Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Nguyên tắc bình đẳng trước Luật Hình sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 98 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT




TRẦN VIỆT HÙNG





NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM





LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC










HÀ NỘI - 2013




2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT



TRẦN VIỆT HÙNG




NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số : 60 38 40


LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC





Người hướng dẫn khoa học: GS.TSKH Lê Văn Cảm




HÀ NỘI - 2013



4
MỤC LỤC



Trang

Trang phụ bìa


Lời cam đoan


Mục lục


Danh mục các bảng


MỞ ĐẦU

1

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH
ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
9
1.1.
Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học, các ý nghĩa xã
hội và pháp luật của bình đẳng
9
1.1.1.
Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học
9
1.1.2.
Các ý nghĩa xã hội và pháp luật của bình đẳng
17
1.2.
Bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật với tư cách là
một nguyên tắc hiến định của pháp luật Việt Nam
26
1.2.1.
Khái niệm nguyên tắc bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
26
1.2.2.
Các đặc điểm cơ bản của nguyên tắc bình đẳng của mọi công
dân trước pháp luật
29
1.3.
Khái niệm và nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng trước
luật hình sự Việt Nam
32

1.3.1.
Khái niệm nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam
32
1.3.2.
Các nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam
33

Chương 2: KHÁI QUÁT LỊCH SỬ VÀ SỰ THỂ HIỆN CỦA NGUYÊN
TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ TRONG BỘ
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG
37
2.1.
Khái quát sự hình thành và phát triển của nguyên tắc bình
đẳng trước luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng tháng 8
37


5
năm 1945 đến trước pháp điển hóa lần thứ 2 (1999)
2.1.1.
Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến trước khi
ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985
37
2.1.2.
Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm
1985 đến khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999
38
2.2.
Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong bộ

luật hình sự Việt Nam hiện hành
39
2.2.1.
Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong các
nguyên tắc xử lý về hình sự
39
2.2.2.
Sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong các
quy định khác của Bộ luật hình sự
44
2.3.
Thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự
Việt Nam
62

Chương 3: HOÀN THIỆN BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ
VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM THỰC HIỆN
NGUYÊN TẮC NÀY
71
3.1.
Sự cần thiết phải hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước luật
hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
71
3.1.1.
Về mặt chính trị - xã hội
71
3.1.2.
Về mặt lập pháp
72

3.2.
Nội dung hoàn thiện nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự
Việt Nam
74
3.2.1.
Nhận xét chung
74
3.2.2.
Nội dung hoàn thiện cụ thể
76
3.3.
Các giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng trước
luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
77
3.3.1.
Áp dụng án lệ
77


6
3.3.2.
Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích pháp luật hình sự
80
3.3.3.
Tăng cường năng lực pháp luật, ý thức pháp luật và nâng cao
trách nhiệm nghề nghiệp của cán bộ áp dụng pháp luật
81
3.3.4.
Tăng cường hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp
luật, nâng cao đạo đức, ý thức trách nhiệm của mọi cán bộ và

quần chúng nhân dân trong bảo vệ pháp chế
82

KẾT LUẬN
84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
87



7



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
2.1
Số liệu thống kê phân tích dưới góc độ nhân thân người
phạm tội
41



8
MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
"Bình đẳng" có ý nghĩa rất quan trọng trong sự phát triển của xã hội
loài người - đây là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm,
nó được thể hiện dưới đường lối, chính sách của Đảng cũng như pháp luật của
Nhà nước.
Bình đẳng có vai trò rất to lớn đối với các hoạt động xây dựng pháp
luật, áp dụng pháp luật, ý thức pháp luật và toàn bộ đời sống pháp luật của xã hội.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang thực hiện công cuộc xây
dựng Nhà nước pháp quyền cũng như trong quá trình hội nhập với thế giới thì
tính cấp bách của nguyên tắc này lại cần được đặt ra. Đó là sự bình đẳng giữa
các chủ thể (cá nhân, tổ chức) trước pháp luật nói chung hay là cá nhân trước
pháp luật hình sự nói riêng.
Nguyên tắc bình đẳng trong pháp luật nói chung cũng như nguyên tắc
bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam là có thể được coi là nguyên tắc
"Hiến định" nó chính là sự thể hiện nguyên tắc bình đẳng được quy định trong
Hiến pháp.
Tại lời nói đầu của Bộ luật hình sự năm 1999, Nhà nước ta đã khẳng
định pháp luật hình sự là một trong những công cụ sắc bén hữu hiệu để đấu
tranh phòng ngừa tội phạm, góp phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ
quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân,
tổ chức Để thực hiện được nhiệm vụ trên, Bộ luật hình sự đã quy định các
nguyên tắc xử lý trong đó có nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật.
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật được quy định trực tiếp tại
khoản 2 Điều 3 Bộ luật hình sự. Điều đó, phản ánh sự bình đẳng trước pháp


9
luật không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa

vị xã hội. Đây là nội dung mới mà Bộ luật hình sự năm 1985 chưa quy định.
Sự bình đẳng trong nguyên tắc này là sự bình đẳng trong việc vận dụng các
dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với hành vi phạm tội, đối với hình phạt cũng
như các biện pháp tư pháp khác về người phạm tội, chống những biểu hiện
phân biệt đối xử giữa những người phạm tội có địa vị xã hội khác nhau "dân
thì xử nặng, quan thì xử nhẹ".
Ngoài ra, trong cuộc đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, về cơ
bản, các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án luôn luôn tuân thủ các nguyên
tắc của luật hình sự nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói
riêng, bảo đảm mọi tội phạm đều được xử lý nghiêm minh, không để lọt tội
phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Thực tiễn khoa học
pháp lý và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử cho thấy, trong quá trình hình
thành và phát triển, các nguyên tắc của luật hình sự Việt Nam nói chung,
nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng đã từng bước được hoàn
thiện, góp phần xử lý kiên quyết mọi hành vi phạm tội, nâng cao ý thức pháp
luật của người dân. Tuy nhiên, cũng trong thực tiễn xây dựng và áp dụng cho
thấy, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự trong luật hình sự Việt Nam khi
được áp dụng trong thực tế còn có trường hợp chưa được tuân thủ một cách
nghiêm túc, còn để xảy ra nhiều sai sót trong quá trình xây dựng và áp dụng
nguyên tắc này, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức và công dân, gây bức xúc trong nhân dân; đồng thời cũng đã
đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học luật hình sự nước ta phải
nghiên cứu giải quyết như: khái niệm bình đẳng dưới góc độ triết học và các ý
nghĩa xã hội - pháp lý, khái niệm và nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước
luật hình sự Việt Nam, cũng như đánh giá thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình
đẳng trước luật hình sự trong thời gian vừa qua. Trong khi đó, xét về mặt lý
luận, xung quanh những vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái
ngược nhau. Mặt khác, xét về mặt lập pháp hình sự, việc quy định các nguyên



10
tắc cơ bản nói chung, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng trong
luật hình sự cũng chưa thực sự đầy đủ và đồng bộ với các quy phạm pháp luật
hình sự khác.
Vì những lý do đó, việc nghiên cứu đề tài "Nguyên tắc bình đẳng
trước Luật hình sự Việt Nam" mang tính cấp thiết, không những về mặt lý
luận, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn hiện nay. Đây còn là lý do lựa chọn đề
tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự là một vấn đề quan trọng và
nhạy cảm đã được các nhà khoa học pháp lý hình sự ở trong và ngoài nước
quan tâm nghiên cứu.
Trước hết, ở Liên Xô cũ có công trình "Những nguyên tắc của luật
hình sự Xô viết" (Nxb Khoa học, Mátxcơva, 1988) của GS. TS. Kêlina X. G. và
GS. TS. V. N. Kudriaxev; tác giả A. B Xaratôv có công trình "Về các nguyên
tắc của luật hình sự xã hội chủ nghĩa" (Tạp chí Pháp luật, số 4, 1969); tác giả
Bôlđưev K., có công trình "Sự hình thành các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật hình sự toàn Liên bang Xô Viết" (Tạp chí Tư tưởng Xô viết, số 20, 1972);
tác giả Melesko Iu.B, có công trình "Về khái niệm và bản chất của các nguyên
tắc của luật hình sự" (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 6, 1973); v.v Các
công trình nói trên đã đề cập những nguyên tắc của luật hình sự nói chung,
nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự nói riêng. Đối với nguyên tắc bình
đẳng trước luật hình sự xã hội chủ nghĩa, các tác giả đã bước đầu làm rõ khái
niệm và một số nội dung của nguyên tắc, nhưng chưa đi sâu phân tích nguyên
tắc một cách toàn diện và có hệ thống.
Ngoài ra, nguyên tắc bình đẳng trước Luật hình sự cũng được ghi
nhận trong một số sách báo pháp lý, chẳng hạn tác giả Ashworth (người Anh)
có cuốn sách "Principles of Criminal Law" (Các nguyên tắc của luật hình sự)
(Nxb Oxford University Press, Inc., 1995). Công trình đề cập khái quát đến



11
các vấn đề nguyên tắc và chính sách liên quan đến sự hình thành của pháp
luật hình sự, của các nguyên tắc và việc áp dụng của các cơ quan lập pháp,
Tòa án, cơ quan cải cách pháp luật. Chương "General Principles Of Criminal
Law" (Các nguyên tắc chung của luật hình sự), trong sách: Criminal Law
(Luật hình sự) (Published in Sydney by the Federation Ress, 1996) của ba tác
giả David Brown, David Farrier, Neal. Cuốn sách cũng đề cập đến những
nguyên tắc chung của Luật hình sự. Chương 2 "Principles of Criminal Law"
(Các nguyên tắc của Luật hình sự) trong sách: Swedish Law in the New
Millennium (Luật hình sự Thụy Điển trong giai đoạn mới, do GS. Michael
Bogdan chủ biên (Norstedts Juridik, Printed in Sweden by Elanders Gotab,
Stockholm, 2000). Chương sách đã đề cập đến lý luận chung về các nguyên
tắc của luật hình sự, đồng thời phân tích các nguyên tắc của luật hình sự Thụy
Điển (nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự, nguyên tắc pháp chế, nguyên
tắc nhân đạo, nguyên tắc trách nhiệm chứng minh; v.v ).
Ở Việt Nam, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập trực tiếp đến
nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự. Xét riêng dưới góc độ khoa học luật
hình sự thỡ trong "Sách chuyên khảo Sau đại học: Những vấn đề cơ bản trong
khoa học luật hình sự (Phần chung)" của GS. TSKH. Lê Văn Cảm (Nxb Đại
học Quốc gia, Hà Nội, 2005), tác giả đã đề cập nguyên tắc bình đẳng trước
luật hình sự ở mức độ khái quát về nội dung, ý nghĩa và sự thể hiện của
nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, đồng thời tác giả đã xây
dựng mô hình lý luận của nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự (sửa đổi) cùng
với các nguyên tắc khác; v.v
Ngoài ra, nó cũng được đề cập với tư cách là một nguyên tắc trong
Chương về các nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam trong các giáo
trình dành cho hệ đào tạo đại học như: 1) GS. TSKH. Lê Văn Cảm (chủ biên),
Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà
Nội, 2001 (tái bản năm 2003 và 2007); 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh (chủ biên),

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần chung), Nxb Công an nhân dân, Hà


12
Nội, 2003; 3) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Tập I), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2010; 4) TS. Phạm Văn
Beo, Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1 - Phần chung), Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2010; 5) TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Giáo trình Luật hình sự Việt
Nam (Phần chung), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2010; v.v Hay bài viết "Một số
vấn đề về nguyên tắc xử lý quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999", Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 11/2001, của tác giả Đinh Văn Quế đã đề cập gián tiếp
đến nội dung nguyên tắc này, song chỉ phân tích điểm mới về mặt khoa học
của Bộ luật hình sự năm 1999 so với Bộ luật hình sự năm 1985.
Như vậy, nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự chỉ được xem xét là
một mục nhỏ hoặc một phần nhỏ trong các sách báo, giáo trình giảng dạy đại
học, mà chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến những vấn đề lý luận
và thực tiễn về nội dung của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt
Nam một cách có hệ thống, toàn diện, đồng bộ và mang tính chuyên khảo ở
cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học, cũng như đề xuất được các giải pháp bảo
đảm thực hiện và thi hành nguyên tắc này trong luật hình sự nước ta.
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng, phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ vấn đề một cách có hệ thống về
mặt lý luận những nội dung cơ bản của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình
sự Việt Nam, sự thể hiện những tư tưởng của nguyên tắc này trong Bộ luật
hình sự. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc này trong luật hình sự nước ta trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Về mặt lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm bình đẳng dưới góc
độ triết học và phân tích các ý nghĩa pháp lý - xã hội, khái quát lịch sử phát

triển của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 đến nay, cũng như phân tích khái niệm, nội dung và ý


13
nghĩa của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự; sự thể hiện những tư tưởng
của nguyên tắc này trong Bộ luật hình sự năm 1999 hiện hành, trên cơ sở đó,
làm sáng tỏ bản chất pháp lý đề xuất giải pháp hoàn thiện và bảo đảm thực
hiện nguyên tắc này trong luật hình sự Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá sự một số tồn tại, hạn chế
trong thực tiễn áp dụng nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, có
sự minh họa thông qua các bản án hình sự. Trên cơ sở này, cần thiết phải hoàn
thiện và đưa ra các giải pháp bảo đảm cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh nguyên
tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Nguyên
tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc
bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, đồng thời luận văn cũng có đề cập đến
một số quy phạm của luật hình sự, cũng như minh họa những lập luận bằng
một số vụ án hình sự trong giai đoạn từ mười năm gần đây nhằm giải quyết
nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
4. Cơ sở lý luận và các phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về nguyên tắc
bình đẳng trước luật hình sự trong xây dựng, tổ chức Nhà nước của dân, do
dân và vì dân, trong đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu
của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử Nhà nước và pháp luật,
lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, tội phạm học, luật tố tụng hình

sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên
khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà hình sự học ở Việt Nam
và nước ngoài.


14
Ngoài ra, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học
luật hình sự như: phương pháp phân tích, tổng hợp, kết hợp với các phương
pháp khác như so sánh, điều tra xã hội học Đồng thời, tác giả còn sử dụng
các văn bản pháp luật của Nhà nước và những giải thích thống nhất có tính
chất chỉ đạo về lĩnh vực pháp luật hình sự do các cơ quan có thẩm quyền ban
hành có liên quan đến nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự, các tài liệu vụ
án hình sự trong thực tiễn xét xử, cũng như những thông tin trên mạng
Internet để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học và luận chứng các vấn đề
được nghiên cứu trong luận văn.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Các kết quả nghiên cứu của luận văn có những ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sau đây:
Về mặt lý luận: Đây là công trình nghiên cứu chuyên khảo và đồng
bộ đầu tiên đề cập một cách tương đối có hệ thống và toàn diện những vấn
đề lý luận và thực tiễn của nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt
Nam ở cấp độ một luận văn thạc sĩ luật học với một số đóng góp khoa học
đã nêu trên.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc đánh giá đúng đắn thực
tiễn thi hành nguyên tắc bình đẳng trước luật hình sự Việt Nam, cũng như đưa
ra các kiến nghị nâng cao hiệu quả nguyên tắc này ở khía cạnh lập pháp, cũng
như việc áp dụng chúng trong thực tiễn.
Ngoài ra, luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo về lý luận
cũng như thực tiễn cho các hình sự học, cán bộ thực tiễn, các sinh viên, học
viên cao học, nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như cung

cấp các luận cứ khoa học, phục vụ hoạt động lập pháp hình sự và hoạt động
áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm ở nước
ta hiện nay.


15
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận chung về nguyên tắc bình đẳng trước
luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Khái quát lịch sử và sự thể hiện của nguyên tắc bình đẳng
trước luật hình sự trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành và thực tiễn áp dụng.
Chương 3: Hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về nguyên tắc bình
đẳng trước luật hình sự và những giải pháp bảo đảm thực hiện nguyên tắc này.


















16
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC BÌNH ĐẲNG
TRƯỚC LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. KHÁI NIỆM "BÌNH ĐẲNG" DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC, CÁC Ý
NGHĨA XÃ HỘI VÀ PHÁP LUẬT CỦA BÌNH ĐẲNG
1.1.1. Khái niệm "bình đẳng" dưới góc độ triết học
Những quan điểm đầu tiên về bình đẳng được hình thành ngay từ
trong xã hội cộng sản nguyên thủy. Ở đó, bình đẳng được quan niệm như là
sự cần thiết phải chấp hành các tập quán và nghi lễ đang tồn tại.
Cùng với sự phân hóa xã hội, với sự xuất hiện giai cấp, chế độ tư hữu
với sự phức tạp các quan hệ xã hội, các quan niệm về bình đẳng trở nên
phong phú, đa dạng và luôn phát triển.
Phạm trù bình đẳng, về cơ bản, được triết học, đạo đức học, xã hội
học, luật học nghiên cứu. Việc nghiên cứu những sách báo nói về bình đẳng
cho thấy có hai phương pháp cơ bản mâu thuẫn nhau trong việc giải thích
khái niệm, nội dung bình đẳng: Duy tâm và duy vật.
Immanuel Kant (nhà triết học Đức 1724-1804) nhấn mạnh ý tưởng về
"bình đẳng tôn trọng", nói rằng tôn trọng đó là nợ cho chúng tôi tất cả như là
hợp lý các đại lý đạo đức. Kant khuyên chúng ta để "chữa trị cho mỗi người
đàn ông như là một kết thúc trong mình, và không bao giờ như một phương
tiện duy nhất'. Ông thấy tôn trọng như là cái gì đó nên được phân phối bằng
nhau, trong khi ngưỡng mộ - hoặc thái độ tương tự - nên được phân phối
không đồng đều.
Những tư tưởng tiến bộ về Luật hình sự cũng được thể trong các tác
phẩm của các nhà Triết học duy vật thế kỷ XVIII của nước Pháp như Didro,
Russo. Những nhà triết học duy vật đều nhấn mạnh vai trò của các nguyên tắc



17
như nguyên tắc pháp chế, bình đẳng, không tránh khỏi trách nhiệm, cá thể hóa
trách nhiệm hình sự. Nhà triết học Didro cho rằng, "Nhà làm luật thực hiện
chức năng của mình khi đảm bảo cho mọi người bình đẳng, tạo cho họ khả
năng được sống bình yên và hạnh phúc". Đối với nhà triết học theo chủ nghĩa
xã hội không tưởng như Moreli vào năm 1755 đã nêu trong tác phẩm Pháp
luật của tự nhiên hoặc tinh thần hợp chân lý tự nhiên của pháp luật, đó là
những quan niệm của ông về hoạt động lập pháp tương lai trong xã hội xã hội
chủ nghĩa. Theo Moreli thì có thể hiểu được rằng để có cớ sở đấu tranh với tội
phạm thì cần phải xóa bỏ sở hữu tư nhân, mọi người trong xã hội được bình
đẳng thì việc phạm tội trở thành điều vô lý.
Đến nửa sau thế kỷ XVIII, tại nước Pháp xuất hiện một loạt các tác
phẩm được coi như là các Bộ luật hình sự "mẫu" khi so sánh với những Bộ
luật hình sự được ban hành sau này. Có thể liệt kê những tác phẩm đó như:
Kế hoạch lập pháp hình sự của Zjumon (1784), các nguyên tắc của Luật hình
sự của Bernard (1780), lý luận về luật hình sự của Brisso (1782). Trong tác
phẩm Kế hoạch lập pháp hình sự của Marat (1782) - đã chỉ ra được bản chất
của luật hình sự phong kiến là chống lại nhân dân, chỉ bảo vệ lợi ích một
nhóm thiểu số trong xã hội phong kiến đó là giai cấp thống trị trong xã hội.
Chính từ việc nêu bật được bản chất đó, tác giả đã đề ra phương pháp và biện
pháp cần thiết là phải xóa bỏ, nhấn mạnh mối liên hệ mật thiết giữa hoạt động
lập pháp với trật tự xã hội, xuất phát từ bản chất của pháp luật phong kiến ông
đã lớn tiếng bênh vực giai cấp nhân dân bị áp bức bóc lột cấn phải được bảo
vệ những lợi ích [Dẫn theo 56, tr. 10-30]. Điểm nổi bật trong tác phẩm của
Marat là đã nêu được các nguyên tắc của luật hình sự và đó có thể được coi là
những nguyên tắc xuyên suốt cho đến pháp luật hình sự hiện nay vẫn được
tôn trọng đó là: Bảo đảm tính chính xác của các qui định của đạo luật hình sự
được thể hiện trong tác phẩm ở chỗ "điều quan trọng làm sao để mỗi người

hiểu được một cách đấy đủ nội dung của các qui phạm pháp luật và biết rõ
được vì sao phải chịu hậu quả pháp lý khi vi phạm pháp luật" trong pháp luật


18
của chúng ta hiện nay nguyên tắc này đã được áp dụng dưới hình thức nguyên
tắc phổ biến và tuyên truyền pháp luật trong nhân dân. Sự cần thiết những
điều cấm hình sự trong việc áp dụng, công bố bắt buộc các đạo luật, phòng
ngừa tội phạm, không được coi là phạm tội và phải chịu hình phạt khi đạo luật
hình sự không qui định, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, tùy từng
mức độ và tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà có mức hình phạt
tương ứng, cá thể hóa mức hình phạt và tính bình đẳng khi quyết định hình
phạt. Trách nhiệm cá nhân. Không tránh khỏi trách nhiệm khi ông đã chỉ ra
rằng: "không phải mức độ ít nghiêm khắc của hình phạt mà chính tính không
bị trừng phạt của tội phạm đã làm cho các đạo luật mất tác dụng" [Dẫn theo 56].
Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận ra rằng vào thời kỳ đó, đó là những tư tưởng
chỉ mang tính ảo vọng, chưa có giá trị để thực hiện chúng vì bản thân ông và
những đồng nghiệp của ông đang sống vào thời kỳ đó chưa vượt ra được khỏi
bên ngoài cái được gọi là khuôn khổ cuộc sống, của giai cấp. Nhưng chính
nhờ những tư tưởng tiến bộ mang tính chất khai sáng đó đã có ý nghĩa vô
cùng to lớn là cần một cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị của giai cấp
phong kiến. Từ đó đã có các cuộc cách mạng tư sản dẫn đến sự hình thành
nhà nước tư sản, sau khi giành được chính quyền từ giai cấp phong kiến. Giai
cấp tư sản đã tiến hành những công cuộc cải cách trong lĩnh vực pháp luật nói
chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng. Trong đó nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật đã được ghi nhận về mặt hình thức còn về
mặt thực tế đó là sự bình đẳng mang tính chất giả tạo và đã được Ph.Ăngghen
nhấn mạnh "là sự thâm hiểm, là điều lố bịch trước những lời hứa tuyệt vời của
các nhà khai sáng". Để phân tích sâu hơn, mang ý nghĩa rộng lớn hơn thì ông đã
có sự nhận xét "Bây giờ chúng ta biết…rằng, nguyên tắc bình đẳng vĩnh hằng

không còn tồn tại trong Luật hình sự tư sản, rằng sự bình đẳng của công dân
trước pháp luật chỉ còn mang tính hình thức và một trong những quyền thực tế
của con người đã được công bố…sở hữu tư nhân đối với tài sản" [77, tr. 40].
Khi so sánh những tư tưởng và nguyên tắc của Luật hình sự mà các nhà khai


19
sáng người Pháp và các nhà dân chủ tư sản đã nêu ra với những nguyên tắc
trong luật hình sự ở thời kỳ tư sản thì có thể nhận thấy những nguyên tắc mà
được giai cấp tư sản ghi nhận trong luật hình sự chỉ là những nguyên tắc có
tính trung lập như nguyên tắc trách nhiệm cá nhân, nguyên tắc trách nhiệm
lỗi, trách nhiệm dựa trên cơ sở lỗi. Pháp luật hình sự trong nhà nước tư sản
không có các nguyên tắc mang tính chất bình đẳng vì bản chất của nhà nước
tư sản là vì lợi ích chính trị và kinh tế của giai cấp tư sản nên họ luôn muốn
củng cố quyền lực nhà nước tư sản.
Những trào lưu triết học, đạo đức học, xã hội học và luật học trước
chủ nghĩa Mác - Lênin và những lý luận không mácxít tiếp theo xem xét bình
đẳng trong sự tách rời với cơ cấu kinh tế, xã hội, giai cấp của xã hội. Những
trào lưu và lý luận đó coi bình đẳng như một cái gì đó rất trìu tượng, hình
dung nó như một cái đã được xác lập bằng sức mạnh có từ trước, là phạm trù
trống rỗng mà có thể chất đầy bất cứ nội dung nào tùy theo ý muốn chủ quan
có lợi cho những lợi ích giai cấp mà các trào lưu và học thuyết đó bảo vệ.
Những trào lưu trên đưa ra những quan điểm và cách lý giả khác nhau về bình
đẳng. Tuy khác nhau ở những quan điểm nhỏ nhặt nhưng chúng đều giống
nhau ở điểm cơ bản là che đậy nguồn gốc hiện thực của các quan điểm về
bình đẳng. Theo một số lý luận, quan niệm thì nguồn gốc của bình đẳng bị
đưa ra khỏi phạm vi của xã hội, gắn với các thần linh, thượng đế, với sức
mạnh vô hình nào đó, và theo một số khác thì các quan niệm về bình đẳng của
một giai cấp được coi như là các quan niệm về bình đẳng của toàn xã hội.
Bình đẳng không chỉ là một phạm trù lịch sử cụ thể mà còn là một

phạm trù mang tính giai cấp sâu sắc. Quan điểm giai cấp là một đòi hỏi quan
trọng có tính nguyên tắc của việc phân tích khoa học khái niệm bình đẳng, vì
rằng chỉ có cách tiếp cận khoa học đó mới đáp ứng được những điều kiện lịch
sử hiện tại, mới có khả năng tách ra những mặt cơ bản của các khái niệm đó,
chỉ rõ sự đối lập rất lớn của các kiểu quan niệm về bình đẳng trên thế giới
hiện nay, thấy được sự khác biệt có tính nguyên tắc giữa nhận thức tiến bộ về


20
bình đẳng và bình đẳng giả tạo. Mỗi giai cấp có một kiểu quan niệm của mình
về bình đẳng dựa trên các nhu cầu về lợi ích phát triển của giai cấp đó. Nội
dung giai cấp của quan niệm bình đẳng xuất phát từ địa vị các giai cấp trong
sản xuất xã hội, vai trò của chúng trong phân phối, trong tổ chức lao động
cũng như từ địa vị chính trị pháp lý của giai cấp đó [56, tr. 10-30].
Các giai cấp thống trị bao giờ cũng cho là bình đẳng cái có lợi đối với
lợi ích kinh tế, chính trị, xã hội của họ và không bình đẳng cái mâu thuẫn với
các lợi ích đó. Bởi vậy, một kiểu quan niệm về bình đẳng có liên quan rất chặt
chẽ với một kiểu quan niệm về lợi ích.
Kinh nghiệm lịch sử đã chỉ rõ rằng kiểu quan niệm về bình đẳng của
những người chiếm hữu nô lệ mang tính giai cấp của giai cấp chiếm hữu nô
lệ. Kiểu quan niệm về bình đẳng của giai cấp phong kiến được xây dựng trên
quan điểm giai cấp của giai cấp phong kiến. Kiểu quan niệm về bình đẳng của
giai cấp tư sản cũng được lấy ra từ quan điểm giai cấp của nó. Những kiểu
quan niệm về bình đẳng nói trên được xây dựng trên quan điểm của giai cấp
thiểu số thống trị đa số.
Trong chủ nghĩa xã hội khái niệm bình đẳng vẫn giữ nguyên tính giai
cấp của mình. Ở đó những vấn đề của bình đẳng được giải quyết từ quan điểm
của giai cấp tiên tiến nhất trong lịch sử xã hội, từ quan điểm lợi ích của phần
lớn nhân dân lao động. Nói một cách cụ thể hơn là trong chủ nghĩa xã hội
được coi là bình đẳng tất cả những gì đáp ứng được các lợi ích của nhân dân

lao động, lợi ích của chủ nghĩa xã hội.
Trong các xã hội bóc lột ở khá niệm bình đẳng tính nhân loại bị coi
thường, bị lu mờ, tính giai cấp được đề cao một cách tối đa nhằm phục vụ cho
lợi ích của các giai cấp bóc lột. Còn trong chủ nghĩa xã hội cái chung của
nhân loại được thể hiện một cách đầy đủ nhất trong quan niệm về bình đẳng
và có sự tương hợp với cái giai cấp trong quan niệm đó. Nhưng điều đó không
có nghĩa là trong khái niệm về bình đẳng ở chủ nghĩa xã hội cái giai cấp và


21
cái chung của nhân loại hài hòa nhập thành một, đồng nhất với nhau. Mà cái
giai cấp, cái tự ý thức giai cấp bao giờ cũng là nhân tố chính, quyết định nội
dung của bình đẳng.
Những nhà nghiên cứu vấn đề bình đẳng dưới góc độ pháp lý, nhấn
mạnh khía cạnh pháp lý của khái niệm đó và cho rằng bình đẳng là khái niệm
về cái cần thiết phù hợp với sự nhận thức nhất định về bản chất của con người
và các quyền thiết thân của họ. Trong lĩnh vực pháp luật, bình đẳng được coi
là phạm trù của ý thức nhất định về bản chất của con người. Bình đẳng được
coi là phạm trù của ý thức pháp lý, đạo đức, của ý thức chính trị - xã hội, bởi
vì nó đặc trưng cho hiện thực xã hội từ quan điểm của việc cần và phải có sự
phù hợp giữa các vai trò thực tế của các cá nhân trong đời sống xã hội và địa
vị xã hội, quyền và lợi ích của họ, giữa hành vi và sự đáp lại, giữa tội phạm và
hình phạt.
Từ tất cả những cách tiếp cận về bình đẳng này cho thấy bình đẳng là
vấn đề phức tạp, là hiện tượng xã hội, phạm trù khoa học có nhiều mặt, là đối
tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp có lợi ích riêng của mình dựa
vào chúng giai cấp đó hình thành quan niệm về bình đẳng và bất bình đẳng.
Các quan niệm về bình đẳng phản ánh các lợi ích của các chủ thể tương ứng.
Điều đó được thể hiện ở hai điểm chính sau:

Một là, lợi ích là điểm xuất phát, là tiền đề của việc đánh giá sự bình
đẳng, ở đâu không có lợi ích thì ở đó không có sự đánh giá xuất phát từ quan
điểm bình đẳng. Đến lượt mình, bình đẳng lại phản ánh sự công bằng, công
minh về lợi ích.
Hai là, để các hành động, hành vi được đánh giá là bình đẳng hoặc bất
bình đẳng thì phải xâm phạm vào lợi ích. Lợi ích có thể là trực tiếp hoặc gián
tiếp, quan trọng hoặc ít quan trọng hơn. Sự khác nhau về lợi ích quyết định sự
khác nhau trong quan niệm về bình đẳng.


22
Như vậy, ở bất kỳ một xã hội có giai cấp nào pháp luật bao giờ cũng
lấy những quan niệm về bình đẳng thống trị trong xã hội đó làm cơ sở nguồn
gốc của mình. Pháp luật chiếm hữu nô lệ lấy quan niệm về bình đẳng thống
trị trong xã hội đó, quan niệm của những người chiếm hữu nô lệ làm cơ sở
để ban hành pháp luật. Pháp luật phong kiến lấy quan niệm về bình đẳng
thống trị trong xã hội đó - quan niệm của giai cấp phong kiến, địa chủ và tôn
giáo làm tiền đề xuất phát của mình. Pháp luật tư sản được ban hành dựa
trên quan điểm của giai cấp tư sản về bình đẳng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa
lấy các quan điểm về bình đẳng chân chính - bình đẳng xã hội chủ nghĩa,
bình đẳng của nhân dân lao động làm nguồn gốc, cơ sở của mình.
Trong các xã hội khác nhau và thậm chí ngay trong cả một xã hội nhất
định đã không có và không thể có sự nhận thức và quan niệm thống nhất về
cái thiện và cái ác, về bình đẳng và bất bình đẳng, về công bằng và không
công bằng, về dân chủ và phản dân chủ, về nhân đạo và vô nhân đạo ở tất cả
mọi người. Phạm trù "bình đẳng" đã được các nhà triết học nghiên cứu từ lâu,
các cuộc thảo luận triết học cố gắng để đạt được điều này vì trong xã hội
trước đây mọi người luôn quan tâm đến sự bình đẳng và mong muốn đạt được
nó. Thực tiễn lịch sử xã hội loài người đã chứng tỏ rằng, sự phát triển của xã
hội luôn vận động và phát triển để đạt đến sự bình đẳng nhiều hơn.

Khái niệm về "bình đẳng" được coi như là nền tảng cho triết học chính
trị nhưng để có được một cách hiểu chính xác những gì về ý nghĩa của bình
đẳng? Mọi người bình đẳng với nhau được thể hiện như thế nào? bằng cách
nào mọi người được bình đẳng ? và làm thế nào có thể đạt được sự bình
đẳng? Đó luôn là những câu hỏi khác nhau được nêu ra trong các chủ đề về
bình đẳng thu hút chúng ta vào các lĩnh vực như đạo đức, khoa học, chính trị và
kinh tế. Câu hỏi đặt ra không phải là về chúng ta là như nhau trong tất cả các tôn
trọng, bởi vì rõ ràng là không. Là một cá nhân thì sẽ khác biệt trong tất cả các
cách thức của sự vật, chẳng hạn như nhân vật, xuất hiện và khả năng. Vì vậy, khái
niệm về bình đẳng đã đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải làm rõ được ý nghĩa của nó.


23
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đặc biệt nhấn mạnh
các nguyên tắc có tính chất bình đẳng, dân chủ và nhân đạo trong các tác
phẩm của mình. Chẳng hạn, Bernard Williams (nhà Triết học người Anh
1929-2003) tại ý tưởng bình đẳng, bắt đầu phát triển của ông về khái niệm về
bình đẳng bởi thấy rằng ý tưởng là được sử dụng trong hai cách: như một
tuyên bố mục đích của thực tế, chẳng hạn như 'tất cả mọi người đều bình
đẳng, đó như là một nguyên tắc chính trị hay mục đích, chẳng hạn như 'tất cả
mọi người phải được bình đẳng - cho hiện nay họ không. Đây có thể được kết
hợp với nhà nước nhằm mục đích bình đẳng chính trị là 'một nhà nước đảm
bảo các công việc mà trong đó người đàn ông đang được coi là các chúng sinh
bình đẳng mà họ trong thực tế đã được.B. Williams nói rằng: "cả hai chạy vào
sử dụng cùng một vấn đề: một mặt, khi các chữ, các báo cáo quá mạnh; tất cả
mọi người đều bình đẳng", ví dụ, là quá mạnh bởi vì con người không thực sự
bình đẳng đối với bất kỳ khác hơn là con người.
Mặt khác, khi điều này được công nhận, tuyên bố sẽ trở thành quá
yếu; "tất cả mọi người đều bình đẳng", dịch thành "tất cả con người". Williams
sau đó tăng cường sự biểu hiện "tất cả mọi người là con người" bằng cách liên

kết nó với khái niệm "chung nhân loại", mà ông nói làm cho các biểu hiện xa
tầm thường vì nó kết hợp yêu cầu bồi thường đạo đức. Phổ biến nhân loại,
ông nói, làm cho sự khác biệt của việc điều trị tùy thuộc vào sự biện hộ và
hợp lý.
Xét về mặt lịch sử, bình đẳng đã từng là ngọn cờ của cách mạng tư sản
chống chế độ phong kiến chuyên chế. Điều bổ sung thứ XIV vào năm 1868
của Hiến pháp Mỹ, lần đầu tiên nhắc đến khái niệm" Sự bảo vệ bình đẳng của
pháp luật đối với mọi người". Như vậy, pháp luật trong thời kỳ này của nhà
nước tư sản Mỹ, một nhà nước mới được hình thành sau cuộc cách mạng đã
đề cập đến sự cần thiết bảo vệ bình đẳng của pháp luật đối với người dân mặc
dù sự bình đẳng trong giai đoạn này có thể nói là sự giả tạo hay hạn chế vì
bản chất nhà nước tư sản là bảo vệ lợi ích cho giai cấp thống trị mà điểm hình


24
là những nhà tư sản, những kẻ giàu có trong xã hội đó (số ít) trong khi đó đại
bộ phận những người còn lại trong xã hội là những người nông dân, làm thuê
(những người nghèo khó - số nhiều).
1.1.2. Các ý nghĩa xã hội và pháp luật của bình đẳng
Về mặt xã hội thì những giá trị cao quý nhất của xã hội đó là quyền
bình đẳng mà cụ thể hơn là sự bảo vệ bình đẳng của pháp luật đối với mọi
người đã được đặt ra. Cùng với sự phát triển của xã hội loài người thì chế độ
tư hữu ra đời, trong quá trình tan rã của chế độ cộng sản nguyên thủy thì các
quan hệ xã hội đã có tính chất đối kháng, cần có một thực thể đứng ra với
chức năng để bảo vệ các quan hệ xã hội mới đó - đó chính là xuất phát điểm
của sự hình thành nhà nước.
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ thì về mặt xã hội thể hiện rõ nét và sâu
sắc nhất là sự bất bình đẳng giữa con người với con người với nhau,khi mà ở
xã hội cộng sản nguyên thủy không có điều này. Đó là sự bất bình đẳng của con
người thuộc các tầng lớp và giai cấp khác nhau và được phản ánh vào pháp luật

hình sự như: một người đánh gãy răng của người khác, thì người đánh sẽ bị bẻ
gãy chính chiếc răng đó. Nếu người nào đó đánh gãy răng của người chủ thì
phải nộp phạt một phần ba lạng bạc cho người chủ. Nếu người nào đó đánh vào
mặt của người chủ có địa vị xã hội cao hơn thì sẽ bị đánh sáu mươi roi bằng
roi da. Nếu một người đánh vào mặt một người khác mà cả hai đều là người
chủ, thì người đánh phải nộp phạt cho người bị đánh mười phân bạc. Nếu
người nô lệ mà đánh vào mặt của bất kỳ ai cũng sẽ đều bị cắt tai [56, tr. 10-30].
Đến thế kỷ II-I (trước công nguyên) thì địa vị xã hội của người phạm
tội cũng như người bị hại đã được thể hiện trong Đạo luật Manu, khi xảy ra
trường hợp giết người, nếu người bị giết là người chủ thì người phạm tội sẽ bị
trừng trị nặng hơn cả. Nếu người bị giết là chức sắc quân sự, tư thương, thợ
thủ công và nô lệ thì hình phạt áp dụng tương ứng chỉ bằng một phần tư, một
phần tám hay một phần mười sáu so với trường hợp giết người chủ của mình.
Đó là sự thể hiện nguyên tắc bất bình đẳng về đẳng cấp.


25
Đến xã hội phong kiến thì cũng vẫn thể hiện một sự bất bình đẳng về
giai cấp và đẳng cấp mặc dù dưới góc độ xã hội thì chế độ chiếm hữu nô lệ
không còn nữa. Pháp luật hình sự nước Nga trong giai đoạn từ thế kỷ IX đến
thế kỷ XI có loại hình phạt chuộc tiền nhưng loại hình phạt này chỉ được áp
dụng đối với người thuộc giới quí tộc phong kiến và tùy từng đối tượng bị
giết thì số tiền phải nộp có khác nhau, người có địa vị càng cao thì mức tiền
càng lớn và ngược lại. Đây có thể coi là đặc trưng của nhà nước phong kiến
khi mà mọi phẩm giá đều được đánh giá bằng tiền và giá trị vật chất, không
có sự bình đẳng trong xã hội dẫn đến không có sự bình đẳng trong pháp luật
hình sự nói chung cũng như pháp luật hình sự nói riêng. Giai cấp nông dân và
thợ thủ công trong nhà nước phong kiến bị bóc lột một cách thậm tệ, nhà
nước phong kiến ngày càng thực hiện những chính sách trừng trị nghiêm
khắc, các hình phạt mang tính chất tàn bạo. Dưới triều Vua Carl V, tất cả các

tội phạm đều có khung hình phạt cao nhất là tử hình và hình phạt này được thi
hành bằng những hình thức vô cùng dã man và tàn bạo [56, tr. 10-30].
Khi các lợi ích kinh tế và các lợi ích xã hội của lực lượng mới đã là
động lực chính thúc đẩy cuộc đấu tranh chống lại nhà nước phong kiến, sự
cần thiết phải giải phóng con người ra khỏi những quan hệ sản xuất phong
kiến, xây dung một thượng tầng chính trị - pháp lý cho nó phù hợp với cơ sở
hạ tầng dẫn dến sự xuất hiện nhà nước tư sản và sau này là tư bản chủ nghĩa.
Trong chế độ tiền tư bản chủ nghĩa cùng với sự phát triển của lực lượng sản
xuất, chế độ tư hữu xuất hiện dẫn đến sự phân chia xã hội thành các giai cấp,
tầng lớp khác nhau mà tương ứng với nó là trong xã hội con người có nhiều
địa vị khác nhau. Trong xã hội, những người nô lệ là lực lượng lao động chủ
yếu nhưng họ chỉ được coi là "công cụ biết nói" không được hưởng bất kỳ
quyền lợi gì. Những quan điểm về sự bình đẳng trong thời kỳ này do một số
các nhà trí thức nêu ra có thể nói là không có một sự bình đẳng theo khái
niệm rộng mà chí là sự bình đẳng theo khái niệm hẹp. Đó chính là sự bình


26
đẳng trong cùng một đẳng cấp xã hội chứ không phải là sự bình đẳng của con
người ở những đẳng cấp khác nhau.
Đến khi xã hội phát triển đến nền sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa,
lúc này quyền bình đẳng không còn bị bó hẹp ở góc độ bình đẳng ở trong
cùng một địa vị xã hội nữa nhưng quan hệ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất cho nên không thể có được một khái niệm đầy đủ về bình đẳng khi mà
chính trong xã hội đó đang có sự bất công và bất bình đẳng giữa những người
lao động làm thuê và giới chủ. Trong thời kỳ này các giải pháp nhằm giải
quyết các vấn đề xã hội cũng chỉ mang tính chất nửa vời, là phương tiện để
duy trì sự tồn tại của chế độ tư bản.
Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời với việc long trọng tuyên bố
xóa bỏ chế độ tư hữu, xóa bỏ chế độ người bóc lột người và xác lập các mối

quan hệ bình đẳng, công bằng về quyền và nghĩa vụ giữa con người với con
người trong xã hội, giữa nhà nước và công dân thì vấn đề bình đẳng đã được
giải quyết một cách cụ thể và logic. Các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin
vạch rõ cơ sở khách quan của tình trạng bất công trong chủ nghĩa tư bản chính
là do chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Để xóa bỏ sự
bất công đó cần phải xóa bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa và nhất
thiết cần phải lập ra một chế độ mới đó là chế độ sở hữu xã hội chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất. Vì trong chế độ này thì tất cả mọi người đều được bình đẳng
về quan hệ sở hữu, mọi người đều có quyền như nhau về địa vị trong quan hệ
về tư liệu sản xuất [56, tr. 10-30]. Như vậy quyền bình đẳng của con người
mới được đảm bảo. Họ đã lập luận rõ bản chất của xã hội và các nguyên nhân
của vi phạm pháp luật và tội phạm, chứng minh nguồn gốc giai cấp của các hệ
thống pháp luật vì sự nghèo đói của xã hội thì phải thay đổi chính bản thân
của xã hội đó.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh
đã tiếp thu, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa

×