực tiếp đến điều kiện, hoàn cảnh áp dụng pháp luật cụ thể,

đến khả năng thực hiện quyết định áp dụng pháp luật cụ thể, những yếu tố này chi
phối nội dung quyết định áp dụng ở một mức độ nhất định. Vì vậy, khi áp dụng
pháp luật, bên cạnh những điều kiện, tiêu chuẩn cứng do pháp luật quy định thì cơ
quan, người có thẩm quyền phải xem xét những nét riêng biệt của từng trường hợp
áp dụng, những điều kiện cụ thể tạo nên bối cảnh phát sinh sự việc cần áp dụng.
Chẳng hạn, để tiến hành các PTSTDS nhằm giải quyết một vụ việc về hôn nhân và
gia đình thì cần tìm hiểu kỹ lưỡng về nguyên nhân, thực trạng quan hệ vợ chồng,
điều kiện hoàn cảnh của các bên … mới có thể tiến hành PTSTDS để có thể giải
quyết tốt được. Ở đây, các yếu tố tự nhiên, xã hội, thậm chí cả yếu tố chính trị đều
ảnh hưởng đến nội dung của quyết định áp dụng, đều cần được quan tâm thích
đáng. Chính vì cân nhắc các yếu tố xã hội trong từng trường hợp áp dụng pháp luật
cụ thể mà việc áp dụng pháp luật mới đảm bảo được sự linh hoạt, sống động của
pháp luật với sự đa dạng vốn có của cuộc sống và nhờ đó nâng cao hiệu quả điều
chỉnh của pháp luật nói chung và tiến hành PTSTDS nói riêng.
* Chất lượng của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nói chung và việc tiến hành
PTSTDS nói riêng có hai loại qui phạm pháp luật được áp dụng là quy phạm nội
dung và qui phạm hình thức. Qui phạm pháp luật nội dung chỉ rõ đối tượng áp
dụng, loại quan hệ được áp dụng, nghĩa là nó có vai trò tạo lập cơ sở cho phép tiến
hành áp dụng pháp luật được hay không; chỉ rõ các quyết định có thể được ban hành
trong quá trình áp dụng pháp luật. Trong TTDS các quy phạm pháp luật nội dung
bao gồm: quy phạm pháp luật dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương mại,


15
lao động. Qui phạm pháp luật hình thức hay qui phạm pháp luật thủ tục qui định
cách thức tiến hành áp dụng pháp luật, các bước hay các giai đoạn tiến hành áp
dụng pháp luật. Áp dụng pháp luật trong việc tiến hành PTSTDS cũng song hành cả
áp dụng pháp luật về nội dung và pháp luật về hình thức.
Quy phạm pháp luật đóng một vai trò quan trọng trong quá trình áp dụng

pháp luật, đây là cơ sở pháp lý cho việc triển khai các hoạt động, thủ tục ở các giai
đoạn tố tụng, nhất là tại PTSTDS. Một hệ thống pháp luật có chất lượng cao là điều
kiện đầu tiên để có thể có được quyết định áp dụng pháp luật có chất lượng cao.
Chất lượng của qui phạm pháp luật thể hiện ở sự phù hợp với quan hệ xã hội cần
điều chỉnh, không tạo nên sự khác biệt trong nhận thức nội dung, không đem lại khả
năng xung đột pháp luật và những hệ lụy pháp lý phức tạp.
Để đảm bảo chất lượng của hệ thống quy phạm pháp luật, cần đảm bảo cả
hai yếu tố tính thống nhất và tính khách quan. Pháp luật thống nhất sẽ giúp các chủ
thể dễ dàng lựa chọn các quy phạm để việc áp dụng được thống nhất và loại bỏ cơ
hội để người áp dụng pháp luật lợi dụng pháp luật vào các mục đích riêng. Pháp luật
khách quan sẽ phản ánh đúng thực tiễn và xu hướng vận động của đời sống xã hội.
Ngoài ra, pháp luật vừa phải có tính khái quát, phổ biến, vừa có khả năng thích ứng
với các điều kiện cụ thể để có thể áp dụng pháp luật một cách công bằng và có sức
thuyết phục trong hầu hết các trường hợp. Vì vậy, hệ thống pháp luật tố tụng nói
chung và các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về PTSTDS hoàn thiện và phù
hợp với thực tế sẽ là yếu tố tác động đến hiệu quả của việc tiến hành PTSTDS.
Ngược lại nếu quy định này còn bất cập, hạn chế và chưa phù hợp thì việc tiến hành
PTSTDS sẽ gặp những khó khăn, trở ngại và hiệu quả không cao.
1.2.2. Các yếu tố chủ quan
* Chất lượng của đội ngũ tiến hành tố tụng tại PTSTDS
Tại PTSTDS, Thẩm phán là người nhân danh Nhà nước thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn trong việc xét xử. Do vậy, Thẩm phán là chủ thể không thể thiếu
được trong một PTSTDS. Có thể là một Thẩm phán hoặc HĐXX gồm ba Thẩm
phán. Tùy theo truyền thống tố tụng mà vai trò của Thẩm phán tại PTSTDS có
những điểm khác nhau.


16
Đối với các nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng, tại PTSTDS Thẩm
phán chỉ kiểm tra lại tính hợp pháp và tính có căn cứ của các chứng cứ do các bên

cung cấp. Do đó, Thẩm phán chỉ giữ vai trò như trọng tài, đảm bảo sự tuân thủ các
thủ tục tố tụng và ra phán quyết dựa trên các chứng cứ mà các bên chứng minh tại
PTSTDS. Việc tiến hành các thủ tục tố tụng là trách nhiệm của các bên với sự trợ
giúp của Luật sư. Thẩm phán chỉ can thiệp vào việc điều khiển phiên tòa để cuộc
tranh luận giữa các bên đương sự được rõ ràng và trung thực [45, tr 172]. Ưu điểm
của mô hình tố tụng này là vai trò của các bên đương sự được đề cao và đảm bảo
tính khách quan trong hoạt động xét xử của Tòa án. Tuy nhiên, mô hình tố tụng này
đòi hỏi rất cao đối với các bên đương sự về điều kiện và khả năng tranh tụng với sự
hỗ trợ của Luật sư.
Tuy nhiên, đối với các nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi, Thẩm phán
giữ vai trò chủ động, tích cực hơn. Ngoài việc điều khiển phiên tòa, đảm bảo phiên
tòa được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, Thẩm phán còn chủ
động kiểm tra căn cước của các đương sự, xét hỏi đương sự, người làm chứng về
những vấn đề của vụ việc, điều khiển tranh luận tập trung vào những vấn đề đương
sự còn mâu thuẫn, tranh chấp. Do Thẩm phán được nghiên cứu hồ sơ từ trước nên
PTSTDS diễn ra theo kế hoạch nhưng mang tính hình thức và vai trò của các bên
đương sự khá bị động và mở nhạt.
Trong xu hướng hiện tại, khi mà hệ thống pháp luật trên thế giới đang xích
lại gần nhau thì đối với các nước theo truyền thống tố tụng tranh tụng, Thẩm phán
cũng có vai trò nhất định trong việc quản lý vụ việc chứ không hoàn toàn phụ thuộc
vào Luật sư của các bên, Thẩm phán có thể hỏi những câu hỏi để làm sáng tỏ các
tình tiết vụ việc. Ngược lại, đối với các nước theo truyền thống tố tụng xét hỏi,
quyền xét hỏi của Thẩm phán đã giảm dần, thay vào đó là quyền của đương sự
trong việc chứng minh làm sáng tỏ các tình tiết của vụ việc dân sự. Như vậy, dù
theo truyền thống tố tụng tranh tụng hay tố tụng xét hỏi thì Thẩm phán là người tiến
hành tố tụng có ảnh hưởng rất lớn đến việc tiến hành PTSTDS.
Về mặt bản chất, việc tiến hành PTSTDS là hoạt động áp dụng pháp luật tố
tụng và pháp luật nội dung nhằm bảo vệ công lý; mang lại sự công bằng, đảm bảo



17
ổn định, phát triển xã hội. Vì vậy, đòi hỏi cán bộ Tòa án nói chung và đội ngũ Thẩm
phán nói riêng phải có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng thuần thục và một đạo đức
nghề nghiệp trong sáng.
Trình độ, năng lực và phẩm chất đạo đức của Thẩm phán là yếu tố quan
trọng đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật để tiến hành các PTSTDS được đúng
đắn, khách quan và hiệu quả. Thẩm phán là những người cầm cân, nảy mực, do đó,
đòi hỏi phải có kiến thức rộng, bao quát, ý thức pháp luật, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức, năng lực chính trị - xã hội. Để làm tốt công tác xét
xử Thẩm phán cần phải luôn trau dồi kiến thức, học hỏi không ngừng, cập nhật
được những văn bản pháp luật, những quy định mới của pháp luật cũng như các
kiến thức khoa học pháp lý để đảm bảo cho việc áp dụng pháp luật được chính xác,
tiến hành PTSTDS để đưa ra được phán quyết đúng đắn hợp lý, hợp tình. Nếu
không có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao và phẩm chất đạo đức không trong
sáng thì việc áp dụng pháp luật trong việc tiến hành PTSTDS sẽ không được bảo
đảm, dẫn đến giải quyết không khách quan, không đảm bảo quyền và lợi ích của
đương sự, bản án hoặc quyết định có thể bị Tòa án cấp trên sửa, hủy để giải quyết
lại...
Ngoài ra, tham gia vào hoạt động tiến hành PTSTDS còn có HTND hoặc có
sự tham gia của Bồi thẩm đoàn tùy theo pháp luật của mỗi nước. Các nước theo hệ
thống pháp luật án lệ (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân tối cao năm 2000 "Về
pháp luật tố tụng dân sự", tr. 60) thì có thể có sự tham gia Bồi thẩm đoàn xét xử tại
PTSTDS. Mặc dù, Bồi thẩm đoàn cũng là đại diện của quần chúng nhân dân tham
gia vào hoạt động xét xử nhưng vai trò của họ có điểm khác so với HTND của nước
ta. Họ tham gia xét xử với nhiệm vụ chủ yếu là xem xét các tình tiết của vụ việc.
Tuy nhiên, việc xét xử có Bồi thẩm đoàn không phải là bắt buộc vì nếu cả hai phía
không đòi hỏi phải có Bồi thẩm đoàn thì không có Bồi thẩm đoàn tham gia. Hiện
nay, thủ tục xét xử tại PTSTDS không có Bồi thẩm đoàn tham gia, trừ khi Tòa án có
quyết định khác và điều này rất hiếm khi xảy ra [57, tr. 378].
Ngược lại, ở những nước theo truyền thống pháp luật dân sự lại không có

truyền thống tổ chức phiên tòa có HTND. Đối với Cộng hòa Pháp, HTND chỉ tham


18
gia vào HĐXX sơ thẩm của các Toà án chuyên biệt. Họ là những người hoạt động
trong lĩnh vực xét xử sơ thẩm các vụ việc thương mại do các thương nhân, chủ ngân
hàng bầu ra; thành phần HĐXX các vụ kiện lao động gồm hai đại diện của người
lao động và hai đại diện của chủ sử dụng lao động. Các Thẩm phán chuyên nghiệp
chỉ can thiệp vào việc giải quyết các loại việc đặc thù khi số phiếu của các HTND là
ngang nhau. Trong trường hợp số phiếu ngang nhau thì phiếu của chủ tọa sẽ là
quyết định [52, tr. 20-23]. Đối với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, theo Điều 40
BLTTDS thì khi xét xử vụ việc dân sự có thể có HTND tham gia nhưng “trong thực
tế hầu như các Tòa án Trung Hoa không mời HTND tham gia xét xử; trừ một số ít
trường hợp phải tham khảo ý kiến của những nhà chuyên môn trong quá trình xét
xử thì Tòa án mời HTND là người am hiểu lĩnh vực chuyên môn đó (và cũng chỉ
mời một HTND)” (dự án VIE/95/017 của Tòa án nhân dân tối cao năm 2000 "Về
pháp luật tố tụng dân sự", tr 39-40)
Ở Việt Nam, trong thành phần HĐXX sơ thẩm vụ án dân sự luôn có HTND
tham gia. Mục đích của quy định này nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án dân
sự được nhanh chóng, tạo điều kiện cho Thẩm phán có thể chủ động trong công việc
của mình, nâng cao trách nhiệm cá nhân của Thẩm phán, thực hiện những bước đi
cơ bản của công cuộc cải cách tư pháp. Tuy nhiên, đối với đội ngũ HTND những
người làm công tác kiêm nhiệm, do đó kiến thức về pháp luật không được cập nhật
thường xuyên. Khi tham gia vào hoạt động xét xử ở tại PTSTDS của Tòa án, kiến thức,
trình độ chuyên môn nghiệp vụ về pháp luật của HTND bị hạn chế rất nhiều. Khi xét
xử HTND được ngang quyền với Thẩm phán trong việc quyết định các vấn đề liên
quan đến vụ án, nhưng trên thực tế hầu như trong các PTSTDS, HTND không thực
hiện được đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn của mình và quyền quyết định đều do các
Thẩm phán thực hiện. Để đảm bảo được tính khách quan cũng như hiệu quả của áp
dụng pháp luật cao thì HTND cần thiết phải có được trình độ và kiến thức pháp luật

chuyên nghiệp hơn từ đó bảo đảm việc tiến hành PTSTDS có hiệu quả và đúng
pháp luật.
* Vai trò giám sát trong quá trình tiến hành PTSTDS
Hoạt động áp dụng pháp luật để tiến hành PTSTDS đều hướng tới mục tiêu


19
bảo đảm pháp luật được thực hiện nghiêm minh, thống nhất, quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể, của Nhà nước và xã hội được bảo đảm một cách tốt nhất,
không bị vi phạm. Để đảm bảo được việc thực hiện những mục tiêu trên thì ngoài
việc đảm bảo chất lượng của đội ngũ tiến hành tố tụng và hoạt động xét xử thì việc
giám sát đối với việc tiến hành PTSTDS cũng đóng vai trò rất quan trọng.
Nếu như trong tố tụng hình sự việc tham gia của Viện kiểm sát (VKS) hay
Viện công tố là cơ quan có vai trò đặc biệt quan trọng thì trong tố tụng dân sự có thể
không có sự tham gia của VKS hay Viện công tố. Có một số nước ghi nhận việc
tham gia của VKS hay Viện công tố, tuy nhiên mức độ và phạm vi tham gia cũng
được quy định rất khác nhau tùy theo mô hình, chức năng, nhiệm vụ. Với hai mô
hình tố tụng điển hình trên thế giới thì vai trò của VKS hay Viện công tố được ghi
nhận cũng rất khác nhau. Đối với mô hình tố tụng tranh tụng ở các nước theo truyền
thống pháp luật án lệ thì cơ quan công tố chủ yếu tham gia vào lĩnh vực hình sự mà
không tham gia vào lĩnh vực dân sự. Tuy nhiên, các nước với mô hình tố tụng xét
hỏi mà theo truyền thống pháp luật dân sự thì vai trò của VKS hay Viện công tố
trong lĩnh vực dân sự cũng được ghi nhận.
Ở Việt Nam, pháp luật tố tụng dân sự ghi nhận vai trò kiểm sát hoạt động tố
tụng của Tòa án trong đó có kiểm sát việc tiến hành các PTSTDS nhằm bảo đảm
hạn chế tính chủ quan của Thẩm phán, HTND khi thực hiện quyền lực nhà nước
trong việc xét xử. Vì vậy, bên cạnh việc Thẩm phán, HTND tiến hành PTSTDS thì
việc tiến hành này cần phải được kiểm tra, giám sát chặt chẽ để đảm bảo các thủ tục
ở tại PTSTDS được tiến hành đúng đắn để có thể đưa ra được bản án, quyết định
đúng đắn.

Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng việc tham gia giám sát việc tiến hành
PTSTDS còn có người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (mà phần
lớn họ là các Luật sư). Sự tham gia tố tụng của Luật sư cũng có tác dụng giúp cho
Tòa án tránh được khuynh hướng coi thường đương sự và khắc phục được tình
trạng chủ quan, tùy tiện trong giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, việc tham gia hoạt
động của Luật sư tại PTSTDS có ý nghĩa làm cho việc giải quyết vụ án dân sự được
nhanh chóng, khách quan.


×