Tải bản đầy đủ (.pdf) (65 trang)

nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong tố tụng hình sự lý luận – thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 65 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA LUẬT
BỘ MÔN TƯ PHÁP


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
NIÊN KHÓA: 2011-1015

Đề Tài
NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRONG
TRANH LUẬN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
LÝ LUẬN – THỰC TIỄN

Giáo viên hướng dẫn:
Th.s Mạc Giáng Châu

Sinh viên thực hiện:
Lê Hoàng Vỉnh
MSSV: 5115865
Lớp: Luật Tư pháp 1 – K37

Cần thơ, 11/2014


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

LỜI CÁM ƠN
Trải qua bốn năm học tập dưới mái trường Đại học Cần Thơ đã trang bị cho


tôi những vốn kiến thức, những trải nghiệm và bài học quý báu làm hành trang bước
vào tương lai. Để đạt được những kết quả như ngày hôm nay cũng như để hoàn
thành tốt luận văn tốt nghiệp thì ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi xin gửi lời cảm ơn
chân thành nhất đến:
Quý Thầy, Cô trường Đại học Cần Thơ, quý Thầy, Cô Khoa Luật đã tận tình
truyền đạt cho tôi những vốn kiến thức quý giá trong suốt quá trình học tập tại
trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cám ơn sâu sắc đến cô Mạc Giáng Châu, cô đã hướng
dẫn tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp. Cô đã
giúp tôi có những định hướng nghiên cứu, phương pháp tiếp cận và giải quyết vấn
đề một cách hoàn chỉnh.
Dù đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài nhưng chắc chắn vẫn
không tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp
quý báu của quý Thầy, Cô và các bạn sinh viên để đề tài luận văn được hoàn thiện
hơn.
Cuối lời tôi xin kính chúc quý Thầy, Cô và các bạn sinh viên thật nhiều sức
khỏe và thành công trong công việc.

Cần Thơ, ngày

tháng

năm

Người viết

Lê Hoàng Vỉnh

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu


SVTH: Lê Hoàng Vỉnh


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN
...............................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................

...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................
...........................................................................................................................

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC
BÌNH ĐẲNG TRONG TRANH LUẬN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ............ 5
1.1. Khái quát chung về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận ........................ 5
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản ......................................................................................... 5
1.1.1.1. Khái niệm về nguyên tắc bình đẳng trong Tố tụng hình sự ................. 5
1.1.1.2. Khái niệm về tranh luận trong Tố tụng hình sự .................................. 7
1.1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận ......................... 8
1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận ................................... 10

1.1.2.1. Bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc đặc biệt của nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong xét xử ..................................................................... 10
1.1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận chỉ áp dụng tại phiên tòa ... 13
1.1.2.3. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận có đối tượng tác động là các
chủ thể tham gia tranh luận ............................................................................. 15
1.2. Cơ sở lý luận về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận ............................. 17
1.2.1. Bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc Hiến định, được cụ thể hóa
trong pháp luật tố tụng hình sự ........................................................................................ 17
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận là điều kiện cần của việc xét xử
công bằng và khách quan. ................................................................................................. 18
CHƢƠNG 2. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT
NAM VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRONG TRANH LUẬN ................... 20
2.1. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận .................................. 20
2.1.1. Tranh luận công khai và dân chủ ........................................................................ 20
2.1.1.1. Tranh luận phải diễn ra công khai .................................................... 20
2.1.1.2. Tranh luận phải diễn ra dân chủ ....................................................... 23
2.1.2. Chủ tọa phiên tòa giữ vai trò là trọng tài trong tranh luận ........................... 25
2.1.2.1. Điều khiển sự tranh luận giữa bên buộc tội và bên bào chữa........... 25
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

2.1.2.2. Duy trì trật tự và đảm bảo cho các chủ thể tham gia tranh luận thực
hiện đầy đủ các quyền của mình ...................................................................... 27

2.1.3. Bình đẳng quyền giữa chủ thể mang quyền lực nhà nước và chủ thể
không mang quyền lực ....................................................................................................... 28
2.2. Cơ chế đảm bảo thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận ........ 30
2.2.1. Bảo đảm về mặt pháp lý ........................................................................................ 30
2.2.1.1. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận thông qua
Hiến pháp ........................................................................................................ 30
2.2.1.2. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận thông qua
pháp luật tố tụng hình sự ................................................................................. 31
2.2.2. Bảo đảm về mặt tổ chức ........................................................................................ 32
2.2.2.1. Bảo đảm tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp .................. 32
2.2.2.2. Bảo đảm tổ chức và hoạt động của các cơ quan, tổ chức bổ trợ tư
pháp ................................................................................................................. 34
2.2.3. Bảo đảm về trình độ hiểu biết pháp lý của hội đồng xét xử, kiểm sát viên
và luật sư ................................................................................................................................ 34
2.2.3.1. Bảo đảm trình độ pháp lý của Hội đồng xét xử. ................................ 34
2.2.3.2. Bảo đảm trình độ pháp lý của kiểm sát viên...................................... 36
2.2.3.3. Bảo đảm trình độ pháp lý của Luật sư .............................................. 37
CHƢƠNG 3. NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRONG TRANH LUẬN THỰC
TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ....................................................................................... 39
3.1. Một số tồn tại về mặt lý luận và pháp lý của Bộ luật Tố tụng hình sự
trong quy định về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận và các giải pháp
đề xuất ................................................................................................................................... 39
3.1.1. Một số tồn tại về mặt lý luận ................................................................................ 39
3.1.1.1. Về việc bình đẳng tại phiên tòa ........................................................ 39
3.1.1.2. Về việc bình đẳng tại các giai đoạn tố tụng khác .............................. 40
3.1.1.3. Về chức năng của Kiểm sát viên tại phiên tòa .................................. 41
3.1.2. Một số tồn tại về mặt pháp lý ............................................................................... 42
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh



Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

3.1.2.1. Quy định về vai trò của Hội đồng xét xử trong việc điều khiển hoạt
động tranh luận bình đẳng .............................................................................. 42
3.1.2.2. Quy định về vấn đề người bào chữa vắng mặt tại phiên tòa ............. 43
3.2. Thực trạng vấn đề đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận theo
Bộ luật Tố tụng hình sự và các giải pháp ................................................................. 44
3.2.1. Thực trạng vấn đề đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận theo
Bộ luật Tố tụng hình sự ..................................................................................................... 44
3.2.1.1. Vai trò của Hội đồng xét xử trong việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng
trong tranh luận ............................................................................................... 44
3.2.1.2. Vai trò của Kiểm sát viên trong việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng
trong tranh luận ............................................................................................... 47
3.2.1.3. Vai trò của Luật sư trong việc đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong
tranh luận ......................................................................................................... 48
3.2.2. Các giải pháp cụ thể đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
trong Tố tụng hình sự ......................................................................................................... 50
3.2.2.1. Đối với Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ....................................... 50
3.2.2.2. Đối với Kiểm sát viên......................................................................... 51
3.2.2.3. Đối với Luật sư tham gia bào chữa ................................................... 52
3.2.2.4. Các giải pháp khác ............................................................................ 53
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu


SVTH: Lê Hoàng Vỉnh


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

Luận văn tốt nghiệp

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những năm qua, tình hình vi phạm pháp luật ở nước ta xảy ra khá nghiêm
trọng, diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng ảnh hưởng đến quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Cùng với sự nỗ lực của toàn xã hội, các cơ quan
tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng trong công tác tư pháp nên đã góp phần quan
trọng vào việc giữ vững an ninh - chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tuy nhiên, chất
lượng công tác tư pháp nói chung và công tác xét xử nói riêng còn chưa ngang tầm
với yêu cầu và nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó, còn bộc lộ nhiều yếu kém,
bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp
của Nhà nước, của xã hội và công dân, gây nhiều hậu quả đáng tiếc cho người bị kết

án oan, người thân và xã hội,... Những điều đó đã tạo nên dư luận xã hội không tốt,
khiến nhân dân thiếu lòng tin vào tòa án và nền công lý xã hội chủ nghĩa.
Tại Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/1/2002 “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: “…Nâng cao
chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với
Luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác …Việc phán quyết
của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem
xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa,
bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp
để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời
hạn pháp luật quy định…”. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 “Về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” của Bộ Chính trị tiếp tục xác định một trong
những nhiệm vụ cải cách tư pháp ở nước ta là “Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét
xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng theo hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh;
nâng cao chất lương tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá
của hoạt động tư pháp…”.
Tuy nhiên, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự những năm gần đây cho thấy
nhìn chung chất luợng, hiệu quả xét xử nói chung và hoạt động tranh luận tại các
phiên toà hình sự nói riêng chưa cao, còn nhiều bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu cải
cách tư pháp ở nước ta giai đoạn hiện nay. Tình trạng này do nhiều nguyên nhân
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
1


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn


Luận văn tốt nghiệp

khách quan và chủ quan khác nhau như: Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành nói
chung chưa quy định đầy đủ, cụ thể và rõ ràng, các quy định về đảm bảo sự bình
đẳng giữa các chủ thể tham gia xét xử tại phiên tòa hình sự sơ thẩm nói chung và
tranh luận tại phiên tòa nói riêng, đồng thời kỹ năng của đội ngũ Thẩm phán, Kiểm
sát viên và Luật sư còn nhiều hạn chế, tinh thần trách nhiệm chưa cao,…
Liên quan đến vấn đề tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm đã có một số
công trình khoa học quan tâm nghiên cứu ở phạm vi và mức độ khác nhau. Tuy
nhiên, các công trình này mới chỉ đề cập đến một số khía cạnh nhất định của vấn đề
tranh luận như: về kỹ năng và văn hóa khi tranh luận, địa vị pháp lý của các chủ thể
tham gia tranh luận, thủ tục tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm,…mà chưa có
công trình nào nghiên cứu về lý luận và thực tiễn bình đẳng giữa các chủ thể khi
tham gia tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Vì vậy, việc nghiên cứu về bình
đẳng trong tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm là cần thiết.
Tất cả các luận cứ nêu trên chính là lý do để tác giả lựa chọn đề tài “Nguyên
tắc bình đẳng trong tranh luận trong Tố tụng hình sự lý luận – thực tiễn” để làm
đề tài tốt nghiệp của mình.
2. Phạm vi nghiên cứu
Tranh luận tại phiên tòa là một vấn đề khá quan trọng trong quá trình xét xử
tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và bình đẳng trong tranh luận có thể xem là một trong
những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Nên
trong phạm vi nghiên cứu của mình tác giả chỉ tập trung nghiên cứu vào bình đẳng
trong tranh luận giữa các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm.
Với phạm vi nghiên cứu này tác giả sẽ tập trung nghiên cứu về sự bình đẳng
giữa những chủ thể tham gia tố tụng trong tranh luận dưới góc độ lý luận, phân tích
những quy định của pháp luật về bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ
thẩm, và chỉ ra những vướng mắc trong hoạt động thực tiễn của những chế định
này. Từ đó, đưa ra những quan điểm, giải pháp góp phần nâng cao chất lượng hoạt
động xét xử nói riêng và của các cơ quan tư pháp nói chung.

3. Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong Tố tụng
hình sự lý luận – thực tiễn” tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm khái niệm, cơ
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
2


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

sở lý luận, bản chất, nội dung của sự bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa hình
sự sơ thẩm, đồng thời chỉ ra những bất cập của qui định pháp luật Tố tụng hình sự ở
nước ta hiện nay, thông qua đó đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao
hiệu quả của hoạt động tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm hiện nay, hướng tới
xây dựng phiên tòa hình sự thực sự công bằng, bình đẳng và dân chủ góp phần vào
công cuộc cải cách tư pháp.
Về vấn đề lý luận, tác giả làm rõ các khái niệm, đặc điểm và cơ sở lý luận
liên quan đến bình đẳng trong tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Về pháp lý,
tác giả sẽ phân tích làm rõ các điều luật về sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia
tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm. Đồng thời đưa ra các kiến nghị sửa đổi các
điều luật để đảm bảo được sự bình đẳng trong vấn đề tranh luận tại phiên tòa và các
giải pháp về con người trong công cuộc đổi mới hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong đề tài luận văn này, tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên
cứu như sau: phương pháp nghiên cứu trên tài liệu, sách vở, phương pháp nghiên
cứu và phân tích luật viết, phương pháp sưu tầm số liệu và phương pháp tổng hợp

các thông tin thông qua các bài viết, các văn bản pháp luật có liên quan, một số
sách, các công trình nghiên cứu có giá trị và tạp chí chuyên ngành.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn này
bao gồm có ba chương với kết cấu như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bình đẳng
trong tranh luận trong Tố tụng hình sự.
Chương 2: Các quy định của pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam về
nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận.
Chương 3: Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận - thực trạng và giải
pháp.
Đề tài nghiên cứu “Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong Tố tụng
hình sự lý luận – thực tiễn” là một vấn đề khá phức tạp, đòi hỏi người nghiên cứu
đề tài cần có kiến thức sâu rộng cả về lý luận lẫn thực tiễn về quá trình tranh luận tại

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
3


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

phiên tòa. Ngoài ra, nó còn đòi hỏi tác giả phải biết nắm bắt được những vấn đề cốt
lõi, những tồn tại và vướng mắc còn gặp phải, để từ đó đề xuất giải pháp giải quyết.
Là một sinh viên năm cuối, lần đầu tiên làm quen với một đề tài nghiên cứu khoa
học mà thời gian nghiên cứu còn hạn chế cũng như vốn kiến thức hiểu biết có giới

hạn. Vì vậy, có những thiếu sót, khiếm khuyết hay sai lầm trong đề tài nghiên cứu
này là điều không thể tránh khỏi. Tác giả rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến
đánh giá, phê bình của thầy cô và các bạn sinh viên.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
4


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
TRONG TRANH LUẬN TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái quát chung về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1.1. Khái niệm về nguyên tắc bình đẳng trong Tố tụng hình sự
Quyền bình đẳng trước pháp luật là một quyền con người. Đó là quyền được
xác lập với tư cách con người trước pháp luật, không bị pháp luật phân biệt đối xử,
quyền có vị thế ngang nhau trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ như
nhau. Quyền bình đẳng trước pháp luật được xem xét ở các cấp độ khác nhau.
Trước hết, quyền bình đẳng trước pháp luật được thể hiện là nhu cầu của một chủ
thể tự nhiên với tư cách là một con người buộc phải có và cần phải có. Thứ hai,
quyền bình đẳng trước pháp luật là một giá trị của xã hội loài người. Thứ ba, mọi
người thực hiện quyền bình đẳng đó bằng công cụ pháp luật thông qua việc thể chế
hóa và tạo ra cơ chế bảo vệ khi nó bị xâm phạm. Nói cách khác, quyền bình đẳng

trước pháp luật là sự bao quát gần như toàn bộ các quyền bình đẳng trong mọi lĩnh
vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội dưới sự điều chỉnh của pháp luật. Điều
này được quyết định bởi thuộc tính, vai trò của pháp luật trong xã hội với tư cách là
các quy phạm do nhà nước ban hành, thừa nhận và đảm bảo thực hiện nhằm điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
Bình đẳng và pháp luật là hai khái niệm có quan hệ mật thiết với nhau. Nói
cách khác, để đánh giá ở đâu đó có được sự bình đẳng hay không hãy nhìn vào pháp
luật. Bình đẳng trước pháp luật là bình đẳng về quyền và nghĩa vụ pháp lý. Về mối
quan hệ giữa bình đẳng và pháp luật, Mác đã nói: “Về bản chất, pháp luật chỉ có
thể là sự vận dụng một đại lượng ngang bằng với những người khác nhau”.1 Đại
lượng ngang bằng ở đây là pháp luật. Bởi lẽ, các giá trị về bình đẳng trong mọi lĩnh
vực của cuộc sống được xã hội thông qua nhà nước và thể chế hóa thành pháp luật.
Pháp luật trở thành thước đo mang tính chuẩn mực cho sự bình đẳng.

1

K. Mác, Sự khốn cùng của triết học, NXB Sự thật, Hà Nội năm 1971, tr. 93.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
5


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

Việc đánh giá có bình đẳng hay không bình đẳng trước pháp luật nhiều khi

còn ở chỗ quan niệm thế nào là bình đẳng trước pháp luật và pháp luật ở đây là thứ
pháp luật như thế nào? Bình đẳng là sự đối xử như nhau nhưng có lẽ không chỉ
dừng ở đó. Bình đẳng được hiểu theo chiều dọc và chiều ngang. Đó là sự đối xử
như nhau đối với những người có hoàn cảnh như nhau và đối xử khác nhau với
những người có hoàn cảnh khác nhau. Cùng một hành vi phạm tội như nhau nhưng
những người chưa thành niên không phải chịu mức án tử hình… Đó là những biểu
hiện của bình đẳng theo chiều dọc mà mới nhìn tưởng như là sự bất bình đẳng.
Bình đẳng trước pháp luật là một trong những nguyên tắc được quy định
xuyên suốt trong tất cả các bản Hiến pháp và được quy định tại Khoản 1, Điều 16
Hiến pháp 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2013 là “ mọi người điều bình đẳng trước
pháp luật”. Vì vậy nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật không chỉ được cụ thể
hóa trong Hiến pháp mà còn được cụ thể hóa trong Tố tụng hình sự, điển hình là
Điều 5, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 là “Tố tụng hình sự tiến hành theo nguyên tắc
mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt dân tộc, nam nữ, tín
ngưỡng, tôn giáo, thành phần xã hội, địa vị xã hội. Bất cứ người nào phạm tội đều
bị xử lý theo pháp luật”. Bình đẳng trong tố tụng hình sự có thể được hểu là:
Thứ nhất, Đó là sự bình đẳng của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với
bị cáo, Luật sư và những người tham gia tố tụng khác. Bình đẳng ở đây là bình đẳng
trên cơ sở quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng. Nói cách khác, sự
bình đẳng giữa các bên tranh tụng không hẳn là sự bình đẳng thực tế về địa vị pháp
lý cũng như không có nghĩa là các bên có quyền và nghĩa vụ như nhau do bên bào
chữa và bên buộc tội thực hiện các chức năng khác nhau trong tố tụng hình sự, nhất
là tại phiên toà. Do đó, quyền bình đẳng giữa bên bào chữa và bên buộc tội được
hiểu là bình đẳng về phương diện tố tụng khi cả hai đề có tư cách tố tụng là người
tham gia phiên toà, đều được pháp luật quy định cho các quyền ngang nhau để thực
hiện hiệu quả các chức năng của mình.
Thứ hai, Đó là sự bình đẳng giữa Hội đồng xét xử với người tham gia tố tụng
như bị cáo, người bị hại, Luật sư, người bào chữa và các tổ chức cá nhân tham gia
tố tụng khác. Tức là Hội đồng xét xử phải tạo điều kiện cho những người tham gia
tố tụng trình bày đầy đủ ý kiến của mình, không những thế Hội đồng xét xử phải


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
6


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

chú ý lắng nghe và tôn trọng lẽ phải của bên công tố qua lời luận tội và những căn
cứ buột tội và cả ý kiến phản biện của bị cáo, người bị hại, Luật sư …
Từ những lý lẽ trên có thể đưa ra khái niệm về nguyên tắc bình đẳng trong tố
tụng hình sự là “nguyên tắc không bị phân biệt đối xử trong việc hưởng các quyền
và thực hiện các nghĩa vụ tố tụng đối với các chủ thể tham gia tố tụng”.
1.1.1.2. Khái niệm về tranh luận trong Tố tụng hình sự
Tranh luận là một thủ tục bắt buộc, là phần trọng tâm của toàn bộ quá trình
xét xử vụ án hình sự. Thông qua hoạt động tranh luận, đối đáp được tiến hành một
cách dân chủ, công khai và không bị giới hạn về thời gian tại phiên tòa dưới sự điều
khiển của Chủ tọa phiên tòa, trên cơ sở các chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại
phiên toà và các quy định của pháp luật, các chủ thể thuộc bên buộc tội và bên bào
chữa đưa ra quan điểm, lập luận của mình về các tình tiết khách quan và hướng giải
quyết vụ án nhằm thuyết phục Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của mình và bác
bỏ quan điểm, lập luận của phía bên kia.
Có thể thấy rằng tranh luận tại phiên tòa hình sự có ý nghĩa và vai trò rất lớn
đối với quá trình xét xử vụ án hình sự sơ thẩm, nó được thể hiện ở một số điểm sau
đây:
Thứ nhất, Tranh luận tại phiên tòa thể hiện không chỉ tính minh bạch, công

khai và dân chủ của Tố tụng hình sự mà còn cả bản chất dân chủ của Nhà nước Xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Thứ hai, Việc tranh luận, đối đáp của Kiểm sát viên với bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác sẽ làm cho phiên tòa khách quan, sống
động hơn, đồng thời góp phần xóa bỏ tình trạng xét xử theo kiểu “án bỏ túi” đã tồn
tại trước đây mà dư luận xã hội đã từng phê phán và nâng cao uy tín của Viện kiểm
sát, Tòa án cũng như củng cố niềm tin của nhân dân vào công lý .
Tranh luận là một quá trình quan trọng của toàn bộ quá trình xét xử tại phiên
tòa, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến phán quyết cuối cùng của Hội đồng xét xử vì qua
quá trình tranh luận sẽ giúp cho Hội đồng xét xử có được đánh giá tổng thể về các
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ và các chứng cứ buột tội, gỡ tội một cách khách quan
nhất.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
7


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

Hiện nay, trong khoa học pháp lý đã có khá nhiều tác giả đã nghiên cứu và
đưa ra nhiều quan điểm của mình về tranh luận và tiêu biểu nhất là:
Thứ nhất là “Tranh luận trước Toà án là một phần xét xử vụ án tại phiên toà,
trong đó Công tố viên, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự hoặc người đại diện của
họ, người bào chữa (trường hợp không có người bào chữa thì bản thân bị cáo) phát
biểu, phân tích các chứng cứ được đưa ra xem xét, trình bày kết luận của mình về

vụ án”.2
Thứ hai là “Tranh luận tại phiên tòa hình sự bao gồm toàn bộ các quan
điểm, lập luận về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án hình sự mà các chủ thể của
bên buộc tội và bên bào chữa đưa ra tại phiên toà đề nghị Hội đồng xét xử chấp
nhận hoặc bác bỏ khi ra phán quyết về vụ án”.3
Nói chung cả hai khái niệm trên điều có sự tương đồng với nhau, đó là tranh
luận chính là quá trình đối đáp, phân tích các chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên qua đến
vụ án và đưa ra những ý kiến của mình xung quanh lời buột tội của Kiểm sát viên.
Từ những phân tích trên, có thể khái niệm tranh luận là: “Tranh luận trong tố tụng
hình sự là một thủ tục (một phần) bắt buộc của phiên tòa hình sự sơ thẩm , trong đó
các chủ thể của bên buộc tộ (Kiểm sát viên, người bị hại, bị đơn dân sự,…), bên bào
chữa (người bào chữa, bị cáo,…) và những người có liên quan khác đưa ra quan
điểm, lập luận của mình về các chứng cứ, các tình tiết của vụ án đã được làm rõ tại
phần xét hỏi và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận quan điểm của mình và bác bỏ
quan điểm của bên đối lập về hướng giải quyết các vấn đề trong vụ án giúp cho Hội
đồng xét xử ra phán quyết về vụ án đúng pháp luật.”
1.1.1.3. Khái niệm về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
Tranh luận là một quá trình quan trọng nhất của cả vụ án nên để việc tranh
luận được thực hiện và thực hiện có hiệu quả thì yêu cầu phải có các điều kiện nhất
định. Một trong các điền kiện quan trọng là bên buột tội và bên bào chữa phải thực
sự bình đẳng với nhau và tòa án phải độc lập khách quan đảm bảo cho hai bên có
các điều kiện như nhau để thực hiện chức năng của mình. Sẽ bất bình đẳng khi pháp
Hồ Đức Anh, Hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự 2003 về phạm vi tranh luận và
chủ thể tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 20 năm 2007, Tr 31-38.
2

Lê Đức Tiết , Kỹ năng và văn hoá tranh luận tại phiên toà , Tạp chí kiểm sát số 12 năm 2005, Tr.
42 – 44.
3


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
8


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

luật dành cho một bên quá nhiều phương tiện còn bên kia thì lại quá ít. Không nên
quan niệm rằng vì bên buột tội (bên công tố) là đại diện cho Nhà nước còn bên kia
chỉ là đại diện của quyền lợi của đương sự nên không thể bình đẳng được.
Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận bảo đảm quyền bình đẳng giữa các
chủ thể tham gia vào quá trình tranh luận. Khi tham gia vào quá trình tranh luận các
chủ thể tham gia được bảo đảm quyền bình đẳng với nhau trong việc sử dụng các
biện pháp để thực hiện một cách có hiệu quả chức năng của mình . Nội dung của
nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận được thể hiện rõ nét nhất trong Điều 19 Bộ
luật tố tụng hình sự 2003: “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại ,
nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ
án, người đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự điều có
quyền bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra các yêu
cầu và tranh luận dân chủ trước Tòa án”. Sự bình đẳng giữa các bên trong tranh
luận có nghĩa là các bên được pháp luật dành cho các quyền và phương tiện ngang
nhau để thực hiện các chức năng của mình chứ không phải bình đẳng về quyền hạn
và nghĩa vụ.
Hiện tại vẫn chưa có khái niệm pháp lý chính thức nào định nghĩa về nguyên
tắc bình đẳng trong tranh luận trong Tố tụng hình sự, nhưng trong quá trình tranh
luận tại phiên tòa thì vấn đề bình đẳng rất được xem trọng và đặt lên hàng đầu.

Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận bảo đảm quyền bình đẳng giữa các chủ thể
tham gia vào quá trình tranh luận. Nội dung của nguyên tắc bình đẳng trong tranh
luận được thể hiện rõ nét nhất trong Điều 19 Bộ luật tố tụng hình sự 2003, ta có thể
hiểu:
Thứ nhất, Bình đẳng trong tranh luận là sự bình đẳng giữa bên bào chữa và
bên công tố trong việc trình bày ý kiến và đối đáp dân chủ với nhau: đây là nội dung
chính của nguyên tắc, việc tranh luận đối đáp giữa hai bên bào chữa và bên kiểm sát
viên sẽ giúp cho Hội đồng xét xử đánh giá các chững cứ và đưa ra phán quyết đúng
pháp luật, tránh tình trạng “oan sai”.
Thứ hai, Bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu của mình về những vấn đề mà
pháp luật quy định cho họ có quyền yêu cầu. Đây là một nội dung cũng khá quan
trọng trong tranh luận, trong quá trình tranh luận tại phiên tòa các chủ thể tham gia

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
9


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

tranh luận có quyền yêu cầu Chủ tọa phiên tòa cho họ được quyền triệu tập người
làm chứng, được quyền hỏi,... nhằm làm các tình tiết liên quan đến vụ án.
Từ những lý lẽ trên có thể đưa ra khái niệm cơ bản về nguyên tắc bình đẳng
trong tranh luận: “ Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận là việc bảo đảm Kiểm sát
viên, bị cáo, người bào chữa và các chủ thể tham gia tố tụng tại phiên tòa có quyền
phát biểu ý kiến, áp dụng pháp luật để bảo vệ quyền lợi của mình hay đưa ra quan

điểm về cách giải quyết vụ án và phản bác ý kiến của người khác theo quy định của
pháp luật tố tụng hình sự, mà không bị phân biệt hay đối xử”.
1.1.2. Đặc điểm của nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
1.1.2.1. Bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc đặc biệt của nguyên tắc
bảo đảm tranh tụng trong xét xử
Trong những năm gần đây, đặc biệt là từ sau khi có Nghị quyết số 08NQ/TW “Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” năm
2002 và Nghị quyết số 49-TQ/TW Nghị quyết của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020” năm 2005, thì “tranh tụng” là một thuật ngữ, một khái
niệm được sử dụng khá phổ biến trong khoa học pháp lý. Tuy nhiên, trong các văn
bản pháp luật của nước ta nói chung và trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 nói
riêng điều không đề cập gì về khái niệm này, thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được
đề cập trong Hiến Pháp 2013 tại Khoản 5, Điều 103 và xem nó như là một nguyên
tắc đặc biệt trong Tố tụng hình sự đó là “ Bảo đảm tranh tụng trong xét xử”. Vì
vậy, trong khoa học luật Tố tụng hình sự đã có nhiều quan điểm nhận thức khác
nhau về các khái niệm “tranh tụng” và “tranh luận” tại phiên toà. Có thể phân các
quan điểm này thành ba nhóm cơ bản sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng “Tranh tụng chính là quá trình tranh luận, trao
đổi giữa các bên. Trong tranh tụng các quan điểm pháp lý khác nhau được cọ sát
và chân lý khách quan xuất hiện”.4 Theo quan điểm này thì “tranh tụng” và “tranh
luận” tại phiên tòa là hai khái niệm đồng nhất với sự tham gia đồng thời và đầy đủ
của các chủ thể thuộc bên buộc tội, bên bào chữa và các chủ thể tham gia tố tụng
khác.

Tống Anh Hào, Bàn về vấn đề tranh tụng trong tố tụng hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân số 5
năm 2003, Tr 2-4.
4

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh

10


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

Quan điểm thứ hai cho rằng “Tranh tụng là hoạt động của những người tiến
hành tố tụng và những người tham gia tố tụng tại phiên tòa, tham gia vào việc làm
rõ sự thật của vụ án và cơ sở áp dụng pháp luật, làm căn cứ để Hội đồng xét xử
xem xét, quyết định”. Còn “tranh luận” là “Một thủ tục, một phần độc lập của phiên
tòa sơ thẩm... Thủ tục tranh luận thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhất nội dung của
nguyên tắc tranh tụng”. Tranh luận có nội hàm hẹp hơn tranh tụng, là một phần
của tranh tụng”.5 Theo hai quan điểm này tranh tụng bao gồm không chỉ phần tranh
luận tại phiên tòa mà còn cả các phần khác (xét hỏi và nghị án) của hoạt động xét
xử, trong đó phần tranh luận công khai tại phiên tòa thể hiện một cách tập trung và
rõ nét nhất quá trình tranh tụng.
Ngoài ra “tranh tụng” còn có nghĩa là “Sự kiện cáo nhau giữa hai bên có lập
trường tương phản yêu cầu Tòa án phân xử”.6 Tranh tụng là các hoạt động tố tụng
được thực hiện bởi các bên tham gia tố tụng (bên buộc tội và bên bị buộc tội) có
quyền bình đẳng với nhau trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ để bảo vệ các quan
điểm và lợi ích của mình, phản bác lại các quan điểm và lợi ích của phía đối lập.
Tranh tụng tại phiên tòa là những hoạt động tố tụng được tiến hành tại phiên tòa xét
xử bởi hai bên tham gia tố tụng, nhằm bảo vệ ý kiến, luận điểm của mỗi bên và bác
bỏ ý kiến, luận điểm của phía bên kia, dưới sự điều khiển, quyết định của Tòa án
với vai trò trung gian, trọng tài. Có nhiều quan điểm đã đồng tình với quan điểm
này và cho rằng quá trình tranh tụng bao gồm toàn bộ quá trình xét xử vụ án tại
phiên tòa hình sự bắt đầu từ thời điểm khai mạc phiên toà và kết thúc sau khi công
bố phán quyết của Toà án.

Như vậy, có thể khẳng định rằng “tranh tụng” và “tranh luận” tại phiên tòa
hình sự là các khái niệm không đồng nhất. Giữa chúng có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, trong đó “tranh tụng tại phiên tòa” là “cái chung” (tổng thể) và “tranh luận tại
phiên tòa” là “cái riêng” (bộ phân cấu thành). Vì vậy, khái niệm “tranh tụng tại
phiên tòa” có nội hàm rộng hơn bao gồm không chỉ phần tranh luận mà cả các phần
khác (thủ tục phiên toà, xét hỏi, nghị án và tuyên án) của quá trình xét xử vụ án hình

Nguyễn Hữu Hậu, Cần nhận thức đúng đắn về tranh tụng và tranh luận để nâng cao kỹ năng
tranh luận của Kiểm sát viên tại các phiên tòa hình sự, Tạp chí Kiểm sát số 8/2006, tr 33-38.
5

6

Từ điển Tiếng việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1991, tr.1238.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
11


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

sự, còn “tranh luận tại phiên toà” chỉ là một bộ phận cấu thành của tranh tụng và là
sự thể hiện một cách tập trung, rõ nét nhất của quá trình tranh tụng.
Nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử là nguyên tắc Hiến định. Chính
vì vậy, nó không chỉ được thể hiện và cụ thể hóa trong Hiến pháp mà còn được xem

như là một nguyên tắc cơ bản trong pháp luật Tố tụng hình sự. Việc hiến định
nguyên tắc tranh tụng mang nhiều ý nghĩa, cụ thể:
Việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp đã thể chế hóa chủ
trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp. Từ trước tới nay vấn đề tranh
tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng được quan tâm và đề cập tới nhiều. Đảng và
Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương về vấn đề này, cụ thể: Nghị quyết số 08NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công
tác tư pháp trong thời gian tới đã quy định: "… Nâng cao chất lượng công tố của
Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác... Việc phán quyết của Tòa án phải căn
cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng của phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn
diện chứng cứ ý kiến của Kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng,
nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án,
quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời gian quy định". Tiếp
đó, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 khẳng định: "Đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định
rõ hơn vị trí, quyền hạn trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia
tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất
lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp".
Pháp luật tố tụng hình sự hiện hành cũng có nhiều quy định chứa đựng nội
dung của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử như quy định nguyên tắc xác
định sự thật vụ án, xét xử công khai, nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, các quy
định về quyền và nghĩa vụ của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng,
đặc biệt thì nguyên tắc tắc bình đẳng trong tranh luận thể khá đầy đủ tính chất của
nguyên tắc bảo đảm tranh tụng trong xét xử. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
có thể xem là một nguyên tắc đặc biệt của nguyên tắc bảo đảm tranh tụng vì nó đảm
bảo được các yếu tố về quyền của con người trong quá trình tranh luận:

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu


SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
12


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

Thứ nhất, là quyền không bị phân biệt đối xử trong quá trình tranh luận:
Quyền không phân biệt đối xử trong tranh luận được thể hiện rõ ở Điều 19 Bộ luật
Tố tụng hình sự 2003 “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước Toà án...”. Điều 19 đã cho thấy được sự bình đẳng, không phân biệt đối
xử trong việc hưởng các quyền giữa các chủ thể, những chủ thể tham gia vào phiên
tòa điều có quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, có quyền đưa ra yêu cầu và tranh
luận dân chủ.
Thứ hai, là quyền được pháp luật bảo vệ trong quá trình tranh luận: Điều luật
thể hiện rõ nhất là Điều 218 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 “…Người tham gia tranh
luận có quyền đáp lại ý kiến của người khác. Chủ toạ phiên toà không được hạn chế
thời gian tranh luận, tạo điều kiện cho những người tham gia tranh luận trình bày
hết ý kiến, nhưng có quyền cắt những ý kiến không có liên quan đến vụ án…”. Đây
là điều luật đảm bảo quyền và lợi ích của các đương sự, việc quy định chủ tọa phiên
tòa không có quyền hạn chế thời gian tranh luận góp phần cho các đương sự trình
bày hết ý kiến của mình về vụ án, tạo cho Hội đồng xét xử có thể ra một phán quyết
đúng pháp luật, tránh oan sai.
Tóm lại, nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc đặc thù đảm
bảo được vấn đề tranh tụng trong hoạt động xét xử và thực hiện một cách đầy đủ,

tập trung nhất của quá trình tranh tụng.
1.1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận chỉ áp dụng tại phiên tòa
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự hoạt động tố tụng tại phiên toà là
hoạt động trung tâm có tầm quan trọng đặc biệt, đó là việc Hội đồng xét xử nhân
danh nhà nước để ban hành bản án, quyết định một người có tội hay không có tội,
nếu có tội thì tội gì, mức hình phạt là bao nhiêu năm.Vì vậy phiên toà hình sự phải
tuân thủ nghiêm chỉnh, triệt để những nguyên tắc mà pháp luật tố tụng hình sự. Đó
là những nguyên tắc bảo đảm pháp chế Xã hội chủ nghĩa, tôn trọng bảo vệ quyền cơ
bản của công tác bảo đảm quyền bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật,
nguyên tắc: Không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Toà án đã có
hiệu lực pháp luật, trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
13


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

tụng, thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia, Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân xét xử độc lập chỉ tuân theo pháp luật, Toà án xét xử tập thể. Xét xử
công khai, bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nguyên tắc bình đẳng trong tranh
luận,...
Trong xét xử, phiên tòa là giai đoạn có vai trò đặc biệt quan trọng và mang
tính quyết định trong giải quyết vụ án, thực hiện các nhiệm vụ và mục đích tố tụng
đặt ra. Vai trò quyết định đó của phiên tòa thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, Phiên tòa là nơi mà Tòa án bằng thủ tục công khai, toàn diện thực

hiện cuộc điều tra chính thức để xác định sự thật khách quan của vụ án. Tòa án ra
bản án, quyết định trên cơ sở các chứng cứ được thu thập và kiểm tra công khai tại
phiên tòa. Việc chứng minh (bao gồm cả quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá
chứng cứ) được các chủ thể có quyền và lợi ích khác nhau (bên buộc tội, bên bào
chữa và các chủ thể tham gia tố tụng khác) thực hiện một cách bình đẳng, dân chủ
tại phiên tòa khi xét hỏi cũng như tranh luận. Việc chứng minh và từ đó xác định sự
thật của vụ án được tòa án thực hiện trên cơ sở chứng cứ được thu thập, thẩm tra tại
phiên tòa và cân nhắc, đánh giá của các bên tham gia tố tụng khác nhau.
Thứ hai, Phiên tòa đảm bảo sự tham gia của những người tham gia tố tụng.
Hơn ở đâu hết, tại phiên tòa quyền và nghĩa vụ tố tụng của những người tham gia tố
tụng được quy định và được đảm bảo thực hiện đầy đủ nhất bằng thủ tục tố tụng
trực tiếp, công khai. Tại phiên tòa khó có thể xảy ra các trường hợp vi phạm pháp
luật nghiêm trọng như bức cung, ép cung, dùng nhục hình,…
Thứ ba, Phiên tòa là nơi có điều kiện tốt nhất để thực hiện việc áp dụng đúng
đắn pháp luật. Qua phân tích nội dung các đề xuất của các bên tham gia tố tụng về
áp dụng pháp luật, Tòa án lựa chọn cho mình phương án áp dụng pháp luật chính
xác nhất để giải quyết đúng đắn vụ án.
Như vậy, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá
trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Phiên tòa có sự tham gia đầy đủ của các
cơ quan tiến hành tố tụng (ngoại trừ cơ quan điều tra), những người tiến hành tố
tụng, những người tham gia tố tụng với địa vị pháp lý được xác định. Thông qua
phiên tòa, bằng thủ tục trực tiếp, công khai, qua nghe ý kiến và đề xuất của các bên
tham gia tố tụng, Hội đồng xét xử (với tư cách là chủ thể tham gia tố tụng quan

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
14



Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

trọng nhất) tiến hành xác định sự thật khách quan của vụ án và ra các phán quyết
giải quyết vụ án một cách đúng đắn, đầy đủ, khách quan và đúng pháp luật.
Tranh luận là một phần, một thủ tục bắt buộc của phiên tòa nói chung và
phiên tòa hình sự sơ thẩm nói riêng và có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với quá
trình xét xử vụ án. Và đảm bảo được quyền bình đẳng của các chủ thể khi tham gia
vào quá trình tranh luận chính là đảm bảo cho phiên tòa xét xử sơ thẩm hình sự diễn
ra một cách khách quan và dân chủ. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận được sử
dụng trong suốt quá trình tranh luận từ khi kiểm sát viên đọc bản luận tội cho đế khi
kết thúc phần tranh luận tại phiên tòa và đây là quá trình thể hiện sự tập trung nhất
của xét xử, quá trình xét xử tại phiên tòa có bình đẳng hay không, phán quyết của
Hội đồng xét xử có dân chủ hay không,...thì quá trình tranh luận ảnh hưởng rất
nhiều.
Tóm lại, nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận chỉ được áp dụng tại phiên
tòa, vì chỉ có tại phiên tòa thì vấn đề tranh luận mới được pháp luật bảo hộ một cách
đúng nhất và cũng chỉ có ở phiên tòa thì vấn đề bình đẳng về tranh luận giữa các
chủ thể tham gia tố tụng mới được đặc ra.
1.1.2.3. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận có đối tượng tác động là các
chủ thể tham gia tranh luận
Trong Tố tụng hình sự luôn luôn tồn tại 3 chức năng cơ bản là: buộc tội, bào
chữa và xét xử. Mặt khác, tham gia vào quá trình Tố tụng hình sự nói chung và tại
phiên toà hình sự nói riêng có rất nhiều chủ thể với vai trò, vị trí và tư cách tố tụng
khác nhau cùng với các quyền, nghĩa vụ nhất định được pháp luật quy định. Mỗi
chủ thể này có thể tham gia (ở một mức nhất định) vào việc thực hiện một trong các
chức năng cơ bản trong Tố tụng hình sự. Ngoài ra, còn một số chủ thể khác (người
làm chứng, người giám định, người phiên dịch) tham gia tố tụng không phải để thực

hiện một chức năng cơ bản nào trong Tố tụng hình sự mà chỉ là hoạt động bổ trợ
cho các bên và Toà án trong quá trình giải quyết vụ án. Vì vậy, theo căn cứ này có
thể phân các chủ thể tham gia Tố tụng hình sự thành các nhóm cơ bản sau đây:
- Các chủ thể tham gia thực hiện chức năng buộc tội (Kiểm sát viên, người bị
hại,...).

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
15


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

- Các chủ thể tham gia thực hiện chức năng bào chữa (Luật sư tham gia bào
chữa, bị cáo,...).
- Các chủ thể tham gia thực hiện chức năng xét xử (Hội đồng xét xử).
- Các chủ thể tham gia tố tụng khác (người làm chứng, người giám định,
người phiên dịch,…).
Tham gia vào quá trình tranh luận tại phiên toà bao gồm các chủ thể thuộc
bên buộc tội, bên bào chữa và Hội đồng xét xử để thực hiện ba chức năng cơ bản
tương ứng trong Tố tụng hình sự là buộc tội, bào chữa và xét xử. Tuy nhiên, ở giai
đoạn tranh luận chỉ có hai chức năng buộc tội và bào chữa là được thực hiện một
cách đầy đủ. Còn chức năng xét xử mới được thực hiện một phần (làm trọng tài
giữa hai bên tranh tụng), phần còn lại của chức năng xét xử (ra phán quyết về vụ án)
chỉ được thực hiện khi nghị án. Trong quá trình tranh luận thì Hội đồng xét xử
không tham gia trực tiếp vào quá trình tranh luận, mà là người trọng tài quan sát và

điều khiển quá trình này diễn ra theo đúng pháp luật. Đối với các chủ thể tham gia
tố tụng còn lại (người làm chứng, người giám định, người phiên dịch,…) thì các chủ
thể này vẫn tham gia vào quá trình tranh luận, nhưng họ chỉ là chủ thể bổ trợ cho
quá trình tranh luận.
Để bảo đảm tính chất dân chủ và khách quan trong quá trình tranh luận hay
không thì phụ thuộc vào nhiều yếu tố nhưng quan trọng nhất vẫn là vai trò của các
chủ thể tham gia tranh luận mà đặc biệt là của Kiểm sát viên, người bào chữa và bị
cáo. Trong phần tranh luận, sau khi Kiểm sát viên đọc lời luận tội tiếp theo đó sẽ là
việc bào chữa của bị cáo hoặc là người bào chữa (Luật sư), muốn đảm bảo được
tính dân chủ khách quan trong việc ra phán quyết cuối cùng thì đòi hỏi Hội đồng xét
xử phải đánh giá chứng cứ và cách tốt nhất để đánh giá, xem xét chứng cứ là vấn đề
bào chữa của bị cáo hoặc người bào chữa, và đối đáp với Kiểm sát viên.
Kết luận, Quá trình tranh luận của các chủ thể (kiểm sát viên, người bào chữa
và bị cáo) chính là đối tượng tác động đến nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận.

GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
16


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

1.2. Cơ sở lý luận về nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận
1.2.1. Bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc Hiến định, được cụ thể hóa
trong pháp luật tố tụng hình sự
Theo Khoản 1 Điều 14 của ICCPR là: “Mọi người đều bình đẳng trước các

tòa án và cơ quan tài phán. Mọi người đều có quyền được xét xử công bằng và công
khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập, không thiên vị và được lập ra trên cơ
sở pháp luật để quyết định về lời buộc tội người đó trong các vụ án hình sự, …”.7
Trong pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng trước Tòa án là một nội dung
của quyền bình đẳng trước pháp luật, một quyền đã được Hiến định. Quyền bình
đẳng trước Tòa án được hiểu là quyền bình đẳng trong việc đưa ra các chứng cứ,
đưa ra các yêu cầu tranh luận trước Tòa án và phải được Tòa án tôn trọng, tạo điều
kiện. Điều 19 Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 quy định về bảo đảm quyền bình đẳng
trước Toà án như sau: “Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên
đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người
đại diện hợp pháp của họ, người bảo vệ quyền lợi của đương sự đều có quyền bình
đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân
chủ trước Toà án. Tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện các quyền
đó nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án”.
Để bảo đảm được quyền bình đẳng trước Tòa án, trong quá trình xét xử,
người tiến hành tố tụng phải thực sự khách quan, điều khiển phiên tòa đúng quy
định của pháp luật, không được thiên vị hay gây trở ngại cho bất cứ bên nào. Để
đảm bảo điều này, pháp luật tố tụng Việt Nam đã đặt ra các nguyên tắc để đảm bảo
cho việc bình đẳng trước Tòa án như: Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ
bản của công dân tại Điều 4, nguyên tắc giám đốc việc xét xử tại Điều 21, Nguyên
tắc không ai có tội khi chưa có quyết định Tòa án tại Điều 9 Bộ luật Tố tụng hình sự
2003,...và đặc biệt là nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận được quy định tại Điều
19, đây là nguyên tắc được cụ thể hóa từ quyền bình đẳng trước pháp luật được quy
định tại Điều 16 của Hiến pháp 2013. Khi tham gia tố tụng hình sự người có địa vị
pháp lý như nhau thì điều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, không ai có thể được
loại trừ hoặc được áp dụng những ưu đãi ngoài những trường hợp pháp luật quy
định như việc quy định thủ tục tố tụng hình sự đối với một số người là Đại biểu
7

Công ước về các quyền Dân sự và Chính trị năm 1966.


GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
17


Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận trong
Tố tụng hình sự Lý luân – Thực tiễn

Luận văn tốt nghiệp

Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, các viên chức ngoại giao,... Nhưng
đây không phải là tạo ra những ưu tiên cho họ mà chỉ là một trong những bảo đảm
cần thiết để họ thực hiện vai trò của mình.
Bình đẳng trong tranh luận là một nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của
kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân
sự, người có quyền và lợi ích hợp pháp liên quan đến vụ án, những người đại diện
hợp pháp của họ và người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong việc đưa ra chứng
cứ, tài liệu đồ vật, đưa ra yêu cầu và tranh luận dân chủ trước tòa án có ý nghĩa
quan trọng để tìm ra sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ.
Quyền bình đẳng trong tranh luận còn là một nguyên tắc thể hiện những người tiến
hành và tham gia tố tụng, về đưa ra chứng cứ, tài liệu đồ vật, đưa ra yêu cầu và
tranh luận dân chủ trước tòa án đòi hỏi tòa án không chỉ tôn trọng các quyền của
những người đó trong tố tụng, không thể coi trọng quyền của người này hơn quyền
của người kia mà còn có trách nhiệm tạo điều kiện cho họ thực hiện những quyền
đó nhất là phải đảm bảo cho bị cáo và người bào chữa không bị hạn chế trong việc
trình bày trước tòa án mọi tình tiết của vụ án, các chứng cứ và lý lẽ để Hội đồng xét
xử xem xét và trên cơ sở đó có những phán quyết công minh, đúng pháp luật.
Kết luận, Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận là nguyên tắc góp phần tạo

sự bình đẳng của công dân bình đẳng trước pháp luật, một quyền được quy định
xuyên suốt qua tất cả bản Hiến pháp.
1.2.2. Nguyên tắc bình đẳng trong tranh luận là điều kiện cần của việc xét xử
công bằng và khách quan
Trong bộ máy nhà nước ta, vị trí của Tòa án nhân dân được thể hiện tại Điều
102 của Hiến pháp sửa đổi 2013: “Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”. Tòa án nhân dân là
cơ quan duy nhất được Hiến pháp và pháp luật trao cho chức năng xét xử. Tòa án
nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân,
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân. Tòa án nhân dân nhân danh nhà nước đưa ra các phán quyết
để quyết định trực tiếp tới vấn đề xã hội, chính trị, kinh tế của con người cụ thể, do
đó Tòa án đóng vai trò vô cùng quan trọng và trực tiếp trong việc bảo đảm các quy
định về quyền con người không bị xâm phạm.
GVHD: Ths. Mạc Giáng Châu

SVTH: Lê Hoàng Vỉnh
18


×