Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

nguyên tắc bình đẳng trong quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.9 KB, 20 trang )

A.ĐẶT VẤN ĐỀ.
Quyền để lại thừa kế và quyền thừa kế là những quyền cơ bản của công dân luôn
luôn được pháp luật ở nhiều nước trên thế giới quan tâm, theo dõi và bảo hộ.Việt Nam
là một trong những nước đang phát triển và có nền văn hóa với các truyền thống đạo
đức lâu đời được truyền từ đời này qua đời khác.Do đó đối với người Việt Nam hiện
nay, việc coi trọng các phong tục, tập quán, tình cảm cha con, vợ chồng, anh em gắn bó
keo sơn đã khiến cho không ít người bỏ qua việc đảm bảo quyền để lại thừa kế của
mình bằng cách thảo một bản di chúc.Bên cạnh đó có những người đã lập di chúc
nhưng lại chưa hiểu rõ về pháp luật khiến cho những bản di chúc này không rõ ràng
khiến cho những người thừa kế phải nhờ pháp luật phân xử hộ (đưa ra tòa) làm giảm sút
đi mối quan hệ tình cảm thân thuộc vốn có.Chính vì vậy phần lớn các vụ việc thừa kế ở
Việt Nam được giải quyết theo qui định của pháp luật.
Việt Nam đang trên bước đường hội nhập toàn cầu.Tầm quan trọng của pháp luật
ngày càng nâng cao.Do đó nhu cầu nghiên cứu, sửa đổi luật pháp cho phù hợp với tình
hình đất nước đang ngày càng tiến lên là một nhu cầu cần thiết.Và việc tìm hiểu phương
pháp xây dụng pháp luật ở nước ta, một nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân.Luật pháp cũng được xây dụng trên các nguyên tắc tự do, bình đẳng làm hàng đầu,
việc đi nghiên cứu để làm sang tỏ quyền bình đẳng trong các quan hệ dân sự trong luật
dân sự, một bộ luật gắn với thực tiễn đời sống nhân dân.
Từ hai lí do trên em quyết định nghiên cứu vấn đề nguyên tắc bình đẳng trong
quan hệ thừa kế theo qui định của pháp luật hiện hành nhưng vì thời gian, trình độ
và tài liệu còn hạn chế nên em chỉ có thể nghiên cứu một phần nào trong qui định về
thừa kế theo pháp luật dân sự hiện hành.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I-Cơ sở lý luân:
Quan hệ thừa kế là một quan hệ pháp luật có nội dung kinh tế xã hội sâu sắc, xuất
hiện đồng thời với quan hệ sở hữu và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài
người.Quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu có mối quan hệ hữu cơ với nhau.
Quyền thừa kế là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định quy
định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 :“ Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp
pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác


trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác; đối với đất được Nhà nước
giao sử dụng thì theo quy định tại Điều 17 và Điều 18.Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân. ”, đây là sự ghi nhận mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật.Được cụ thể hóa ngay trong Điều 5 BLDS: “Trong
quan hệ dân sự, các bên đều bình đẳng, không được lấy lý do khác biệt về dân tộc,
giới tính, thành phần xã hội, hoàn cảnh kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp để đối xử không bình đẳng với nhau” và được quy định trong phần
thứ tư của Bộ luật Dân sự.Nguyên tắc cơ bản của quyền thừa kế được phản ánh trong
Bộ luật Dân sự đó là:
Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho người thừa kế theo
pháp luật, hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.Thừa kế là sự chuyển dịch
quyền sở hữu bằng hai phương thức khác nhau: Thứ nhất là sự định đoạt theo ý nguyện
cuối cùng của người để lại thừa kế theo di chúc; thứ hai là theo quy định của pháp luật.
Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật đều được pháp luật bảo đảm cho việc
hưởng di sản của người chết để lại.
Một nguyên tắc nữa mà pháp luật quy định đó là quyền bình đẳng về thừa kế của cá
nhân.Nguyên tắc này là sự cụ thể hoá một phần các nguyên tắc cơ bản của bộ luật dân
sự.Đó là quyền bình đẳng giữa các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự trong khi xác
lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự.
Quyền bình đẳng trong quan hệ về thừa kế được thể hiện: Mọi cá nhân không phân
biệt nam, nữ, tuổi tác, thành phần, tôn giáo, địa vị chính trị, xã hội… đều có thể để lại
tài sản của mình cho người khác theo di chúc hoặc theo pháp luật.Như vậy có nghĩa là
mọi người đều có thể lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho những người thừa
kế.Vợ chồng đều được thừa kế của nhau, phụ nữ và nam giới, con trai, con gái đều được
hưởng thừa kế ngang nhau theo quy định của pháp luật.
Pháp luật cũng quy định người thừa kế có quyền nhận hoặc từ chối nhận di sản.
Người thừa kế nhận di sản thì được hưởng tài sản, các quyền tài sản mà người chết để
lại, đồng thời có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trong
phạm vi di sản hoặc tương ứng phần di sản mà mình đã nhận.
Người nhận thừa kế có thể từ chối nhận di sản.Tuy nhiên Bộ luật dân sự không cho

người thừa kế từ chối nhận di sản nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của
mình đối với người khác.
Nguyên tắc tôn trọng quyết định đoạt bằng di chúc là nguyên tắc cơ bản cuối cùng
về quyền thừa kế.Nguyên tắc nêu rõ: Quyền định đoạt bằng di chúc của người có tài sản
phải được tôn trọng; đồng thời bảo hộ chính đáng quyền lợi của một số người trong
diện thừa kế đương nhiên ( thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc ).
Như đã nói ở trên, cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình cho
bất cứ ai.Có nghĩa là nếu người chết để lại di chúc (hợp pháp) thì việc thừa kế sẽ tiến
hành theo di chúc.Tuy nhiên việc định đoạt của người lập di chúc bị hạn chế trong
trường hợp quy định Bộ luật Dân sự.
Trên đây là những nguyên tắc cơ bản nhất trong phần thừa kế, được kế thừa các văn
bản pháp luật về thừa kế trước đây phù hợp với nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp
nhân dân, cũng như phù hợp với phong tục, tập quán, truyền thống dân tộc của nhân
dân ta.
Về thời điểm mở thừa kế, Điều 633 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: Thời điểm
mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Do đó, nếu cá nhân lập di chúc thì di
chúc chỉ có hiện lực khi người lập di chúc qua đời. khi lập di chúc, quyền sở hữu tài sản
vẫn thuộc về người lập di chúc, người hưởng thừa kế chỉ có quyền đối với tài sản do
người lập di chúc để lại là sau khi ngưòi lập di chúc chết.
Về thời hiệu khởi kiện về thừa kế, Điều 645 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định:
Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của
mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa
kế. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu người thừa kế thực hiện nghĩa vụ về tài sản của
người chết để lại là ba năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.
II-Thừa kế theo qui định pháp luật ở Việt Nam:
1)Qui định chung:
Quyền thừa kế của cá nhân (theo điều 631 BLDS 2005) : "Cá nhân có quyền lập di
chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp
luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật."
Như vậy thừa kế theo quan hệ pháp luật dân sự chính là sự chuyển dịch tài sản và

quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết cho cá nhân, tổ chức, có quyền hưởng
thừa kế; người thừa kế trở thành chủ sở hữu của tài sản theo di chúc hay theo pháp luật
(riêng đối với đất đai là thừa kế quyền sử dụng). Sự chuyển dịch di sản của người chết
sang người sống sẽ được thực hiện theo hai căn cứ: Nếu căn cứ theo ý chí,nguyện vọng
của người chết thì được gọi là thừa kế theo di chúc; Nếu căn cứ theo các qui định của
pháp luật thì được coi là thừa kế theo pháp luật.
Các nguyên tắc cơ bản của thừa kế:
- Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế:
Pháp luật thừa kế luôn tôn trọng ý chí của những người tham gia trong quan hệ thừa
kế.Nếu như người để lại di sản mà có để lại di chúc thì việc phân chia di sản theo di
chúc bao giờ cũng được ưu tiên giải quyết trước, phần tài sản chia cho những người
thừa kế cũng tùy thuộc vào di chúc mà người chết để lại. Đó chính là sự tôn trọng ý trí
của người để lại di sản.Và ngược lại, những người thừa kế có quyền đồng ý nhận toàn
bộ di sản được thừa hưởng hoặc chỉ nhận một phần hoặc khước từ việc thừa hưởng di
sản từ người chết đó là sự tôn trọng ý chí của người thừa kế.
- Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng của công dân về quyền thừa kế:
Theo điều 632 BLDS-2005: " Mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng về quyền để lại
tài sản của mình cho người khác và quyền hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp
luật ". Theo điều luật này thì mọi cá nhân đều có quyền để lại tài sản của mình cho
người khác và mọi cá nhân đều có quyền bình đẳng trong việc thừa hưởng tài sản theo
di chúc tức là bất kì cá nhân nào dũng được phép nhận tài sản theo ý chí của người
chết.Còn sự bình đẳng trong việc hưởng di sản là tất cá những người thừa kế theo qui
định của pháp luật đều có quyền hưởng phần tài sản bằng nhau.
- Nguyên tắc cá nhân người thừa kế phải còn sống vào thời điểm mở thừa kế:
Điều 635-BLDS 2005 đã qui định " Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống
vào thời điểm mở thừa kế..." Với đặc trưng cơ bản của sự thừa kế là sự tiếp nối về sở
hữu tài sản giữa người sống với người chết nên người thừa hưởng di sản đương nhiên
phải là người còn sống.Việc dịch chuyển di sản từ người chết này sang người chết khác
là không thực hiện được.Tiếp đó là việc người còn sống đó phải còn sống ở thời điểm
mở thừa kế.Có thể người thừa kế đã chết nhưng khi mở thừa kế thì ông ta còn sống

hoặc đã chết hay mất tích nhưng chưa bị tuyên bố là đã chết hoặc ngày tuyên bố nguời
đó chết là sau ngày mở thừa kế, khi đó ông ta việc chuyển giao di sản cho ông ta vẫn
được thực hiện và nó sẽ được tính vào tài sản của người đó.
Trong trường hợp người thừa kế bị tuyên bố là đã mất tích hoặc chết nhưng sau đó
người đó còn sống trở về thì người đó vẫn được coi là còn sống và được quyền hưởng
di sản sau khi tòa án hủy bỏ tuyên bố mất tích hoặc đã chết.
- Người thừa kế có quyền và nghĩa vụ tài sản do người chết để lại:
Quyền luôn luôn đi kèm với nghĩa vụ. Do đó những người thừa kế có quyền thừa
hưởng di sản để lại từ người chết theo di chúc hoặc theo pháp luật, phần di sản họ được
hưởng có thể bằng nhau hoặc không bằng nhau tùy theo ý chí của người chết. Đồng thời
họ có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại theo điều 637-BLDS
2005, nghĩa vụ tài sản họ phải thực hiện sẽ tùy theo phần mà họ được hưởng. Nếu
người thừa kế khước từ hoặc không được nhận phần di sản để lại của người chết thì họ
có quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ tài sản của người chết.
2)Thừa kế theo di chúc:
Theo Điều 646 BLDS: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhầm chuyển dịch
tài sản của mình cho người khác sau khi chết”.Theo qui định này thì di chúc phải đảm
bảo các yếu tố sau:
- Đó là sự thể ý chí của cá nhân người lập di chúc mà không phải là của bất cứ chủ
thể nào khác.
- Mục đích của việc lập di chúc là chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác.
- Di chúc chỉ có hiệu lực khi người đó chết.
Di chúc là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, do đó di chức phải
tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu
lực của di chúc nói riêng.Vì vậy, muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần
phải tuân thủ các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc.
Nội dung của bản thừa kế theo di chúc là ý nguyện của người chết khi còn sống để
lại tài sản của mình là di sản cho những người còn sống, là chỉ định người thừa kế (cá
nhân, tổ chức) và phân định tài sản, quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản..
Người lập di chúc là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi, có các quyền sau đây:

+ Chỉ định người thừa kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế:
- Người lập di chúc có quyền để lại di sản cho bất kì một cá nhân hoặc tổ chúc
nào.Người nhân di sản có thể là cá nhân trong hay ngoài diện thừa kế theo qui định của
pháp luật hoặc có thể là Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội…Quyền định đoạt
của người lập di chúc còn thể hiện qua việc họ truất quyền hưởng di sản của những
người thừa kế theo pháp luật mà không nhất thiết phải nêu lí do.Đặc quyền của người
lập di chúc định đoạt tài sản của mình là rất lớn, tất cả đều dựa trên nguyên tắc tự do về
quyền tài sản được pháp luật bảo về, quyền lập di chúc bình đẳng cho tất cả mọi cá
nhân thuộc Điều 647 BLDS.
- Người lập di chúc còn có các đặc quyền khác như: giao nghĩa vụ cho người thừa kế
trong phạm vi di sản; chỉ định người giữ di chúc, người quản lí di sản, người phân chia
di sản; quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy di chúc.Một bản di chúc hợp pháp phải
tuân thủ đầy đủ các thủ tục, trình tự được qui định trong các Điều 650, 651, 652, 653
BLDS.Và nhất thiết để bản di chúc hợp pháp là người lập di chúc phải tự nguyện.
Quyền của người nhận di sản thừa kế (người được chỉ định trong di chúc) là những
người có quyền nhận di sản do người chết để lại theo sự định đoạt trong di chúc.Người
thừa kế theo di chúc cũng cần phải có những điều kiện qui định ở điều 635 BLDS, khi
đã đủ điều kiện nhận di sản, người thừa kế theo di chúc co quyền nhận hoặc từ chối
nhân di sản.Nếu nhận di sản thì phải thực hiện nghĩa vụ ứng với phần di sản theo di
chúc mình đã nhân theo điều 637 BLDS.Trong trường hợp là Nhà nước, cơ quan, tổ
chức, hưởng di sản theo di chúc thì cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại như người thừa kế là cá nhân.
Pháp luật quy định người để lại di sản có toàn quyền trong việc truất quyền hưởng di
sản của những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.Nhưng để đảm bảo lợi ích của
một số người trong diện thừa kế theo pháp luật, phù hợp với phong tục, tập quán, truyền
thống tốt đẹp của nhân dân ta, pháp luật đã hạn chế quyền lập di chúc được thể hiện ở
Điều 669 BLDS.Những người này thuộc diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung di chúc, họ sẽ được hưởng 2/3 một suất thừa kế khi chia theo pháp luật.
3)Thừa kế theo pháp luật:
Ta có thể hiểu một cách đơn giản thừa kế theo pháp luật là sự chuyển dịch tài sản

của người chết cho những người thừa kế theo qui định của pháp luật thừa kế.Theo điều
674 Bộ luật dân sự 2005: " thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều
kiện và trình tự thừa kế do pháp luật qui định ".
Theo qui định của thừa kế theo pháp luật thì sau khi người để lại tài sản qua đời, tài
sản sẽ được chia đều cho những người thừa kế của người đó.Những người thừa kế này
được xác định thông qua ba mối quan hệ chính là:
-Quan hệ hôn nhân
-Quan hệ huyết thống
-Quan hệ nuôi dưỡng
Những người thừa kế theo qui định của pháp luật không phụ thuộc vào mức độ năng
lực hành vi, dù cho người đó có bị hạn chế năng lực hành vi hay thậm chí bị mất năng
lực hành vi thì người đó vẫn có quyền thừa kế.Đảm bảo nguyên tắc bình đẳng của công
dân về quyền thừa kế nên mọi người đều có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản
thừa kế từ người chết và bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ tài sản mà người chết
để lại trong phạm vi di sản mình nhận được.
Vì phạm vi những người thừa kế rộng nên pháp luật chia những người thừa kế thành
nhiều hàng thừa kế.Trong đó những người thuộc hàng thứ nhất là những người có quan
hệ hôn nhận, huyết thống gần gũi nhất so với các hàng khác.Các hàng thứ hai, thứ ba là
các hàng dự bị, chỉ được hưởng di sản nếu như không còn ai ở hàng thứ nhất hoặc hoặc
có nhưng họ đều không nhận hoặc không được quyền nhận.Vấn đề diện và hàng thừa kế
này sẽ được nói kĩ hơn ở phần sau.
Các trường hợp thừa kế theo qui định của pháp luật:
Ở nước ta từ xưa đến nay đã có rất nhiều văn bản pháp luật liệt kê các trường hợp
thừa kế theo pháp luật.Và cùng với sự tiến bộ của hệ thống pháp luật thì các văn bản
này các ngày càng hoàn thiện hơn, cho đến nay thì các trường hợp được nêu ra trong
BLDS 2005 được coi là chi tiết và đầy đủ nhất.Theo điều 675 BLDS 2005 thì các
trường hợp thừa kế theo pháp luật được chia ra 2 nhóm sau đây:
+ Nhóm thứ nhất: Nhóm di sản thừa kế hoàn toàn được chia theo pháp luật (nhóm di
sản được thừa kế tuyệt đối) bao gồm các trường hợp:
-Không có di chúc.

-Di chúc không hợp pháp toàn bộ.
-Di chúc hợp pháp nhưng toàn bộ di chúc không có hiệu lực thi hành do tất cả người
thừa kế theo di chúc đều chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc hoặc
đều không có quyền hưởng di sản hoặc đều từ chối quyền hưởng di sản; cơ quan tổ
chức được hưởng thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.
+ Nhóm thứ hai: Di sản vừa được chia theo di chúc vừa được chia theo qui định của
pháp luật (Nhóm di sản thừa kế tương đối) bao gồm các trường hợp:
-Có phần di sản không được định đoạt trong di chúc.
-Có một phần di chúc không có hiệu lực pháp luật.

×