Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Luận văn thạc sĩ luật học: Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (40.86 MB, 73 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

BẠCH VĂN ĐÔNG

CHUYEN NGANH: LUAT DAN SU MA SO: 60 38 01 03

LUAN VAN THAC SY LUAT HOC

NGUOI HUONG DAN: TS. NGUYEN CONG BINH

HA NOI - NAM 2012

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

BLTTDS Bộ luật Tô tụng Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam năm

Giấy CNQSDĐ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất HDXX Hội đông xét xử

LSĐBSLTTDS | Luật sửa đôi, bô sung một số điêu của Bộ luật Tố tụng Dân

<small>sự của nước CHXHCN Việt Nam năm 2004TAND Tịa án nhân dân</small>

TTDS Tơ tụng dân sự UBND Ủy ban nhân dân

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...- se secz©zxezvzzcevrxerrr 5 <small>B, TìHH Hint hen, WRONG HAI cccsxoaxggsriosseeggtiGskguiafezssidtsgiispaysussksaepaaasiD</small>

<small>USUI a Tha Bế aenennokeesdibkibroeooesenoenkgieiobeseogrdtehsagsbisbepbie 75. Mục dich va nhiệm vụ của việc nghiên CUU...cccccecccesesescssesseseeseseseesereesenes 76. Kết cầu của luận văn ...s-.1 tt tt H1111001111121112211421112212 211 cty. 8Chương 1: NHỮNG VAN DE LY LUẬN VE NGUYEN TAC BINH DANGVE QUYEN VÀ NGHĨA VỤ TRONG TO TUNG DAN SỰ... 91.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong</small>

<small>uợp, ...Ợ7 7. 0B ea ACH ERIN 9 HERS ETAT 9</small>

<small>1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS... 9</small>

<small>1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bình đẳng về quyên và nghĩa vụ trong TTDS 111.2. Cơ sở của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS. ... 131.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong</small>

<small>1.2.2. Co sở thực tiễn của nguyên tắc bình đắng về quyền va nghĩa vụ trong</small>

<small>1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bình đảng về quyền và nghĩa vụ với các</small>

<small>nguyên tắc khác trong TTDS. ....sssssssssssesssssssssssessecsssssssssscessessassssecscsssucceccossss. 18</small>

<small>1.4 Sơ lược hình thành và phát triển của nguyên tắc bình đẳng về quyền vàPN. Vụ tông TƯ cseenaeesseennisnnebitinitioissogdtoioAessssasei 22Chương 2: NỘI DUNG NGUYEN TAC BÌNH DANG VE QUYEN VÀNGHĨA VỤ TRONG TO TUNG DAN SỰ THEO QUY ĐỊNH CUA PHÁPLUẬT VIỆT NAM HIEN HANH...ssssossssssssssssssstsesssteeeeeeeeeceeceeeoeooeoeseeecccce 252.1. Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật... 27</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

2.1.2. Binh đăng về giới. thành phan xã hội va nghề nghiệp... 29 2.1.3.1, Bình đăng về giới... co vennterkeerrrrrressersrsssrerrserrsvcrsr.ecr.. 29 3.1.3.2. Bình đăng về thành phan xã hội và nghề nghiệp... 3 3.1.3. Binh đăng vẻ trình an A c Á AớớỚớớẽ"n men. 31 2.3. Binh đăng Eiba các đượng sự trước Toa an (0070202040042 ain BF 2.2.1. Binh đăng về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự... 34 2.2.1.1. Bình đẳng về quyên TTDS...cccc-se-ccosecece-eeccssccesesessnventassosesecesseesbe 35 <small>2,7.1-3:BIHH đồng về nghe vụ TT - cccsccetucoLiEE0Ec0501181L0 iNghÿge24pcsgel 40</small> 2.2.2. Binh đăng về quyên và nghĩa vụ giữa đương sự ở các địa vị tổ tụng <small>NG KHE iitoiieccoitieiboicidiidikiooitaioesoctoadidiidtoctoe(GGIGGaAcildtsGUAGoastbeddksssie 432.3. Trách nhiệm của Toa án trong việc tạo điều kiện để đương sự thực hiệnắc quyền và nghĩa vụ của mba scsssisisiccsssescissccssassvaseasirasassiasinasnnissnsccsnonniss 46Chương 3: THỰC TIỀN THỰC HIEN NGUYEN TAC BINH DANG VEQUYỀN VÀ NGHĨA VỤ TRONG TO TUNG DAN SỰ VÀ KIÊN NGHỊ . 503.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trongTH kho cotioc ga hoat OC acc 50Ae, Ries Kết H06 đNHHữEeiiseiddisidideedeisreletssongsdasesaesSESE: Wining tiền: ti, hạn Gỗ 25606000000 ee `3.1:2.L VỆ Hi pháp TẤT iiieinbhinnieiiednioiuouieiasetrksdiidddioie 523.1.2.2 Vẻ mặt thực hiện PHÁN |UẬ Gà 00010010000 0002002 E00 sessnsxeesesee 543.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện và thực hiện nguyên tắc bình đẳng về quyềnMã ngà vu En et itd 0. aaa enter FEO eo oP Ne 583.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện nguyên tắc bình đẳng về</small>

quyền và tehiTnvn:Wong TT Des cá G0600 kG400LA2GU0012š2ssssasseamesassensel 63

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

3.3.2. Về thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong

<small>IN)?*AaắiiẳiiẳẳẮÚŨẮÚẮÚẮÚẮÚẮŨÚŨÚŨÚỖ... 65</small>

Ì.424I8Ð97.©iiaiaẳaẳđaaaadiiiiiẢẢỐẢẢ.. 68 DANH MỤC TÀI LIEU THAM KHẢO...---c--cc-<. 70

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

“Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt

<small>Nam xã hội chủ nghĩa, hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử</small>

được tiễn hành có hiệu quả và có hiệu lực cao” là mục tiêu mà chiến lược cải cách tư pháp của Đảng và Nhà nước hướng tới. Nội dung này được thể hiện thông qua Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp.

<small>Thực hiện chủ trương này, Nhà nước ta đã có những hoạt động tích cực</small>

để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp. Một trong các hoạt động đó là việc ban hành các văn bản pháp luật quy định về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Ngày 15 tháng 6 năm 2004 Quốc hội đã thông qua Bộ luật tô tụng dân sự (BLTTDS). Kế thừa và phát huy những giá trị của các văn bản pháp luật về tố tụng dân sự (TTDS) được ban hành trước đó, BLTTDS đã thê chế hóa quan điểm của Đảng và Nhà nước về công cuộc cải cách tư pháp, quy định quy trình tố tụng khoa học, đảm bảo đây mạnh dân chủ và là công cụ pháp lý quan trọng dé các cá nhân, tô chức bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tịa án. BLTTDS đã ghi nhận khá đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật TTDS trong đó có nguyên tắc bình đăng về quyên và nghĩa vụ trong TTDS.

<small>Tuy nhiên, sau hon 5 năm di vào thực hiện, Bộ luật này cũng đã bộc lộ</small>

nhiều điểm bat cập. Điều nay đã làm hạn chế hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án và việc bảo về quyền lợi ích hợp pháp của các chủ thé tại

Tòa án. Dé khắc phục những bất cập, hạn chế của BLTTDS, năm 2011 Nhà

nước ta đã ban hành Luật sửa đổi, bố sung một số điều của BLTTDS năm

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

tại của BLTTDS. Một trong những van đề cịn tồn tại đó là những quy định về nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS. Việc tiếp tục nghiên cứu để làm rõ những vấn đề liên quan đến nguyên tắc này là rất cần thiết để tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTDS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Do vậy, tác giả chon đề tài “Nguyén tắc bình đẳng về quyển và nghĩa vụ trong tô tụng dân sv’ nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ luật hoc của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS, là sự cụ thể hố của ngun tắc “Mọi cơng dân đều bình dang trước pháp luật" (Điều 52, Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, vẫn chưa có một cơng trình nào trực tiếp nghiên cứu về nguyên tắc này, mà chỉ có những cơng trình nghiên cứu về những vấn đề liên quan như: luận văn thạc sỹ với đề tài “Nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam”, của tác giả Nguyễn Văn Cung (1997); bài viết “Những nguyên tắc TTDS đặc trưng trong Bộ luật TTDS” đăng trên Tạp chí Kiểm sát năm 2005 của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh; luận án tiến sỹ luật học với đề tài: “Bao đảm quyền bao vệ của đương sự trong TTDS Việt Nam” của tác giả Nguyễn Cơng Bình năm 2006... Các cơng trình này bước đầu đã nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến ngun tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS làm cơ sở quan trọng cho việc nghiên cứu về nguyên tắc này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu đề tài là các vấn đề lý luận về nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, các quy định của pháp luật về nguyên tắc này và thực tiễn thực hiện chúng tại các Tòa án. Tuy nhiên, do nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS bao gồm nhiều nội

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

- Khái niệm, ý nghĩa và cơ sở của nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS; mối quan hệ của nguyên tắc này với một số nguyên tắc

<small>khác của luật TTDS;</small>

- Nội dung nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS

<small>theo quy định của BLTTDS và LSDBSBLTTDS;</small>

- Thực tiễn thực hiện nguyên tắc này trong việc giải quyết các vụ án của Toà án nhân dân trong những năm gần đây và một số phương hướng hoàn

<small>4. Phương pháp nghiên cứu</small>

Việc nghiên cứu đề tài luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê Nin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan điểm của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ngồi ra, q trình nghiên cứu

<small>còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý khác như: phân</small>

tích, chứng minh, tổng hợp, so sánh, diễn giải, quy nạp... Trong đó, phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích, diễn giải, quy nạp.

<small>5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu</small>

Việc nghiên cứu dé tài nhằm mục đích dé làm rõ một số vấn dé lý luận về nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS, các quy định pháp luật tố tụng hiện hành về nguyên tắc và những ton tại, bất cập của chúng. Từ đó, đề xuất kiến nghị nâng cao hiệu quả của nguyên tắc trong thực tiễn giải quyết TTDS.

Đề đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra là:

- Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc bình

<small>đăng vê quyên và nghĩa vụ trong tô tụng dân sự;</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

- Khảo sát thực trạng thực hiện nguyên tắc, nhận diện được những quy định bat cập và những tơn tại trong thực hiện và tìm ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh của nguyên tắc.

6. Kết cầu của luận văn

Ngoài phần Mở dau, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

Chương I: Những van dé lý luận về nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự;

Chương 2: Nội dung nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong tố

<small>tụng dân sự theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành;</small>

Chương 3: Thực tiễn thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong tơ tụng dân sự và kiến nghị.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

1.1. Khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc bình dang về quyền va

<small>nghĩa vụ trong TTDS.</small>

1.1.1. Khái niệm nguyên tắc bình đẳng về quyên và nghĩa vụ trong

Nguyên tắc của luật TTDS là một trong các vấn đề cơ bản nhất của TTDS. Mọi hoạt động tố tụng chỉ được coi là hợp pháp nếu tuân thủ đúng các nguyên tắc của luật TTDS. Trong tiếng Việt nguyên tắc được hiểu là: “điễu cơ bản đã định ra, nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm ” 1, 362]. Tuy nhiên, néu xem xét từ phương diện lý luận về nhận thức thì nguyên tắc là “kết quả cuối cùng của sự nghiên cứu”. Nguyên tắc phản ánh các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội. Do vậy, nguyên tắc là vấn đề mang tính chất xuất phát điểm, thể hiện bản chất của một lĩnh vực hoạt động nhất định. Việc tuân thủ “nguyén tac” trong các hoạt động có mục đích là u cầu bắt

buộc nếu muốn đạt được mục đích của hoạt động. Xuất phát từ nhận thức này

nguyên tắc pháp luật xã hội chủ nghĩa được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo nội dung quá trình xây dựng, thực hiện và bảo vệ pháp luật. Các nguyên tắc của pháp luật làm thành bộ khung xương sống dé nâng đỡ toàn bộ hệ thống pháp luật, làm cho các quy định pháp luật có sự gắn kết chặt chẽ và thống nhất nội tại với nhau : 41

Luật TTDS là một ngành luật trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc của

<small>luật TTDS cũng là những tư tưởng pháp lý chi dao cho việc xây dựng va ap</small>

dụng các quy phạm pháp luật TTDS. Trong Giáo trình luật Tố tụng dân sự

của trường Đại học Luật Hà Nội viet: “Nguyên tắc của Luật Tố tụng dan sự

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<small>Việt Nam là những tư tưởng pháp lý chỉ đạo, định hướng cho việc xây dựng</small>

và thực hiện pháp luật /ỗ tụng dân sự và được ghỉ nhận trong các văn bản tô tụng dan sự? "33.

Nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam là một phạm trù pháp lý rất rộng bao gồm nhiều nội dung khác nhau. Vì vậy, dé có nhận thức đúng và day đủ các nguyên tắc của luật TTDS cần nghiên cứu toàn diện các van đề liên quan đến các nguyên tắc của luật TTDS. Ở Việt Nam, qua nghiên cứu đề tài làm luật văn thạc sĩ luật học tác giả Nguyễn Văn Cung cho thấy bước đầu đã đưa ra định nghĩa nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam “/a những tư tưởng pháp lý chỉ đạo mang tinh chất xuất phát điểm, phản ánh đường lỗi, chính sách của Đảng và Nhà nước, bản chất và những đặc trưng cơ bản của to tụng dân sự, được quán triệt trong nội dung của các chế định, quy phạm pháp luật tơ tung dân sự, quy định kết cấu của tồn bộ quy trình tơ tụng dân sự và thể hiện phương hướng và cách thức thực hiện mục đích nhiệm vụ của tổ tụng dan sự Việt Nam” Gan Đây là một định nghĩa chung và khá toàn diện về các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam.

Trong hệ thống các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam nguyên tắc “bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS” là một yếu tố cấu thành hệ thống ay. Tại Điều 8 BLTTDS quy định: “Moi công dân déu bình dang trước pháp luật, trước Tịa an không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phan xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghệ nghiệp. Mọi cơ quan, tơ chức dé bình dang khơng phụ thuộc và hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình dang về quyên và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Tịa án có trách nhiệm tạo diéu kiện dé họ thực hiện các quyên và nghĩa vụ của mình ”. Nội dung của quy định này cho thấy, trong TTDS các đương sự và những người tham gia tố tụng khác đều bình dang trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình,

<small>khơng phụ thuộc vào các u tơ văn hóa, kinh tê - xã hội có liên quan tới các chủ</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

thé đó. Những người tiến hành tô tụng, những người tham gia tố tụng ở những vị trí tố tụng khác nhau, do đó họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác nhau dé đạt được các mục đích của mình. Tuy nhiên, khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp luật tố tụng quy định thì các chủ thê này đều bình đăng trước Tịa án và pháp luật. Nếu hiểu theo nghĩa rộng sự bình dang khơng chỉ dừng ở trong quan hệ giữa các đương sự với nhau, mà còn ton tại trong quan hệ giữa các chủ thé tô tụng khác tham gia tố tụng tai Tòa an.

Hiểu một cách chung nhất về mặt ngữ nghĩa thì bình đăng là “ngang nhau về nghĩa vụ và quyền bình dang trước pháp luật” !““* '°!. Binh dang trong TTDS là sự bình đăng giữa các chủ thể tham gia TTDS mà trước hết là giữa các đương sự không phụ thuộc vao các đặc điểm riêng mang tinh cá thể của các chủ thé đó. Sự bình đăng được thê hiện trong việc hưởng quyên và gánh vác các

<small>nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Theo pháp luật quy định các cơ quan tư</small>

pháp nói chung và Toa án nói riêng có trách nhiệm tạo điều kiện dé các chủ thé được hưởng sự bình đăng trong TTDS.

Từ những phân tích trên có thé khang định: “Nguyên tắc bình đẳng về quyên và nghĩa vụ trong tô tụng dân sự là một nguyên tắc cơ bản của luật tô tung dân sự Việt Nam, thể hiện tư tưởng pháp lý: trước Tồ án mọi cơng dân, cơ quan, tô chức déu không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng quyên, thực hiện nghĩa vụ và chịu trách nhiệm pháp lý, các đương sự có quyền và nghĩa vụ trong tô tụng dân sự ngang nhau và Toa an có trách nhiệm tao điều kiện để họ thực hiện các quyên

<small>và nghĩa vụ cua mình.</small>

1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ

<small>trong TTDS</small>

Nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự trong

<small>TTDS có ý nghĩa đặc biệt quan trong trong việc ghi nhận những cơ sở pháp lý</small>

và bảo đảm các điều kiện ngang nhau cho các chủ thê khi tham gia TTDS,

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

đồng thời nâng cao trách nhiệm bảo đảm sự bình đăng từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc nay có

<small>những ý nghĩa cơ bản sau đây:</small>

Thứ nhất, việc ghi nhận và bao đảm thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS trước hết là một cơ sở pháp lý bảo đảm cho các chủ thé tham gia tơ tụng có những cơ hội, điều kiện ngang nhau trong việc tham gia tố tụng. Đặc biệt, đương sự có thê bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tồ án tốt hơn khi bị xâm hại hoặc có tranh chấp. Với việc ghi nhận nguyên tắc này, các đương sự trong tố tụng dù ở các tư cách tố

tụng khác nhau và thuộc các đối tượng, thành phần xã hội khác nhau nhưng

họ đều được pháp luật quy định cho có các quyền và nghĩa vụ trong tô tung

<small>như nhau và được thực hiện chúng như nhau.</small>

Thứ hai, việc ghi nhận và bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là một căn cứ dé Tồ án có thé giải quyết cơng bằng, nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự. Vì dựa trên cơ sở đó, Tồ án hạn chế việc đối xử thiên vị trong giải quyết vụ việc dân sự, từ đó đem lại sự cơng băng cho các chủ thê trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Theo quan điểm của Trường Đại học Luật Hà Nội thì ‘“Bé bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự được khách quan, đúng pháp luật thì giữa các đương sự phải được bình đăng về quyền và nghĩa vụ TTDS”? ® “31!

Thứ ba, nguyên tắc này cũng góp phần ngăn chặn va xử lý kịp thời những hành vi sai phạm của các chu thể tham gia tố tụng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình. Trên cơ sở của nguyên tắc này, các chủ thể tố tụng

<small>đặc biệt là các đương sự tránh được những can thiệp, cản trở trái pháp luật</small>

vào việc thực hiện quyên, nghĩa vụ của họ. Đồng thời, đây cũng là cơ sở pháp lý để xử lý khi có các hành vi can thiệp, cản trở trái pháp luật vào thực hiện các quyên và nghĩa vụ tô tụng của các chủ thé trong hoạt động tố tụng. Điều

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

này góp phần đảm bảo cho mỗi chủ thể khi tham gia tố tụng có thé thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trước Toà

Ngoài ra, việc quy định và thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS cùng với các ngun tắc khác của luật TTDS cịn có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự, bảo vệ qun và lợi ích hợp pháp của cơng dân và góp phan vào cơng cuộc cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ

1.2. Cơ sở của nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong

Việc xác định đúng vai trò của nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự và những bảo đảm thực hiện nguyên tắc này là tiền đề dé đương sự tham gia tô tụng thực hiện tốt nhất các quyền, nghĩa vụ của minh làm cơ sở cho việc giải quyết vụ việc dân sự. Vì vậy, làm rõ các cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận nguyên tắc này là rất cần thiết cho việc nhận thức và hoàn thiện những quy định của pháp luật TTDS hiện hành về nguyên tắc này. Qua việc nghiên cứu cho thấy, việc ghi nhận nguyên tắc bình đăng về quyên và nghĩa vụ trong TTDS dựa trên những cơ sở sau đây:

1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ

<small>trong TTDS</small>

Quyền con người một khái niệm mang tính chính trị pháp lý và có một lịch sử phát triển lâu dài. Quyền con người là quyền vốn có khơng thể tách rời đối với con người sinh ra trên trái đất này, không phân biệt họ là ai, sinh ra ở đâu, khơng phân biệt giới tính, tơn giáo hay địa vị. Quyền con người là bình đăng. Tính bình dang đó thé hiện tập trung nhất ở chỗ mọi cá nhân đều được

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

thừa nhận giá trị con người và xứng đáng được tôn trọng như nhau, bất kế có những khác biệt về tính cách và hồn cảnh cá nhân P*TM '3!

Sự bình đăng bao giờ cũng gắn liền với quyền và nghĩa vụ của con người. Khi các chủ thé khác xuất hiện bên cạnh cá nhân con người với tu cách là các thực thé “nhân tạo” như pháp nhân, các tô chức khác thì bình đăng cịn thể hiện là sự bình đăng của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, trong Tun ngơn về nhân quyền trên tồn thế giới năm 1948 ghi nhận: tất cả mọi người đều bình dang trước pháp luật và có quyền được pháp luật bảo vệ ngang nhau khơng có sự phân biệt nào. Mọi người đều có quyền được bảo vệ ngang nhau chống lại mọi sự phân biệt đối xử vi phạm bản Tuyên ngôn này và chống lại mọi điều gây ra sự phân biệt đối xử ấy (Điều 7).

<small>Như vậy, con người không chỉ được pháp luật ghi nhận và bảo đảm các</small>

quyền và nghĩa vụ mà họ cần phải có sự bình dang trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó. Việc ghi nhận và bảo đảm quyền bình dang dựa trên

<small>những cơ sở lý luận cơ bản sau đây:</small>

Thứ nhất, quyên bình dang là một quyền tự nhiên, thỏa mãn nhu cau xã hội của mỗi cá nhân trong cuộc sống

Con người khi sinh ra có thê khơng bình đăng về điều kiện kinh tế của mỗi gia đình và nghị lực của mỗi cá nhân trước những khó khăn trong cuộc sống. Nhưng mỗi chúng ta đều bình dang về “quyền được sống, quyên tự do và quyền mưu câu hạnh phúc” (bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945). Quyền bình đăng cần phải là một quyền cơ bản và có ý nghĩa đối với tất cả

<small>mọi người và phải được thực hiện trong những lĩnh vực cơ bản trong xã hội,</small>

như: bình đăng về chính trị (trong ứng cử, bầu cử...), bình đắng về kinh tế (đối với tài nguyên, công sản quốc gia, với quyền tự do kinh doanh không trái pháp luật...) và bình đăng về pháp luật (trước pháp luật mọi người đều bình

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

đăng, khơng có pháp luật dành riêng cho kẻ "ăn trên ngồi trốc" hoặc riêng cho người cần lao). Các quyền bình đăng này đều đã được đưa vào hiến pháp của nhiều quốc gia. Đó chính là quyền thiêng liêng nhất mà xã hội cần phải vươn tới và là đối tượng hàng đầu cần phải được pháp luật bảo vệ. Bởi quyền được sống bình đăng là mục tiêu hàng đầu của xã hội ở mọi thời đại. Việc quy định nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS là một cách góp phần hiện thực hóa quyền mang tính chất tự nhiên này.

Thứ hai, binh dang về quyên và nghĩa vụ trong TTDS xuất phát từ nên tảng của nguyên tắc bình đăng trong pháp luật dân sự

Khi tham gia quan hệ pháp luật dân sự, mặc dù các chủ thé có thé khơng giống nhau về tư cách tham gia, động co xác lập quan hệ dan sự,

nhưng về địa vị pháp lý, họ ln có sự bình đăng. Sự bình đăng về quyền và

nghĩa vụ của các chủ thé tham gia quan hệ pháp luật dân sự cũng là một trong những nội dung thé hiện bình đăng về địa vị pháp lý. Và không chỉ dừng ở sự bình đăng trong các quy định pháp luật về nội dung mà trong pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng), ngun tắc bình dang cũng phải ln được dé cao, là một đặc điểm để phân biệt với các thủ tục tố tụng hình sự hay tố tụng hành

Thứ ba, binh dang về quyên và nghĩa vụ trong TTDS là một nội dung quan trọng của việc xây dựng Nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa

Nhà nước pháp quyên xã hội chủ nghĩa đòi hỏi hoạt động xét xử của Tịa án phải cơng minh, cơng bằng, dân chủ và có hiệu quả; mọi người phải tuân thủ triệt để pháp luật. Đề đạt được những yêu cầu đó, trước hết cần thực hiện các nguyên tắc pháp luật cơ bản của Nhà nước, và một trong các ngun tắc đó là ngun tắc mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật, trong đó có bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS. Vì bình đẳng trong TTDS là

<small>một trong những cơ sở, mục tiêu đê hiện thực hóa các địi hỏi của ngun tặc</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

mọi cơng dân đều bình dang trước pháp luật. Do đó, pháp luật TTDS đã ghi nhận nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa

<small>vụ trong TTDS</small>

Nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS giữ một vị trí đặc biệt trong hệ thống nguyên tắc của luật TTDS. Việc ghi nhận và bảo dam thực hiện nguyên tắc này còn xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn hoạt động TTDS, thê hiện ở một số phương diện sau:

Thứ nhất, việc quy định nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS đáp ứng nhu cấu, nguyện vọng của mỗi con người trong xã hội

Tén tại trong xã hội, con người khơng chỉ có nhu cầu thụ hưởng quyền lợi về vật chất, tinh thần, mà cịn cần có sự bảo đảm dé thụ hưởng một cách bình đăng với các chủ thể khác các nhu cầu đó. Nhờ có bình đăng, con người mới có thé tồn tại và phát triển được hết khả năng của mình. Vi vậy, bình đăng là mục tiêu hướng tới của bất kỳ một xã hội nào. Nhu cầu bình đăng khơng chi đặt ra trong lĩnh vực pháp luật, trong hoạt động tố tụng mà còn đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, khoa học và trong các hoạt động

<small>xã hội khác... Tuy nhiên, với vai trị của mình, pháp luật phải đảm bảo hiện</small>

thực hóa sự bình đăng trong các lĩnh vực, hoạt động đó.

Thứ hai, việc quy định nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ xuất phát từ yêu cau của thực tiễn hoạt động TTDS

Mâu thuẫn, tranh chấp là một hiện tượng xã hội khách quan trong đời sống hàng ngày. Vì vậy, khơng thể phủ nhận hay né tránh tranh chấp mà phải tìm ra giải pháp tích cực và hữu hiệu dé giải quyết nó. Khi có tranh chap dân sự xảy ra, các chủ thé có quyền quyết định biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích

<small>phù hợp với quy định của pháp luật. Trong trường hợp tham gia vào quan hệpháp luật TTDS cũng như khi tham gia vào các quan hệ pháp luật khác, các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

chủ thé tham gia phải thực hiện đúng va đầy đủ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của mình để bảo vệ được quyền và lợi ích của chính chủ thể đó trước Toà án. Tuy nhiên, do nhận thức và ý thức pháp luật không tốt hoặc do muốn giành lay cho mình những lợi ích của chủ thé khác nên đã dẫn đến trường hợp có chủ thé tố tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình khơng đúng, khơng đầy đủ. Thực tế này địi hỏi để giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ việc dân sự các chủ thê tố tụng phải thực hiện hành vi tơ tụng của mình theo một trình tự thủ tục nhất định do pháp luật quy định và trên cơ sở của nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ giữa các bên là cần thiết.

Bên cạnh đó, từ thực tế giải quyết các vụ việc dân sự của Toà án đã cho

thấy, các tranh chấp, vi phạm dân sự ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp. Đề ổn định được các quan hệ dân sự, tạo điều kiện cho xã hội phát triển đòi hỏi cần phải sớm xử lý các vi phạm giải quyết các tranh chấp đó. Mặc dù, về bản chất việc dân sự là việc của đơi bên nhưng vì lợi ích của xã hội Nhà nước không thể không can thiệp giải quyết. Tuy vậy, để có thể giải quyết nhanh chóng và khách quan các vụ việc dân sự thì cần phải bảo đảm sự bình đăng về nhiệm vụ, quyền hạn giữa các chủ thé tố tụng.

Thứ ba, việc quy định nguyên tắc bình dang về quyên và nghĩa vụ trong TTDS xuất phát từ thực tiễn sự hiểu biết pháp luật của các chủ thể còn hạn chế và không dong déu

Trên thực tế, do nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến sự hiểu biết pháp luật, ý thức pháp luật của nhiều người còn rất hạn chế. Khi có tranh chấp xảy ra muốn được giải quyết nhưng họ đã không biết được phải yêu cầu tới cơ quan, tô chức nào dé được giúp đỡ. Có trường hợp u cầu Tồ án giải quyết nhưng khơng biết rõ qun, nghĩa vụ tơ tụng của mình nên thực hiện khơng đúng. Từ thực tế này địi hỏi phải quy định thật cụ thé các quyền và nghĩa vụ tổ tụng dé các đương sự dễ nhận biết và thực hiện. Mặt khác, do ý thức pháp

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

<small>luật của một bộ phận đương sự cịn kém nên đã xảy ra tinh trang có những</small>

hành vi can trở hoạt động tố tụng. Vì vậy, địi hỏi phải có sự xử lý nghiêm khắc và kịp thời thông qua việc ghi nhận nghĩa vụ và trách nhiệm của đương SỰ, đồng thời ghi nhận nhiệm vụ, trách nhiệm của Tòa án và các cá nhân, cơ quan tô chức khác hỗ trợ đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng và

bảo đảm cho họ thực hiện một cách bình đăng.

Ngồi ra, thực tiễn cũng cho thấy, một số trường hợp do nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan đã làm cho quá trình giải quyết các vụ việc dân sự có sai lầm. Sai lầm này có thé do những người tiễn hành tố tụng như Thâm phán, Hội thâm nhân dân, Thư ký toà án, Kiểm sát viên bị những sự tác động, chi phối từ nhiều phía, (có thé từ cơ quan, tô chức hữu quan ở địa phương, từ cơ quan quản lý cấp trên, có thể từ những người thân thích hoặc quen biết) buộc họ phải cân nhắc khi xử lý, giải quyết hoặc do hạn chế về chun mơn,

thiếu tinh thần trách nhiệm của họ. Vì vậy, dé bảo đảm việc giải quyết VỤ VIỆC

dân sự nhanh chóng, khách quan và đúng đắn cần quy định Tồ án xét xử theo nguyên tac mọi công dân đều bình đăng trước pháp luật các chủ thể tố tụng

bình đăng trong việc thực hiện quyền, nghĩa vụ tố tụng nhằm bảo vệ trước sự

xâm hại của các chủ thé khác.

1.3. Mối liên hệ giữa nguyên tắc bình đảng về quyền và nghĩa vụ với các nguyên tắc khác trong TTDS.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác — Lénin, bất cứ một sự vật, hiện tượng nào trong tự nhiên và xã hội đều nam trong mối liên hệ phố biến, khơng có sự vật, hiện tượng nào hồn tồn tách biệt trong thế giới khách quan. Cũng như các nguyên tắc khác trong hệ thống pháp luật, nguyên tắc bình dang về quyên và nghĩa vụ trong TTDS ra đời là kết quả của sự vận động tự nhiên va xã hội, là sản phẩm dưới sự tác động của các yếu tơ chính trị, kinh tế, văn hố,

<small>xã hội... Việc nghiên cứu nguyên tac bình đăng vê quyên và nghĩa vụ trong</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

TTDS cần phải đặt trong mối liên hệ với các nguyên tắc trong tô chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung và các nguyên tắc khác của pháp luật

<small>TTDS nói riêng.</small>

Ngun tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ được ghi nhận và được cụ thể hoá trong các quy định khác nhau của pháp luật TTDS điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của Tịa án. Vì vậy, nguyên tắc này phải phù hợp với các nguyên tắc chung của hệ thống pháp luật Việt Nam như: nguyên tắc Đảng lãnh đạo; nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc tập trung dân chủ... Xác định được mối liên hệ giữa nguyên tắc này với các nguyên tắc khác sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hoàn thiện và bảo đảm thực thi nguyên tắc bình dang về quyền và

<small>nghĩa vụ trong TTDS.</small>

Là một trong các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS Việt Nam nên nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS cịn có mối liên hệ với các nguyên tắc khác của luật TTDS. Hiện nay, các nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam được quy định tại các Điều từ Điều 3 đến Điều 24 của BLTTDS và được sửa đổi, bổ sung theo luật sửa đôi, bô sung một số điều tại LSĐBSLTTDS. Có thé thay mối liên hệ giữa nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS với các nguyên tắc cơ bản khác của Luật TTDS được thể hiện như sau:

Thứ nhất, với nguyên tac bảo dam pháp chế xã hội chủ nghĩa trong

Một trong những mục tiêu của hoạt động t6 tung la nham bao vé cong ly, bảo vệ lẽ phải. Trong khi, việc bảo dam pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTDS là một nhu cầu khách quan dé hoạt động tư pháp đạt các mục tiêu đó một cách hiệu quả. Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTDS yêu cầu mọi hoạt động TTDS của người tiến hành tố tung, của cá nhân,

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

cơ quan, tổ chức có liên quan phải tuân theo quy định của pháp luật TTDS. Moi hành vi vi phạm trong TTDS đều phải có sự chịu trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy, thực hiện tốt nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong TTDS sẽ tạo điều kiện cho các chủ thể TTDS được bao đảm quyền bình đắng mà pháp luật đã ghi nhận cho họ. Ngược lại, việc tuân thủ một cách nghiêm minh nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS còn nâng cao được trách nhiệm của các chu thể khi họ thực hiện các hoạt động của mình. Bởi trong dân sự, sự bình đăng khơng chỉ thể hiện ở các quyền lợi mà còn thê hiện trong cả nghĩa vụ và trách nhiệm của mỗi chủ thé tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng.

Thứ hai, với nguyên tắc quyển yêu cau Tịa án bảo vệ quyển và lợi

<small>ích hợp pháp</small>

Quyền u cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp trong vụ việc dân sự được quy định cho tất cả cá nhân, cơ quan, tô chức. Khi các chủ này cần sự bảo vệ của pháp luật trong vụ án hoặc vụ việc dân sự đều có thé yêu cầu sự giúp đỡ của Tòa án. Đây cũng là một đặc trưng trong hoạt động TTDS. Bởi đối với quan hệ pháp luật hình sự, thì khi có hành vi phạm tội, các cơ quan Nhà nước sẽ tiễn hành truy tố đối với bị can mà khơng cần phải có u cầu của người bị hại. Trong quan hệ dân sự, khi xảy ra tranh chấp, bên nào nhận thay quyền và lợi ích hợp pháp của minh bị xâm phạm thì phải tiễn hành khởi kiện, hoặc yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự. Nếu người có quyền và lợi ích bi xâm phạm khơng u cầu Tịa án giải quyết thì Tịa án khơng tiến hành giải quyết. Việc khởi kiện, hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn

dựa trên sự tự do ý chí của họ. Tat cả các cá nhân, cơ quan, tơ chức có qun,

lợi ích hợp pháp bị xâm phạm déu có quyền nay va được thực hiện qun này. Nói cách khác họ được bình đăng với nhau trong việc khởi kiện yêu cầu Toà

<small>án giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, có thê thay mơi liên hệ giữa nguyên</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS và nguyên tắc quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có tác động qua lại, thúc đây lẫn nhau. Khi cả hai nguyên tắc này được đảm bảo thực hiện thì mới có thé bảo đảm được việc bảo vệ quyên và lợi ich hợp pháp của đương sự trước Toà án.

Thứ ba, với nguyên tắc quyên quyết định và quyên tự định đoạt của

<small>đương sự</small>

Có thé thay nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS và nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ trong TTDS có mỗi liên hệ bé trợ lẫn nhau. Nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS ghi nhận các đương sự được ngang nhau về quyền và nghĩa vụ tố tụng và việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng. Nguyên tắc quyền tự định

<small>đoạt của đương sự trong TTDS ghi nhận trước và trong phiên tòa các đương</small>

sự đều có quyền định đoạt việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ như: khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự; chấm dứt, thay đối các yêu cau; thỏa thuận với nhau các vấn đề liên quan tới vụ việc dân sự không trái pháp luật... Vì vậy, việc thực hiện nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự trong TTDS góp phần thực hiện ngun tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS. Ngược lại, việc thực hiện nguyên tắc bình đăng về quyên và nghĩa vụ trong TTDS bao đảm điều kiện cho việc thực hiện nguyên tắc quyền tự quyết định và định đoạt của đương sự. Vì khi các đương sự được bình dang thì có cơ hội như nhau trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của họ, trong đó có quyên tự định đoạt.

Thứ tu, với các nguyên tắc khác trong TTDS

Về nguyên tắc, tuân thủ pháp luật bao giờ cũng gắn liền với việc thực hiện các quyền và gánh vác các nghĩa vụ pháp lý. Trong bất cứ một luật nào cũng chỉ ra quyền và nghĩa vụ của của chủ thể tham gia quan hệ pháp luật đó. Do đó, đối

<small>với một quy định mang tính nguyên tắc liên quan tới quyên và nghĩa vụ của các</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

chủ thê trong một ngành, một quan hệ pháp luật thì sự tác động, mối liên hệ của nó tới các quy định, chế định khác trong luật là rất lớn. Nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS là một nguyên tắc mang tính chỉ đạo và định hướng cho các hoạt động tơ tụng. Bởi vậy, ngồi các mối liên hệ trên nó cịn có mỗi liên hệ đối với hầu hết các nguyên tắc khác của luật TTDS như nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự (Điều 9), nguyên tắc hòa giải trong TTDS (Điều 10), nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành TTDS (Điều 13), nguyên tắc xét xử công khai (Điều 15), nguyên tắc bảo đảm sự vô tư của những người tiến hành hoặc tham gia TTDS (Điều 16), nguyên tắc bao đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tịa án (Điều 19), ngun tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong TTDS (Điều 20)...

Có thé thay, việc tuân thủ các nguyên tắc của luật TTDS, trong đó có ngun tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ tơ tung trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự chính là cơ sở đảm bảo cho việc bảo vệ quyên và lợi ich hợp pháp của các chủ thé trước Tồ án. Bởi “mọi cơng đều bình dang trước pháp luật” (Điều 52, Hiến pháp 1992) và việc tham gia TTDS khơng gì khác là nhằm thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng của họ. Từ đó, có thể thấy, mối liên hệ giữa các nguyên tắc khác trong TTDS với nguyên tắc bình đăng là nhăm thực hiện pháp chế xã hội chủ nghĩa, thé hiện sự tôn nghiêm của pháp luật và đáp những nhu cau của tat cả công dân trong xã hội về một môi trường pháp lý bình đăng, văn

<small>minh và lành mạnh.</small>

1.4. Sơ lược hình thành và phát triển của nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS.

<small>Pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật TTDS nói riêng đã sớm ghi</small>

nhận những quy định về nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ. Điều 3 Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 14 tháng 7 năm

<small>1960 có nêu: “Toa án nhân dân xét xử theo ngun tac mọi cơng dán déu bình</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

đăng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, nịi giống, tơn giáo, tín ngưỡng, địa vị xã hội và thnah phan xã hội”. Trong Mục A phần thứ nhất Công văn số 96/NCLP ngày 8 tháng 02 năm 1977 của Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Các đương sự đều có quyền bình dang trong TTDS cho nên Toà án nhân dân phải tôn trọng những quyên về tô tụng của họ mà không được phân biệt đối xử như: coi trọng các đương sự là pháp nhân hơn các đương sự là cơng dân; có định kiến trước là người này đúng, người kia sai, cho nên không tôn trọng hoặc không xem xét day đủ các yêu cau, by lẽ của một bên...”. Ngày 3 tháng 7 năm 1981 Quốc hội thông qua Luật tổ chức Toa án nhân dân và ngày 12 tháng 12 năm 1988 có sửa đổi, bố sung đều ghi nhận nguyên tắc này.

Điều 4 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự ngày 29 tháng 11 năm 1989 quy định: “Bình đăng về quyên và nghĩa vụ giữa các đương sự. Các đương sự bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự”.

Điều 6 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế ngày 16 tháng 3 năm 1994 quy định: “Các đương sự bình đăng về quyên và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án”.

Điều 5 Pháp lệnh giải quyết các tranh chấp lao động ngày 11 tháng 4 năm 1996 quy định: “Các đương sự bình đăng về quyên và nghĩa vụ trong quá trình giải quyết vụ án lao động”.

Điều 8 Luật tổ chức Toa án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 06 tháng 5 năm 1992 quy định: “Toà án xét xử theo ngun tắc mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội”.

Điều 8 Luật sửa đôi, bô sung một số điều của Luật tổ chức Toà án nhân dân được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12 năm 1993 có nêu: “Toa án xét xử theo nguyên tắc mọi cơng dân đều bình đắng trước pháp luật, khơng phân

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vi xã hội; các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đắng

<small>trước pháp luật”.</small>

Điều 8 Luật sửa đôi, bô sung một số điều của Luật tổ chức Tồ án nhân dân được Quốc hội thơng qua ngày 28 tháng 10 năm 1995 quy định: “Toà án xét xử theo nguyên tắc mọi công dân đều bình đăng trước pháp luật, khơng phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, dia vi xã hội; cá nhân, cơ quan, tô chức, đơn vị vũ trang và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đăng trước pháp luật”.

Điều 8 Luật tổ chức Toa án nhân dân đước Quốc hội thông qua ngày 02 tháng 4 năm 2002 quy định: “Toà án xét xử theo ngun tắc mọi cơng dân đều bình dang trước pháp luật, khơng phân biết nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội; cá nhân, cơ quan, tô chức, đơn vị vũ trang và các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đăng trước pháp luật”.

Điều 8 BLTTDS năm 2004 được sửa đổi, bố sung năm 2011 ghi nhận: “Mọi cơng dân đều bình đăng trước pháp luật, trước Tồ án khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hố, nghề nghiệp. Moi cơ quan tổ chức đều bình dang khơng phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn đề khác. Các đương sự đều bình dang về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, Toa án có trách nhiệm tạo điêu kiện dé họ thực hiện các qun và nghĩa vụ của mình”.

Nhu vậy, có thé thay, trong hệ thống pháp luật của nước ta, nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ của cơng dân nói chung và bình dang trong pháp luật tố tụng nói riêng ln được thừa nhận, tiếp nối ngày càng chú trọng. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc để Nhà nước hướng tới một sự công bằng,

<small>dân chủ và văn minh cho moi công dân của minh.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<small>Chương 2</small>

NỘI DUNG NGUYEN TAC BÌNH DANG VE QUYEN VÀ NGHĨA VU TRONG TO TUNG DAN SU THEO QUY DINH CUA PHAP LUAT

VIET NAM HIEN HANH

Với tu cách là một trong những nguyên tắc co bản của Luật TTDS Việt Nam, nguyên tắc bình đắng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS được ghi nhận tại Điều 8 BLTTDS va được cụ thé hoá trong các quy định của pháp luật tố tụng về quyền và nghĩa vụ của các chủ thé tố tụng và thủ tục thực hiện các quyền và nghĩa vụ đó theo pháp luật quy định. Vì vậy, việc nghiên cứu các nội dung cơ bản của nguyên tắc bình dang về quyên và nghĩa vụ trong TTDS cũng như những quy định cụ thê hoá nội dung của nguyên tắc này là việc làm rất cần thiết để hiểu đúng và toàn diện nguyên tắc này. Trên cơ sở đó, chúng ta có thể làm rõ những cơ sở lý luận trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nội dung này.

Bình dang là một nhu cầu khơng thể thiếu được trong cuộc sơng. Mọi người sinh ra đều có quyền được đối xử bình dang. Sự bình dang cần phải được duy trì và phát triển nhằm tạo cơ hội cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội. Trong xã hội hiện đại, sự bình đăng của mỗi cá nhân được thể hiện ở nhiều lĩnh vực khác nhau, như trong hôn nhân gia đình, trong lao động sản xuất, trong hoạt động chính trị... Sự bình dang của cá nhân cho phép mỗi người khi tham gia vào một quan hệ xã hội có quyền tự chủ, có cơ hội ngang nhau khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Trong pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng nói riêng, bình dang được ghi nhận là một nguyên tắc Hiến định (quy định tại Điều 52 Hiến pháp 1992: “mọi công dân đều bình đắng trước pháp luật”). Bên cạnh đó, nguyên tắc này được ghi nhận trong Bộ luật Hình sự năm 1999 (Điều 3), Bộ luật Tó tụng hình sự năm 2003 (Điều 5), Bộ luật Dân sự năm 2005 (Điều 5),

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

BLTTDS (Điều 8), Luật Tổ tụng hành chính năm 2010 (Điều 10). Theo đó, có thé thay, trước pháp luật, mọi cơng dân đều bình đăng về dân tộc, giới tinh, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp. Những quy định về nguyên tắc bình dang trong các đạo luật trên đây đã khang

<small>định ý nghĩa, vai trò và mục tiêu hướng tới của pháp luật nước ta trong công</small>

cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyên.

Trong hoạt động TTDS, nguyên tắc này được nhắn mạnh, bởi sự bình đăng khơng chi được thé hiện qua việc tham gia trực tiếp phiên toà của các đương sự mà cịn ở sự bình dang giữa các chủ thé tham gia tố tụng trước pháp luật, trước Tồ án. Bình đăng ở đây được hiểu là bình dang về việc hưởng quyên và thực hiện nghĩa vụ trước Nhà nước và xã hội theo quy định của pháp luật. Quyền của công dân luôn luôn gắn liền với nghĩa vụ. Cùng với đó, bình đăng về trách nhiệm pháp lí là bất kì cơng dân nào vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm của mình và phải bị xử lí

<small>theo quy định của pháp luật.</small>

Điều 8 BLTTDS có quy định: “Moi cơng dan déu bình đẳng trước pháp luật, trước Tồ án khơng phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần xã hội,tín ngưỡng, tơn giáo, trình độ văn hố, nghệ nghiệp. Mọi cơ quan, tơ chức déu bình đẳng khơng phụ thuộc và hình thức tổ chức, hình thức sở hữu và những vấn dé khác. Các đương sự déu bình đăng về qun và nghĩa vu trong TTDS, Tồ án có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và

<small>nghĩa vụ cua minh”.</small>

Như vậy, ở nguyên tắc này, chúng ta có thé thấy ba nội dung cơ bản: Moi cơng dân đều bình dang trước pháp luật, các đương sự đều bình dang về quyên và nghĩa vụ trong tố tung va Tồ án có trách nhiệm tạo điều kiện dé họ

<small>thực hiện các quyên và nghĩa vụ của mình.</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

2.1. Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật.

Moi cơng dân đều bình đăng ở đây cần được hiểu là sự bình đăng của các công dân là các chủ thé trong TTDS thuộc các dân tộc, giới tính, thành phần xuất thân, trình độ văn hoá, nghề nghiệp khác nhau, sau nữa là bình đăng của các chủ thé tố tụng là cơ quan, t6 chức khơng phụ thuộc và hình thức tơ chức, hình thức sở hữu và những van đề khác. Theo đó, mặc dù các chủ thể này có những đặc điểm đặc trưng riêng nhưng khi tham gia tô tụng họ đều bình dang trước pháp luật.

2.1.1. Bình đẳng về dân tộc, tơn giáo, tín ngưỡng. 2.1.1.1. Bình đẳng về dân tộc.

Hồ chủ tịch - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc - đã dé lại cho nhân dân Việt Nam một trong những di sản quý, đó chính là tư tưởng của Người về bình đăng dân tộc. Tư tưởng này đã đặt nền móng cho việc củng cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Bình dang dân tộc trong quan niệm của Hồ Chí Minh khác xa bình đăng dân tộc của giai cấp tư sản. Hồ Chí Minh cho rằng, bình dang dân tộc khơng chi cụ thé hóa về mặt pháp lý, mà quan trong hơn là phải được thực hiện trên thực tế. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tiếp tục đề ra những chính sách nhằm thực hiện bình đăng dân tộc. Tháng 8-1952, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết về dân tộc. Tiếp đó, tháng

<small>6-1953, Chính phủ đã ban hành Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam</small>

với tinh thần cơ bản là đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình dang, tương trợ lẫn nhau. Hiến pháp của nước Tòa án ở các thời kỳ cũng khăng định quyền bình dang của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và được cụ thê hố bằng chính sách dân tộc qua các thời kỳ của cách mạng.

Trong suốt quá trình cách mạng Việt Nam, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách dân tộc là nhất quán, theo ngun tắc: các dân tộc bình đăng, đồn kết, tương trợ nhau cùng phát triển. Đây vừa là nguyên tắc, vừa là

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Bình đăng không chỉ là mục tiêu, nguyên tắc được pháp luật ghi nhận mà còn là một quyền đương nhiên, một chân lý khách quan được Hồ Chí Minh khang định trong phan Mở đầu Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945: “Moi người sinh ra đều có qun bình đăng. Tạo hố cho họ những qun khơng ai có thể xâm phạm được, trong những quyên ấy có quyên được sống, quyên tự do và quyền mưu cau

<small>hạnh phúc”.</small>

Binh dang giữa các dân tộc là một trong những nội dung được hình thành và ghi nhận trong đời sống xã hội và đời sông pháp lý ở nước ta từ rất sớm. Chúng ta có thé thấy những giá trị mà sự bình đăng mang lại cho mỗi cá nhân trong xã hội, đặc biệt trong một quốc gia có nhiều thành phần dân tộc như Việt Nam. Bình đăng giữa các dân tộc cho phép mỗi cá nhân, vượt qua sự tự ti về dân tộc dé hòa nhập vào sự phát triển chung của quốc gia; đồng thời nó còn tạo điều kiện dé chia sẻ, giúp đỡ các dân tộc thiểu số cải thiện cuộc sống của chính mình, xóa dan khoảng cách giữa các dân tộc với nhau. Về mặt tổ tụng, sự bình đăng về dân tộc của các chủ thê trước Tòa án bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự được đúng đắn và tạo điều kiện cho các chủ thé thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình.

2.1.1.2. Bình đẳng về tơn giáo, tín ngưỡng.

Quyền bình đăng về tơn giáo, tín ngưỡng ở nước ta cho phép các tơn giáo, tín ngưỡng đều có quyền hoạt động trong khn khổ của pháp luật và đều bình dang trước pháp luật. Mọi cơng dân đều có quyền bình đăng với

<small>nhau trong việc lựa chọn tơn giáo, tín ngưỡng và những nơi thờ tự tín ngưỡngđược pháp luật bảo hộ. Từ xưa tới nay, Nhà nước ta luôn tôn trọng sự lựa</small>

chọn tơn giáo, tín ngưỡng của mỗi cá nhân, mỗi gia đình. Điều này cịn được thé chế hóa trong pháp luật qua những quy định về đảm bảo quyền hoạt động

<small>tín ngưỡng, tơn giáo của cơng dân theo quy định của pháp luật. Cùng với đó,</small>

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

Nhà nước thừa nhận và đảm bảo cho cơng dân có hoặc khơng có tơn giáo đều được hưởng mọi quyền cơng dân và có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân. Đồng thời, pháp luật nghiêm cắm mọi hành vi vi phạm quyên tự do tôn giáo, tín ngưỡng hoặc lợi dụng van dé dan tộc, tin ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây rỗi trật tự công cộng, làm tôn hại đến an ninh quốc gia.

Bình dang giữa các tơn giáo, tín ngưỡng đã được quy định trong nhiều văn bản pháp luật như Hiến Pháp 1992 (Điều 70), Nghị định số 26/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 4 năm 1999 về Các hoạt động tôn giáo, Pháp lệnh số 21/2004/PL-UBTVQHII ngày 18 tháng 6 năm 2004 về tín ngưỡng, tơn giáo... Việc ghi nhận sự bình đăng của các cơng dân khơng phân biệt về tơn giáo, tín ngưỡng của Bộ luật TTDS là sự tiếp nối, cụ thể hoá các vấn đề này trong TTDS. Như vậy, có thê thấy, vấn đề tơn giáo là một trong những nội dung được Nhà nước và pháp luật quan tâm sâu sắc. Những quy định về vấn dé này là cơ sở pháp lý dé mỗi công dân yên tâm thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình mà khơng phụ thuộc vào việc theo hay khơng theo một tơn

<small>giáo, tín ngưỡng nao. Và trước pháp luật nói chung và trước Tịa an nói riêng,</small>

mỗi cá nhân đều được đối xử cơng bằng, bình đăng khơng phụ thuộc vào tơn

<small>giáo, tín ngưỡng mà mình đang theo.</small>

2.1.2. Bình đẳng về giới, thành phan xã hội và nghề nghiệp 2.1.2.1. Bình đẳng về giới.

Yêu câu về bình đăng giới xuất phát từ nhu cầu của mỗi cá nhân, như: nữ giới mong muốn tiếp cận các cơ hội được học tập, được phát triển, nam giới muốn được chia sẻ, gánh vác các công việc trong cuộc sống gia đình. Bên cạnh đó, bình đăng giới còn là yêu cầu của một xã hội phát triển, nơi mà mỗi cá nhân có cơ hội phát huy năng lực của mình, đóng góp trí tuệ cho sự phát triển chung của xã hội mà không bị hạn chế vi lý do giới tính. Binh dang

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

về giới địi hỏi sự tham gia tích cực của cả hai giới (giới nam và giới nữ), nó khơng chỉ được ghi nhận như là một quyền mà còn là “trách nhiệm của của cơ quan, tổ chức, gia đình, cá nhân” (Điều 6 Luật Binh đăng giới). Dé có cơ sở vững chắc cho việc hiện thực hóa vấn đề này trong cuộc sống, bình đắng về giới đã được quy định cụ thể trong Luật Bình đăng giới năm 2006. Văn bản này đã ghi nhận “Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trị ngang nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phat huy năng lực cua mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó” (Khoản 3, Điều 5, Luật Bình đăng giới). Mục tiêu bình đăng giới là xố bỏ phân biệt đối xử về giới, tạo cơ hội như nhau cho nam và nữ trong phát triển kinh tế - xã hội và phát triển nguồn nhân lực, tiến tới bình đăng giới thực chất giữa nam, nữ và thiết lập, củng cô quan hệ hợp tác, hỗ trợ giữa nam, nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình. Vì thế, trong TTDS pháp luật đã quy định mọi người được bình dang về giới dé bảo đảm cho họ thực hiện tốt các quyền và nghĩa vụ trước Tồ án.

Như vậy, có thê thấy vấn đề bình đăng giữa hai giới đã được pháp luật ghi nhận cụ thể trong một đạo luật của Nhà nước ta. Trong các quan hệ, các lĩnh vực xã hội ké cả trong lĩnh vực TTDS, cả hai giới đều được đối xử một cách công bằng. Đặc biệt, theo quy định của pháp luật, van đề giới tính của đương sự không ảnh hưởng tới các phán quyết tại Tòa án.

2.1.2.2. Binh đẳng về thành phan xã hội và nghệ nghiệp.

Ở mỗi thời kỳ, quan điểm về thành phần xã hội có những điểm khác biệt. Nhìn chung, sự phân chia các thành phần xã hội dựa trên những nhóm người với các điều kiện sống, ngành nghề khác nhau. Vì vậy, thành phần xã

<small>hội có khi được chia thành: Si, nơng, cơng, thương (tương ứng với: trí thức,</small>

nơng dân, cơng nhân, nhà bn). Hoặc có thê chia thành lao động chân tay và lao động trí óc... Việc phân chia thành phần xã hội chỉ mang tính tương đối,

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

phù hợp với từng giai đoạn nhất định và thường đi với sự phân loại về nghề nghiệp trong xã hội. Nghề nghiệp là một lĩnh vực hoạt động lao động mà trong đó con người có những tri thức hoặc kỹ năng để làm ra các loại sản phẩm vật chất hay tinh thần nào đó, đáp ứng được những nhu cầu của xã hội. Nghề nghiệp đối với mỗi cá nhân, là công cụ để nuôi sống bản thân, là con đường mà người đó chọn và theo đi cả cuộc đời.

Sự bình đăng về thành phần xã hội giữa các cá nhân hoạt động trong các ngành nghề khác nhau cho phép mỗi người có quyên tự chủ tham gia vào

<small>các lĩnh vực Nhà nước cho phép khơng phụ thuộc vào hồn cảnh gia đình, cá</small>

nhân thuộc thành phần xã hội nào. Sự bình đăng này cũng được ghi nhận

<small>trong Bộ luật dân sự năm 2005 và đây cũng là một nội dung cơ bản của</small>

nguyên tắc bình dang về quyền và nghĩa vụ TTDS đã được ghi nhận trong pháp luật TTDS. Quy định này cho phép mọi cơng dân đều bình dang trước pháp luật không phân biệt thành phan xã hội hay nghề nghiệp đang theo đi.

Như vậy, có thể thấy sự nhất quán trong các quy định pháp luật của Nhà nước ta về bình đăng. Từ các văn bản pháp luật về nội dung đến các văn bản pháp luật TTDS đều ghi nhận vấn đề bình đăng giữa các công dân về thành phần xã hội, nghề nghiệp và đã tạo điều kiện để mỗi cá nhân được hưởng sự công bằng, công minh trước Nhà nước pháp quyền mà không phụ thuộc vào thành phan xã hội hay nghề nghiệp của ho.

2.1.3. Bình dang về trình độ văn hóa

Có thé thay, học vấn và văn hố, tuy có sự gắn bó mật thiết với nhau song không thé thay thé cho nhau. Học van hay học thức nói lên người ta học ở trình độ nào (cấp nào, lớp mấy). Người có học van cao nhưng vẫn chưa chắc được coi là có văn hố. Trong khi, văn hoá là lĩnh vực rất rộng lớn, bao trùm nhiều lĩnh vực thuộc về con người và xã hội lồi người. Văn hóa có thể được hiểu theo hai nghĩa hep và hai nghĩa rộng.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Theo nghĩa hẹp thứ nhất, văn hóa chỉ kiến thức hay học vấn. Một người có văn hóa cao là người đó có kiến thức hay học van cao. Ngược lại, một người được coi là trình độ văn hóa thấp có nghĩa người đó ít học hay kiến

<small>thức kém.</small>

Theo nghĩa hẹp thứ hai, văn hóa dùng dé chỉ văn chương và nghệ thuật, trong đó có đủ các bộ môn ca, nhạc, vũ, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, kịch

<small>trường, điện ảnh... Nghĩa hẹp này được dùng khi nói tới một cơng trình văn</small>

hóa, tác phẩm văn hóa, trung tâm văn hóa, nhà văn hóa, đêm văn hóa, trình diễn văn hóa, triển lãm văn hóa...

Theo nghĩa rộng thứ nhất, văn hóa chỉ phần sinh hoạt của lồi người trong lĩnh vực tinh than. Đó là những học thuyết, những triết lý đưa suy tư của con người lên một bình diện cao hơn đời sơng vật chất hàng ngày. Những

người như Không Tử, Lão Tu, Socrates, Platon... được coi là những người đã <small>nâng cao trình độ văn hóa của nhân loại. Thêm vào đó là những tìm tịi và tin</small>

tưởng có tính cách tâm linh, hay nói nôm na là những niềm tin tôn giáo, những tin tưởng về những gì xảy ra trong cõi vơ hình, có khả năng chi phối ngay trong và sau cuộc đời hiện tại. Theo nghĩa này, văn hóa cịn bao gồm đạo đức, luân lý, tôn giáo nâng con người lên trong lĩnh vực tinh thần.

Theo nghĩa rộng thứ hai, nêu văn hóa được dùng dé chỉ chung sinh hoạt của con người, dé phân biệt những sự vật khác nhau giữa các sinh vật trong vũ trụ, thì văn hóa bao gồm cả văn minh. Vì văn hóa chính là sự tiến bộ của con người cả về phương diện tinh than lẫn vật chất làm cho đời sống con người được hạnh phúc hơn, phong phú hơn. Hay nói cách khác là tiến gần

<small>hơn tới chân, thiện, mỹ.</small>

Như vậy, có thê thấy, văn hóa là thước đo của xã hội về trình độ học

vấn, về lối ứng xử và sự tiến bộ chung của cá nhân và xã hội. Trong xã hội, người ta thường dùng khái niệm văn hóa để phân cấp một nhóm, hay một cá

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

nhân đang có một vị trí thế nào trong mặt băng xã hội. Dù ngày nay xã hội đang hướng tới một sự cơng bằng, bình đăng và xóa đi sự cách biệt giữa các giai tầng trong xã hội, tuy nhiên sự đánh giá, “xếp hạng” về văn hóa vẫn diễn ra một cách âm i, khơng thành văn ở trong các hồn cảnh khác nhau. Điều đó chỉ xảy ra trong các quan hệ xã hội mn màu mn vẻ, trong thói quen, lối sống của người dân. Còn trong quan hệ pháp luật, văn hố hầu như khơng phải một tiêu chí được đưa ra dé đối xử phân biệt giữa các chủ thé trước pháp luật và Tịa án. Mặt khác, bình đăng về mọi mặt giữa các cơng dân chính là

<small>mục tiêu hướng tới của Nhà nước trên con đường xây dựng Nhà nước pháp</small>

qun. Vi vậy, bình đăng về văn hố đã được pháp luật TTDS ghi nhận là một nội dung của nguyên tắc bình đăng về quyền và nghĩa vụ trong TTDS.

Bên cạnh sự bình dang giữa các chủ thé là cá nhân về dân tộc, giới tính, tơn giáo, trình độ văn hố, nghề nghiệp pháp luật TTDS cịn đặc biệt quan tâm tới sự bình dang khi chủ thê tham gia quan hệ pháp luật là các cơ quan, tô chức. Day là các chủ thé đặc biệt trong pháp luật TTDS được hình thành trên cơ sở phát triển kinh tế xã hội. Các chủ thể này tham gia vào một quan hệ

<small>pháp luật TTDS thông qua người đại diện của mình. Và trước pháp luật, trước</small>

Tòa án, các chủ thể là cơ quan, tổ chức đều có các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật khơng phụ thuộc vào hình thức tổ chức, hình thức sở hữu của tổ chức đó.

Như vậy, có thê thấy sự bình đăng ln là mục tiêu hướng tới của mỗi cá nhân và xã hội. Trong bat cứ lĩnh vực nào của xã hội như kinh tế, văn hóa, pháp luật... chỉ có sự bình đăng mới tạo điều kiện và tạo sự thỏa mãn dé mỗi cá nhân yên tâm đóng góp cho sự phát triển chung của đất nước. Bởi vậy, pháp luật đã ghi nhận sự bình đăng giữa các chủ thé trong TTDS trước Tòa án và pháp luật dé bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thé va động

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

<small>viên được mọi người tích cực đóng góp cơng sức cho nước nhà trong công</small>

cuộc xây dựng nhà nước công bằng, dân chủ, văn minh. 2.2. Bình đẳng giữa các đương sự trước Tồ án

Ngun tắc bình đăng trong TTDS cịn được thê hiện với nội dung là sự bình dang về quyền và nghĩa vụ giữa các đương sự dù ở các vị trí tố tụng khác nhau hay ở cùng vi trí tổ tung. Sự bình đăng này thé hiện ở những nội dung cơ

<small>bản sau đây:</small>

2.2.1. Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ chung của đương sự

Trước hết, về tư cách tố tụng, khoản 1 Điều 56 BLTTDS quy định: “Đương sự trong vụ án dan sự là cá nhân, cơ quan, tô chức bao gồm nguyên đơn, bi don, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan”. Như vậy, đương sự có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức tham gia TTDS với tư cách là nguyên đơn, bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Khi tham gia tơ tụng họ bình dang với nhau khơng phụ thuộc vào quy mơ, hình thức tổ chức, uy tín của cá nhân, cơ quan, tơ chức đó.

Hiện nay các quy định của pháp luật TTDS về “quyền và nghĩa vụ tố tụng của các đương sự” được xây dựng trên cơ sở bảo đảm sự bình đăng về quyền và nghĩa vụ của họ khi các chủ thé là cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia tố tụng. Mặt khác, BLTTDS còn quy định cho các đương sự ở các vi tri tố tụng khác nhau có những quyền và nghĩa vụ chung tại Điều 58 BLTTDS. Theo đó, các đương sự có các quyền và nghĩa vụ như nhau về cung cấp chứng cứ, chứng minh dé bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình; quyền yêu cầu cá nhân, cơ quan, tô chức đang lưu giữ, quản lý chứng cứ cung cấp chứng cứ cho mình; quyền đề nghị Tồ án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà mình khơng thể thực hiện được; quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác cung cấp; quyền đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khan cấp tạm thời...

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

2.2.1.1. Bình dang về quyền TTDS

Theo quy định từ Điều 58 đến Điều 61 của BLTTDS, các đương sự đều có các quyền và nghĩa vụ tơ tụng. Pháp luật ghi nhận cho các chủ thé tham gia tơ tụng dân sự được bình đăng với nhau trong việc thực hiện các quyền t6

tung ay.

- Quyên yêu câu cá nhân, cơ quan tổ chức dang lưu giữ hô sơ, quản lý tài liệu, chứng cứ cung cấp tài liệu chứng cứ đó cho mình để giao nộp cho

<small>Tồ an</small>

Trong TTDS, các đương sự có qun, lợi ích liên quan đến vụ việc nên phải đưa ra chứng cứ, tài liệu để chứng minh cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trong trường hợp đương sự khơng thê tự mình thu thập tài liệu, chứng cứ thì có thể đề nghị Toà án xác minh, thu thập như đề nghị Toà án triệu tap người làm chứng, trưng cầu giám định, định giá, thâm định giá, yêu cầu cá nhân, cơ quan, t6 chức cung cấp chứng cứ....

- Quyên được biết và ghi chép, sao chụp chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tồ án thu thập

Việc ghi chép, sao chụp chứng cứ là điều rất cần thiết giúp cho các đương sự có thơng tin chính xác dé đưa ra chứng cứ, tài liệu chứng minh cho quyên, lợi ich của mình. Chứng cứ dù là đương sự cung cấp hay Toa án thu thập nếu các đương sự khác yêu cầu được biết thì Tồ án tạo điều kiện cho họ được biết, ghi chép, sao chụp. Quy định này vừa thé hiện sự cơng khai hố cơng tác xét xử trong tơ tụng vừa tạo điều kiện cho các đương sự thực hiện được việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như thé hiện sự bình dang giữa các đương sự trong việc tham gia tố tụng.

- Quyên yêu cau áp dung, thay đồi huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong nhiều vụ án dân sự là cần thiết. Vì vậy, BLTTDS quy định: “trong quá trình giải quyét vụ án,

</div>

×