Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

NGHIÊN CỨU VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.46 KB, 72 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠOTRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI</b>

<b>Sinh viên thực hiện: Ngô Thị Thuỷ Tiên - Lớp HC K56P3 Dương Yến Ninh – Lớp HC K56P2 Trần Thị Hà Phương – Lớp HC K56P2 Nguyễn Minh Phương – Lớp HC K56P3</b>

<b>Giáo viên hướng dẫn: Ths Đinh Thị Ngọc Hà</b>

Hà Nội 2023

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>LỜI CAM ĐOAN</b>

Nghiên cứu khoa học này là cơng trình nghiên cứu của nhóm em, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của ThS. Đinh Thị Ngọc Hà. Các số liệu, trích dẫn, ví dụ, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong này hoàn toàn trung thực.

Chúng em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>LỜI CẢM ƠN</b>

Chúng em xin chân thành cảm ơn Quý thầy/cô Khoa Luật Trường Đại học Thương Mại đã tận tình giảng dạy và truyền đạt những kiến thức vơ cùng quý báu cho chúng em trong suốt quá trình học tập tại trường.

Đặc biệt, chúng em xin gửi lời cảm ơn đến ThS. Đinh Thị Ngọc Hà đã tận tâm giúp đỡ, hỗ trợ và hướng dẫn chúng em suốt quá trình nghiên cứu.

Chúng em cũng xin chân thành cảm ơn các chuyên gia, anh chị, bạn bè đã hỗ trợ, đóng góp ý kiến để chúng em có thể hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này.

Nghiên cứu có thể khơng tránh khỏi hạn chế và thiếu sót, nhóm nghiên cứu rất mong nhận được ý kiến đóng góp q báu từ q thầy/cơ để đề tài phát triển hơn nữa trong tương lai.

Nhóm nghiên cứu xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 16 tháng 02 năm 2023 Nhóm tác giả

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>LỜI CAM ĐOAN...3</b>

<b>LỜI CẢM ƠN...4</b>

<b>LỜI MỞ ĐẦU...8</b>

<b>CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU...8</b>

<b>1. 1. Tính cấp thiết của đề tài...8</b>

<b>1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài...10</b>

<b>1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu...12</b>

<b>1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...13</b>

<b>1.5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu...14</b>

<b>1.6. Kết cấu của đề tài...15</b>

<b>CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM THẤTNGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP...16</b>

<b>2.1. Khái quát chung về thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp...16</b>

<b>2.1.1. Thất nghiệp và những tác động của thất nghiệp...16</b>

<b>2.1.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp...17</b>

<b>2.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp...18</b>

<b>2.1.4. Vai trò của bảo hiểm thất nghiệp...20</b>

<b>2.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay...23</b>

<b>2.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...23</b>

<b>2.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ bảo hiểm thất nghiệp bằng phápluật...24</b>

<b>2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...27</b>

<b>2.2.4. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảohiểm thất nghiệp...29</b>

<b>2.2.5. Nguồn pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...34</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>2.2.6. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và kinh</b>

<b>nghiệm cho Việt Nam...36</b>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG II...40</b>

<b>CHƯƠNG III: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂMTHẤT NGHIỆP...41</b>

<b>3.1. Nội dung cơ bản của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...41</b>

<b>3.1.1. Về đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp...41</b>

<b>3.1.2. Về điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp...41</b>

<b>3.1.3. Về thời gian nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp...42</b>

<b>3.1.4. Về hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp...43</b>

<b>3.1.5. Về mức hưởng, thời gian, thời điểm hưởng trợ cấp thất nghiệp...44</b>

<b>3.1.6. Về các chế độ bảo hiểm thất nghiệp...45</b>

<b>3.1.7. Về quỹ bảo hiểm thất nghiệp...47</b>

<b>3.2. Thực trạng các quy định pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Namhiện nay...47</b>

<b>3.2.1. Thực trạng các quy định pháp luật về đối tượng tham gia bảo hiểm....47</b>

<b>3.2.2. Thực trạng các quy định pháp luật về điều kiện hưởng trợ cấp thất</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>3.3. Một số đánh giá và nhận xét chung đối với pháp luật về bảo hiểm thất</b>

<b>nghiệp ở Việt Nam hiện nay...53</b>

<b>3.3.1. Những kết quả đạt được trong thời gian thực hiện bảo hiểm thất nghiệptừ 2019 đến nay...53</b>

<b>3.3.2. Những vướng mắc, tồn tại trong quá trình thực hiện bảo hiểm thấtnghiệp ở nước ta hiện nay...55</b>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG III...59</b>

<b>CHƯƠNG IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆNVÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤTNGHIỆP...60</b>

<b>4.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.</b> ... 60

<b>4.2. Yêu cầu đặt ra đối với việc hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.614.3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thựchiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp...62</b>

<b>KẾT LUẬN CHƯƠNG IV...66</b>

<b>KẾT LUẬN...67</b>

<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO...68</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

<b>LỜI MỞ ĐẦU</b>

<b>CHƯƠNG I: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VÀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU1. 1. Tính cấp thiết của đề tài. </b>

Việc làm có vai trị vơ cùng quan trọng trong đời sống xã hội, đối với từng cá nhân và toàn bộ nền kinh tế. Nó cũng là vấn đề cốt lõi và xuyên suốt trong các hoạt động kinh tế, có mối quan hệ mật thiết với kinh tế và xã hội, chi phối toàn bộ mọi hoạt động của cá nhân và xã hội. Đối với từng cá nhân thì có việc làm đi đơi với có thu nhập để ni sống bản thân, gia đình. Vì vậy nó ảnh hưởng trực tiếp và chi phối toàn bộ đời sống của cá nhân. Đối với kinh tế thì lao động là một trong những nguồn lực quan trọng, là đầu vào khơng thể thay thế đối với một số ngành, vì vậy nó là nhân tố tạo nên tăng trưởng kinh tế và thu nhập quốc dân. Đảm bảo về việc làm cho từng cá nhân góp phần quan trọng trong ổn định xã hội, phát triển kinh tế. Tuy nhiên, mất việc làm (thất nghiệp) vẫn luôn tồn tại ở tất cả các nền kinh tế với các mức độ khác nhau. Thất nghiệp làm người lao động mất đi khoản thu nhập vốn để nuôi sống bản thân và gia đình họ. Tình trạng thất nghiệp kéo dài cùng với chất lượng cuộc sống không được đảm bảo sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người lao động và gia đình họ, gây ra nhiều vấn đề nghiêm trọng về kinh tế - xã hội, làm suy giảm niềm tin của người lao động đến những chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, thậm chí có thể gây ra biến động khơng tốt về chính trị. Do đó, hầu hết các quốc gia đều cố gắng xây dựng nền kinh tế tăng trưởng, ổn định, cải thiện nguồn cung việc làm, và giảm thiểu tối đa tình trạng thiếu việc làm. Là một nước đang phát triển, với mức sống của người dân còn nhiều khiêm tốn, việc những người lao động bị thất nghiệp đã tác động khơng nhỏ đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của Việt Nam. Do đó, việc hạn chế thất nghiệp và đảm bảo ổn định đời sống người lao động trong trường hợp bị thất nghiệp là yêu cầu và cũng là mục tiêu quan trọng của nhà nước ta.

Thế nhưng, đại dịch COVID-19 đã và đang gây ra những tác động rất lớn, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội trên phạm vi tồn thế giới nói chung, cũng như ở nước ta nói riêng. Và một trong những ảnh hưởng lớn nhất do đại dịch này chính là tình trạng thất nghiệp, mất việc làm của người lao động. Đại dịch COVID-19 xuất hiện tại Việt Nam đã ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình lao động và việc làm trong tất cả các ngành và tại mọi miền trong nước từ nông thôn đến thành thị. Trong đó ảnh

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

hưởng rõ rệt nhất là vào quý II năm 2020 khi tình hình diễn biến phức tạp, nhiều ca lây nhiễm nguy hiểm trong cộng đồng và đặc biệt là việc áp dụng quy định giãn cách toàn xã hội càng làm cho tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Theo thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, đại dịch COVID-19 ảnh hưởng trực tiếp và gây tổn thương khá nặng nề với quy mô khoảng 50-60% người lao động. Trên 50% người trong độ tuổi lao động bị ảnh hưởng mất việc làm, giảm thu nhập. Đặc biệt, trong quý III/2021, dịch bệnh tăng mạnh khiến lao động việc làm thiếu hụt rất lớn, nhất là cuối thời kỳ giãn cách xã hội; thu nhập bình quân của người lao động tại thành phố giảm đến 40% so với bình qn trên cả nước. Lực lượng lao động có 49,1 triệu lượt người, giảm 22 triệu lượt người so với cùng kỳ năm 2020; lao động việc làm là 47,2 triệu người, giảm 2,7 triệu người so với cùng kỳ năm 2020; tỷ lệ thiếu việc làm là 4,46% (hơn 1,8 triệu người), tăng 1,86% so với quý trước; tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động là 3,98% (hơn 1,7 triệu người), tăng hơn 1,25% so với cùng kỳ năm 2020; 14,7 triệu lao động tạm nghỉ hoặc tạm ngừng sản xuất, kinh doanh; hơn 10 triệu lao động giảm giờ làm, tạm dừng việc làm. Nền kinh tế bị ngưng trệ, nhiều doanh nghiệp phải cho lao động ngừng, giãn hoặc nghỉ việc. [2]

Song song với những hậu quả tiêu cực đó, thất nghiệp gia tăng cịn gây ra sức ép lớn về tài chính dùng cho các quỹ, chương trình, chính sách để hỗ trợ và chống thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp với mục đích hỗ trợ phần nào thu nhập cho người lao động, tư vấn giới thiệu việc làm, hỗ trợ học nghề là một trong những biện pháp hữu hiệu của nhà nước nhằm khắc phục tình trạng thất nghiệp và đã được nhiều quốc gia trên thế giới như Mỹ, Canada, Trung Quốc… áp dụng thành công. Ở nước ta, bảo hiểm thất nghiệp được ghi nhận trong Luật Bảo hiểm xã hội và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2016. Qua nhiều năm thực hiện, bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu cơ bản của người lao động, người sử dụng lao động, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần quan trọng trong việc bảo đảm thu nhập của người lao động và giúp họ sớm tìm được việc làm trở lại. Trong bối cảnh đại dịch COVID-19 diễn biến phức tạp, chính sách bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm thất nghiệp nói riêng đã phát huy vai trị tích cực trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, cũng như người sử dụng lao động. Có thể khẳng định, bảo hiểm thất nghiệp như “chiếc phao cứu sinh” cho người lao động và người sử dụng lao động trong hoàn cảnh khó khăn do đại dịch COVID-19 gây ra.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Tuy nhiên, qua quá trình áp dụng thực hiện, pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp cũng đã bộc lộ những thiếu sót, tồn tại khơng chỉ về các quy định pháp luật mà còn trong thực tiễn thực hiện bảo hiểm thất nghiệp. Điển hình là những hạn chế về đối tượng tham gia, chưa có các chế tài xử lý cụ thể khi có vi phạm xảy ra hay các bất cập trong quá trình giải quyết quyền lợi bảo hiểm. Vì vậy việc tìm ra các biện pháp thích hợp nhằm khắc phục những tình trạng trên là điều hết sức cần thiết để bảo hiểm thất nghiệp có thể phát huy được vai trị và ý nghĩa vốn có của nó trong thực tiễn đời sống.

Từ những lý do trên, nhóm em lựa chọn đề tài “"Nghiên cứu về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm mình.

<b>1.2. Tình hình nghiên cứu đề tài. </b>

 <i>Tình hình nghiên cứu trong nước </i>

Xuất phát từ tính quan trọng của vấn đề việc làm - thất nghiệp nên có rất nhiều đề tài nghiên cứu liên quan đến vấn đề này. Tiêu biểu có thể kể đến:

<i>Về Giáo trình, sách tham khảo: </i>

- Giáo trình Bảo hiểm xã hội Học viện Tài chính năm 2011 đã thể hiện đầy đủ những kiến thức như khái niệm, đặc điểm vai trò của các loại bảo hiểm và bảo hiểm thất nghiệp; vừa đảm bảo tính khoa học, hiện đại vừa phù hợp với điều kiện ở Việt Nam hiện nay.

- Giáo trình Bảo hiểm thất nghiệp của trường Đại học Lao động- xã hội năm 2011 đã làm rõ bảo hiểm thất nghiệp là bộ phận quan trọng của an sinh xã hội, sự phát triển của bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường mang tính tất yếu.

- Sách tham khảo “Cẩm nang pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp” của Phạm Thanh Hữu đã trình bày những vấn đề cơ bản về bảo hiểm xã hội bắt buộc; bảo hiểm xã hội tự nguyện; bảo hiểm y tế; bảo hiểm thất nghiệp. Cuốn sách giúp bạn đọc nắm bắt kiến thức pháp luật cơ bản về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp để bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của mình và người khác, tránh những rủi ro pháp lý khơng đáng có.

Theo đó, các cơng trình này có đề cập tới một số nội dung liên quan đến Bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

<i>Về các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án, luận văn: </i>

<i>- Luận văn “Bảo hiểm thất nghiệp trong luật việc làm năm 2013” của Lê</i>

Nguyễn Việt Hà. Bảo hiểm thất nghiệp trong luật việc làm năm (2013) làm rõ các khái niệm về bảo hiểm thất nghiệp (bao gồm khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của bảo hiểm thất nghiệp) và khái niệm về pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Luận văn đã phân tích nguyên tắc điều chỉnh pháp luật bảo hiểm thất nghiệp, nội dung pháp luật bảo hiểm thất nghiệp, tìm hiểu kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới và rút ra bài học đối với Việt Nam;

<i>- Luận văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm thất nghiệp trong luật bảo hiểm xã hội ởViệt Nam - Thực trạng và giải pháp” của Ngô Thu Phương (2014) đã nêu ra một số</i>

nội dung cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp cũng như thực trạng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam sau 5 năm thực hiện;

- Luận văn: “Bảo hiểm thất nghiệp theo pháp luật Việt Nam” của Dương Thị Nguyệt Khuê (2017) đã nêu lên những vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp cũng như thực trạng bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta;

- “Pháp luật về về bảo hiểm thất nghiệp của một số quốc gia trên thế giới- Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam” của Đoàn Xuân Trường và Trường Đại học Luật Hà Nội (2018) đã đánh giá thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

Ngồi ra, cịn có một số bài viết trên các tạp chí khoa học pháp lý như:

- “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp – Sự cần thiết khách quan và nguyên tắc xây dựng” của Đỗ Năng Khánh - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 9 tháng 10 năm 2001 đề cập đến những vấn đề về bảo hiểm thất nghiệp và nêu lên ý kiến góp ý xung quanh nhu cầu khách quan về pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta;

- “Một số bất cập trong thi hành pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp của Bùi Đức Hiển - Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4 tháng 2 năm 2011 đã nêu lên những bất cập, hạn chế trong quá trình thực thi và nêu ra những kiến nghị hoàn hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam;

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

- “Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp sau 3 năm thực hiện ở Việt Nam của Đỗ Thị Dung - Tạp chí Luật học. Số 9/2012 cũng đã nêu lên thực trạng áp dụng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp sau 3 năm thực hiện ở nước ta.

Những cơng trình nghiên cứu trên đã làm rõ những vấn đề về bảo hiểm thất nghiệp và về pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Từ đó thấy được: Bảo hiểm thất nghiệp là một trong những hoạt động quan trọng trong công tác bảo đảm an sinh xã hội; pháp luật điều chỉnh về bảo hiểm thất nghiệp là hành lang pháp lý góp phần bảo đảm quyền và lợi ích của người lao động.

Ngồi ra cịn nhiều cơng trình có liên quan khác, mỗi cơng trình nghiên cứu lại giải quyết những vấn đề riêng, có những điểm thuyết phục và những giá trị tham khảo khác nhau, song đều đem lại những kiến thức bổ ích, cần thiết về bảo hiểm thất nghiệp. Đó là những tài liệu hết sức bổ ích giúp chúng em hồn thiện bài nghiên cứu của mình.

 <i>Tình hình nghiên cứu nước ngồi.</i>

- Nghiên cứu của nhóm tác giả Milan Vodopivec and Minna Hahn Tong về “Cải thiện bảo hiểm thất nghiệp ở Trung Quốc” (2008) đã nêu lên được thực trạng về bảo hiểm thất nghiệp từ đó nêu ra các khuyến nghị và giải pháp nhằm cải thiện bảo hiểm thất nghiệp ở Trung Quốc;

- Nghiên cứu của Vodopivec, Milan (2004) về “Bảo hiểm thất nghiệp: Hiệu quả và bài học cho các nước đang phát triển” đã nêu lên nội dung chính sách và việc tổ chức thực hiện bảo hiểm hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới từ đó chỉ ra những bài học và kinh nghiệm cho các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

<b>1.3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu. </b>

<i><b>Mục tiêu:</b></i>

Đề tài này được nghiên cứu với mục tiêu làm sáng tỏ những vấn đề lí luận và thực tiễn của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp và thực trạng các quy định pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp. Qua đó đề xuất một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần hồn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

<i><b>Nhiệm vụ: </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

Để đạt những những mục tiêu nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:

<i>Thứ nhất, Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận về bảo hiểm thất nghiệp và</i>

pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

<i>Thứ hai: Phân tích thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp trên cơ sở đó</i>

đưa ra những đánh giá, nhận xét về thực trạng pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

<i>Thứ ba: Trên cơ sở những đánh giá và nhận xét đó, nhóm nghiên cứu sẽ đưa ra</i>

một số kiến nghị và giải pháp nhằm góp phần hồn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

<b>1.4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu</b>

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề lí luận cơ bản liên quan đến pháp luật về về bảo hiểm xã hội đặc biệt tập trung vào nội dung những quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội và thực trạng của pháp luật về về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam.

<b>Phạm vi nghiên cứu: </b>

<i>- Phạm vi về nội dung.</i>

Đề tài nghiên cứu tập trung vào những quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp. Trong đó bao gồm những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện những quy định của pháp luật liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp.

<i><b>- Phạm vi về không gian.</b></i>

Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam thông qua việc nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, những công trình nghiên cứu khoa học trong nước. Ngồi ra, nhóm có tham khảo pháp luật một số quốc gia trên thế giới liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp.

<i>- Phạm vi về thời gian.</i>

Đề tài tập trung vào các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất

<i><b>nghiệp như: Hiến pháp 2013, Bộ Luật Lao động năm 2019, Luật Bảo hiểm xã hội2014, Luật Việc làm 2013,... và một số văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

<b>1.5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.</b>

Việc nghiên cứu được tiến hành dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin. Bên cạnh đó, đề tài nghiên cứu cịn sử dụng các phương pháp cụ thể bao gồm: phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và phương pháp thu thập dữ liệu. Các phương pháp đó được sử dụng cụ thể như sau:

<i>Phương pháp thu thập dữ liệu: bao gồm việc thu thập các dữ liệu sơ cấp và</i>

thứ cấp. Dữ liệu sơ cấp là những dữ liệu do người nghiên cứu trực tiếp thu thập còn dữ liệu thứ cấp là những dữ liệu có sẵn, dữ liệu đã được công bố. Trong đề tài nghiên cứu này, chúng em đã sử dụng phương pháp thu thập dữ liệu sơ cấp trong việc thu thập các số liệu liên quan về số lượng người tham gia bảo hiểm thất nghiệp, các con số thống kê về lực lượng lao động, tỷ lệ thất nghiệp,...; Ngoài ra, các giáo trình, sách tham khảo, bài báo, cơng trình nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là những dữ liệu thứ cấp được thu thập và tham khảo trong Chương 2, Chương 3, Chương 4 của bài nghiên cứu.

<i>Phương pháp hệ thống: Trong đề tài này, phương pháp hệ thống được sử dụng</i>

chủ yếu trong chương 2 và chương 3 nhằm hệ thống lại quá trình lịch sử, hình thành và phát triển về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, hệ thống hóa các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp.

<i>Phương pháp phân tích: Phương pháp này được dùng xuyên suốt trong tất cả</i>

các chương nhằm làm rõ các vấn đề từ khái niệm, đặc điểm,... những quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp; phân tích thực trạng đưa ra giải pháp thích hợp để nhằm hồn thiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp

<i>Phương pháp tổng hợp: Trên cơ sở phân tích những bất cập của pháp luật</i>

xoay quanh quy định của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp từ đây chúng em sử dụng phương pháp tổng hợp để tổng kết lại vấn đề cần giải quyết đồng thời đưa ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.

<i>Phương pháp so sánh được sử dụng trong các chương nhằm làm rõ sự phát</i>

triển của các quy định pháp luật liên quan về mua bán nhà ở hình thành trong tương lai ở các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam. Bên cạnh đó, phương pháp này còn

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

được sử dụng nhằm so sánh quy định của pháp luật Việt Nam với quy định về bảo hiểm thất nghiệp của một số quốc gia trên thế giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Đan Mạch, Cộng hòa Liên bang Đức.

<b>1.6. Kết cấu của đề tài </b>

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 4 chương:

Chương 1: Tổng quan nghiên cứu và tình hình nghiên cứu.

Chương 2: Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiểm thất nghiệp và pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

Chương 3: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo hiểm thất nghiệp.

Chương 4: Một số kiến nghị và giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp.

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

<b>CHƯƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP</b>

<b>2.1. Khái quát chung về thất nghiệp và bảo hiểm thất nghiệp2.1.1. Thất nghiệp và những tác động của thất nghiệp</b>

<i>a. Khái niệm</i>

Thất nghiệp là vấn đề trung tâm của toàn cầu trong xã hội hiện đại, là trạng thái tổng cung lao động của những người lao động muốn làm việc tại một thời điểm lớn hơn khối lượng việc làm hiện đang có.

Theo Điều 20 Cơng ước 102 của ILO, thất nghiệp được định nghĩa như sau:

<i>“Thất nghiệp là sự ngừng thu nhập do người lao động khơng có khả năng tìm đượcviệc làm thích hợp trong trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làmviệc”.</i>

Theo tiêu chuẩn quốc tế thì “người thất nghiệp” gồm những người ở độ tuổi từ 15 tuổi trở lên và có cả 3 điều kiện: “khơng có việc làm”, sẵn sàng làm việc”, “đang làm việc”. Định nghĩa về thất nghiệp ILO đưa ra đã được nhiều nước tán thành và lấy đó làm nền tảng để vận dụng tại quốc gia mình.

Ở Việt Nam, thất nghiệp là vấn đề mới xuất hiện trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế đất nước. Do đó, chưa có văn bản pháp luật quy định về khái niệm thất nghiệp. Tuy nhiên, Việt Nam đang hội nhập xu hướng của thế giới, bước vào thời kỳ công nghệ 4.0, nếu không bắt kịp xu thế của thời đại, ứng dụng cơng nghệ vào cuộc sống thì tình trạng thất nghiệp rất dễ xảy ra.

<i>b.Tác động của thất nghiệp đến nền kinh tế</i>

Vấn đề thất nghiệp không phải hiện tượng độc lập của nền kinh tế mà đó chính là kết quả của các quy luật nhất định để đạt được sự cân bằng của hệ thống kinh tế. Do đó, các quốc gia cần hạn chế tình trạng thất nghiệp xảy ra bởi:

Thứ nhất, thất nghiệp tác động đến tăng trưởng kinh tế và lạm phát.

Thất nghiệp tăng lên nghĩa là lực lượng lao động xã hội không được tham gia vào hoạt động sản xuất, không được làm việc. Đây là sự lãng phí lao động - nhân tố cơ bản để phát triển kinh tế- xã hội. Thất nghiệp tăng lên kéo theo nền kinh tế đang từng

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

bước suy thoái bởi tổng thu nhập quốc gia thực tế thấp hơn tiềm năng, thiếu vốn đầu tư. Đây là tiền đề đẩy một đất nước vào bờ vực của lạm phát.

Thứ hai, thất nghiệp ảnh hưởng đến thu nhập, đời sống của người lao động. Người lao động bị thất nghiệp sẽ mất nguồn thu nhập gây khó khăn cho bản thân họ và gia đình trong việc duy trì cuộc sống. Điều đó ảnh hưởng đến khả năng tự đào tạo lại để chuyển đổi nghề nghiệp, trở lại thị trường lao động; con cái họ sẽ khó khăn khi đến trường; sức khoẻ họ sẽ giảm sút do thiếu kinh tế để bồi dưỡng, để chăm sóc y tế… Chính từ đây, thất nghiệp có thể khiến họ đánh mất bản chất tốt của mình, đẩy họ vào những tệ nạn của xã hội, ảnh hưởng đến đất nước.

Thứ ba, thất nghiệp ảnh hưởng đến trật tự xã hội

Thất nghiệp gia tăng làm trật tự xã hội không ổn định, sẽ có sự xuất hiện của bãi cơng, đình cơng, biểu thì địi quyền làm việc,... tăng lên. Từ đây những hiện tượng tiêu cực xã hội cũng phát sinh nhiều lên như trộm cắp, cờ bạc, nghiện hút, mại dâm…; người dân sẽ dần mất niềm tin vào chính phủ, vào Đảng ảnh hưởng đến chính trị của đất nước.

Chính vì như vậy, chính phủ cần đưa ra những chính sách, biện pháp khác nhau để hỗ trợ cả về tinh thần và vật chất cho người thất nghiệp. Từ đây bảo hiểm thất nghiệp được ra đời - là chính sách tối ưu nhất, những quan hệ bảo hiểm và thất nghiệp cần điều chỉnh để phù hợp với nền kinh tế, xã hội của đất nước.

<b>2.1.2. Khái niệm bảo hiểm thất nghiệp</b>

<i><b>Theo Khoản 4 Điều 3 Luật Việc làm 2013 “Bảo hiểm thất nghiệp là chế độ</b></i>

nhằm bù đắp một phần thu nhập của người lao động khi bị mất việc làm, hỗ trợ người lao động học nghề, duy trì việc làm, tìm việc làm trên cơ sở đóng vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp”

Quỹ bảo hiểm thất nghiệp - được hình thành do sự hình thành của các bên tham gia (người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước) nhằm đảm bảo ổn định đời sống cho người lao động và gia đình của họ khi gặp rủi ro về việc làm, tạo điều kiện cho họ tìm việc làm mới trong thị trường lao động.

Với khái niệm trên cho thấy, bảo hiểm thất nghiệp là chế độ nhằm đảm bảo quyền lợi cho người lao động bị thất nghiệp, là sự bù đắp những tổn thất về thu nhập

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

cho người lao động thất nghiệp giúp họ duy trì sinh hoạt trong thời gian mất việc, tạo điều kiện tái tạo việc làm, là một biện pháp mang tính cấp thiết, bảo đảm sự sinh tồn của người mất việc. Đồng thời, giúp người thất nghiệp từ chỗ bị mất thu nhập do thất nghiệp vẫn nhận được tiền trợ cấp thất nghiệp do có tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

<b>2.1.3. Đặc điểm của bảo hiểm thất nghiệp </b>

Bảo hiểm thất nghiệp bảo đảm cho quá trình tái tạo việc làm và đời sống của người thất nghiệp được diễn ra bình thường. Vì vậy, ngồi hỗ trợ về mặt vật chất, bảo hiểm thất nghiệp còn hỗ trợ về mặt tinh thần cho họ. Là một chế độ trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội nên bảo hiểm thất nghiệp cũng có các đặc điểm chung như:

- Về đối tượng:

Chủ thể là người lao động thuộc trường hợp được tham gia đóng bảo hiểm và thân nhân của họ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội.

- Về điều kiện hưởng chế độ:

Phải là người lao động được tham gia đóng bảo hiểm thuộc các trường hợp được hưởng chế độ.

- Về nguồn hình thành quỹ:

Dựa vào sự đóng góp bằng một phần tỷ lệ phần trăm nhất định căn cứ trên mức tiền lương của người tham gia đóng bảo hiểm. Ngồi ra, quỹ bảo hiểm cịn được hình thành từ sự hỗ trợ của Nhà nước, tiền sinh lời của hoạt động đầu tư của quỹ, sự đóng góp của người sử dụng lao động (trừ trường hợp thuộc diện tham gia đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện) và các nguồn thu hợp pháp khác có vai trò hỗ trợ một phần cho người lao động và gia đình người lao động khi họ mất việc làm, giúp họ ổn định cuộc sống và nhanh chóng tìm được việc làm mới.

- Về thu bảo hiểm thất nghiệp:

Thu bảo hiểm thất nghiệp dựa trên mức lương, phụ cấp của người lao động, đồng thời có sự hỗ trợ từ phía ngân sách nhà nước và doanh nghiệp. Tuy nhiên, khác với thu hình thành quỹ lương hưu, thu bảo hiểm thất nghiệp khơng có hình thức tự nguyện nên một số người muốn tham gia bảo hiểm thất nghiệp nhưng nếu không làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

việc ở những cơ sở kinh tế đáp ứng điều kiện tham gia Bảo hiểm thất nghiệp hoặc khơng có hợp đồng lao động thì cũng khơng được hưởng trợ cấp thất nghiệp.

- Về nguồn bảo đảm chi trả:

Chi bảo hiểm thất nghiệp chỉ xuất hiện khi người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bị thất nghiệp. Bảo hiểm xã hội Việt Nam cơ quan thuộc Chính Phủ sẽ chịu trách nhiệm bảo đảm chi trả quyền lợi bảo hiểm cho những trường hợp được hưởng chế độ bảo hiểm.

Với những tiêu chí nêu trên cho thấy, bảo hiểm thất nghiệp là lựa chọn thích hợp, đảm bảo độ tin cậy cho người tham gia, giảm thiểu sự mất cân bằng thu nhập cho người thất nghiệp trong thời gian bị mất việc làm. Tuy nhiên, bên cạnh những đặc điểm chung, bảo hiểm thất nghiệp cũng có những đặc điểm riêng nhất định.

<i>Một là, người nhận trợ cấp trên cơ sở đóng phí bảo hiểm hiểm thất nghiệp. Với</i>

mục đích hỗ trợ người lao động khi bị thất nghiệp, để giải quyết tình trạng thất nghiệp, góp phần cải thiện đời sống của người lao động sau khi mất việc làm, Nhà nước đã ban hành chính sách nhằm giúp người thất nghiệp thốt khỏi khó khăn, ổn định cuộc sống. Tuy nhiên, phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian tham gia bảo hiểm mà người lao động được hưởng các quyền lợi bảo hiểm khác nhau theo nguyên tắc có đóng, có hưởng. Song mức đóng góp chỉ là một tỉ lệ phần trăm rất nhỏ trên mức lương của người lao động và mức hỗ trợ không cao hơn lương tháng họ đang hưởng trong thời gian nhất định chứ không giống như quyền lợi được hưởng nếu tham gia bảo hiểm xã hội. Hơn nữa, trong suốt quá trình tham gia bảo hiểm thất nghiệp mà người lao động không bị mất việc làm thì chẳng được hưởng chế độ gì, coi như họ bị mất tồn bộ số tiền đã đóng góp, cịn nếu họ tham gia bảo hiểm xã hội thì đương nhiên họ sẽ được hưởng quyền lợi do chế độ đó mang lại, nhưng phụ thuộc vào mức đóng và thời gian mà họ đã tham gia.

<i>Hai là, đối tượng tham gia và hưởng bảo hiểm thất nghiệp. Đối tượng được áp</i>

dụng chỉ là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và tham gia vào các quan hệ lao động nhưng do một lý do nào đó mà mất việc làm, tạm thời chưa có việc làm dù đang cố gắng tìm kiếm công việc mới. Cùng xuất phát từ quan hệ lao động, nhưng đối tượng hưởng bảo hiểm thất nghiệp là những người lao động, có khả năng lao động bị chấm dứt quan hệ lao động do khơng có việc làm, hay có việc làm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

nhưng khơng đáp ứng được yêu cầu của người sử dụng lao động và họ luôn sẵn sàng trở lại làm việc. Còn đối tượng của các chế độ bảo hiểm khác là những người lao động vẫn đang tồn tại quan hệ lao động nhưng do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hoặc đã chấm dứt quan hệ lao động như hết tuổi lao động hay chết. Do đó, kể cả có việc làm phù hợp cũng khơng thể chắc chắn ai trong số đó sẵn sàng quay trở lại thị trường lao động. So với các chế độ của bảo hiểm xã hội thì đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp hẹp hơn khá nhiều.

<i>Ba là, trong chế độ bảo hiểm thất nghiệp, bên cạnh việc bù đắp thu nhập bị</i>

nhập bị mất do việc làm cịn có những giải pháp tình thế hữu ích giúp người thất nghiệp cải thiện tình trạng thất nghiệp như hỗ trợ chi phí học nghề, giới thiệu việc làm. Điều này cho thấy, chính sách này khơng chỉ cải thiện điều kiện sống cho người lao động trong lúc mất việc mà còn tạo động lực, khuyến khích người thất nghiệp tìm việc, hạn chế sự gia tăng số lượng lao động thất nghiệp, góp phần phát triển kinh tế đất nước. Như vậy, chính sách này không chỉ bảo đảm quyền lợi vật chất cho người mất việc mà còn hỗ trợ về tinh thần cho họ khi xảy ra sự kiện bảo hiểm Còn ở chính . sách bảo hiểm xã hội chỉ hỗ trợ thu nhập cho người lao động chứ không giúp họ cải thiện cơ hội việc làm cũng như nâng cao trình độ, tay nghề.

<b>2.1.4. Vai trị của bảo hiểm thất nghiệp </b>

Khi người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp thì họ bị mất đi nguồn thu nhập tài chính từ lao động. Đời sống của cá nhân người lao động và gia đình của họ có thể phải chịu những ảnh hưởng nặng nề bởi con người vẫn luôn tồn tại những nhu cầu về ăn, mặc, ở, ni con, khám chữa bệnh, chăm sóc người thân, tích lũy… Vì vậy, một trong những giải pháp quan trọng nhất là hỗ trợ người lao động để tìm cơng việc mới. Tuy nhiên, điều này không phải lúc nào cũng cũng có thể làm được một cách dễ dàng bởi khơng phải lúc nào cũng có thể sắp xếp được cơng việc mới phù hợp với trình độ chun mơn, khả năng của người lao động. Nhà nước có thể sử dụng nhiều chính sách, nhiều biện pháp cả ở tầm vĩ mơ và vi mơ…Có một giải pháp khác để bảo vệ người lao động tránh được những hụt hẫng khi bị mất việc làm là xã hội cần tạo cho họ một khoản thu nhập bù đắp khoản thu nhập bị mất thông qua bảo hiểm thất nghiệp. Đây là một biện pháp được nhiều nước quan tâm vì nó khơng chỉ đảm bảo cuộc sống cho cá nhân người bị thất nghiệp mà cịn góp phần ổn định xã hội.

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

 <i>Vai trò đối với người lao động:</i>

Vai trò đầu tiên của bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động là bù đắp thu nhập cho người lao động khi bị mất việc làm. Với bất kỳ người lao động nào, họ ln muốn tìm cho mình một cơng việc ổn định, phù hợp với trình độ, khả năng của mình, có được nguồn thu nhập tài chính cao nhằm duy trì cuộc sống ở mức cơ bản so với mức sống chung của tồn xã hội. Khi họ khơng may gặp rủi ro và mất việc làm thì bảo hiểm thất nghiệp sẽ chịu trách nhiệm trong việc chi trả trọ cấp thông qua một khoản tiền nhất định giúp người lao động ổn định cuộc sống và tránh rơi vào tình trạng cùng cực, nghèo khó. Khoản trợ cấp hỗ trợ về mặt tài chính này nhằm đảm bảo được sự cân bằng trong cuộc sống của người lao động khi bị thất nghiệp.

Vai trò thứ hai của bảo hiểm thất nghiệp đối với người lao động đó là, bảo hiểm thất nghiệp còn giúp người lao động sớm sớm quay trở lại thị trường lao động và nhanh chóng tìm được việc làm thơng qua các hoạt động tư vấn, giới thiệu hay đào tạo nghề. Bảo hiểm thất nghiệp vừa tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động có cơ hội quay lại thị trường lao động bên cạnh đó cịn khuyến khích, bảo hiểm thất nghiệp kích thích người thất nghiệp tích cực tìm việc làm và sẵn sàng đi làm việc, giúp cho người lao động quay trở lại thị trường lao động với các biện pháp cung cấp thông tin thị trường lao động, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề, tạo việc làm tạm thời. Ngồi ra, người lao động cịn được hưởng nhiều lợi ích khác từ bảo hiểm thất nghiệp như được đóng bảo hiểm y tế trong thời gian bị mất việc hay được bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề để duy trì việc làm cho người lao động. Chính vì thế trong thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp người lao động không những được trợ cấp tài chính mà cịn được cấp thẻ bảo hiểm y tế và được tư vấn, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp với người lao động và thị trường để sớm tìm được việc làm thích hợp. Đây là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc phịng ngừa từ xa tình trạng thất nghiệp có thể xảy ra.

 <i>Vai trị đối với người sử dụng lao động: </i>

Do có bảo hiểm thất nghiệp nên khi thất nghiệp xảy ra với người lao động, người sử dụng lao động không phải tăng thêm chi phí để trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động nhờ đó người sử dụng lao động có thể cân bằng các khoản tài chính khác, góp phần ổn định doanh nghiệp. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp sẽ chi trả trợ cấp thất

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

nghiệp cho người lao động khi họ bị mất việc làm thay cho người sử dụng lao động, thay cho việc người sử dụng lao động chi trợ cấp mất việc làm, thôi việc cho người lao động. Do vậy doanh nghiệp sẽ nhẹ gánh trách nhiệm hơn trong những giai đoạn khi họ gặp khó khăn phải sa thải lao động hoặc cho người lao động tạm nghỉ việc. Hơn nữa, khi người lao động biết rõ nếu thất nghiệp mình sẽ được trợ cấp thất nghiệp, họ sẽ yên tâm làm việc cho doanh nghiệp hơn. Điều này sẽ khuyến khích doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả hơn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp phát triển sản xuất. Có thể thấy đây là một mối quan hệ có lợi cho cả hai bên, vì thế khơng có lý do gì mà người sử dụng lao động khơng tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp. Đây cũng chính là quyền lợi và trách nhiệm của họ. Mặt khác, việc cung cấp các thông tin, tư vấn cho người lao động bị mất việc làm giúp cho người sử dụng lao động, những người có nhu cầu tìm việc làm có nhiều cơ hội gặp nhau hơn. Bảo hiểm thất nghiệp như một cầu nối trong việc tạo lập mối quan hệ giữa người lao động bị thất nghiệp với người sử dụng lao động từ đó đáp ứng được nhu cầu lao động, yêu cầu công việc mà người sử dụng lao động đề ra.

 <i>Vai trò đối với Nhà nước và xã hội: </i>

Khi tình trạng thất nghiệp gia tăng thì đồng nghĩa nền kinh tế của quốc gia đó đang suy thối, nguồn nhân lực bị lãng phí, giá trị sản phẩm và dịch vụ cũng sụt giảm đó cũng chính là ngun nhân gây ra lạm phát, mất cân bằng cơ cấu kinh tế. Việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp góp phần giải quyết tình trạng thất nghiệp, giảm tải các gánh nặng về tài chính cho các vấn đề xã hội và mục tiêu xa hơn là nhằm ổn định cho sự phát triển kinh tế của quốc gia. Nhờ có bảo hiểm thất nghiệp nên gánh nặng ngân sách sẽ giảm hơn khi thất nghiệp xảy ra. Mặt khác, khi có bảo hiểm thất nghiệp, vấn đề căng thẳng xã hội sẽ khơng xảy ra, nhà nước khơng cịn phải lo đối phó với các cuộc biểu tình, khơng phải chi nhiều ngân sách để giải quyết các tệ nạn xã hội, tội phạm do thất nghiệp gây nên. Đối với xã hội, bảo hiểm thất nghiệp là một chính sách an sinh xã hội, góp phần đảm bảo lợi ích của các bên trong q trình thực hiện chính sách, mang tính chất tương trợ, lấy số đơng bù số ít. Khi người lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp đột ngột và khi mất việc làm kéo dài sẽ dễ dẫn đến việc phát sinh các tệ nạn xã hội như cờ bạc, trộm cắp, mại dâm,... Đây là mầm mống gây bất ổn chính trị - xã hội ở bất cứ quốc gia nào. Nhờ có bảo hiểm thất nghiệp mà xã hội đảm bảo thu nhập cho người lao động khi mất việc làm vì vậy, bảo hiểm thất nghiệp cũng có một vai trị

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

không nhỏ trong việc ổn định cuộc sống cũng như góp phần ổn định an ninh trật tự xã hội. Bảo hiểm thất nghiệp được thực hiện tốt sẽ góp phần ổn định xã hội, phát triển và sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng bền vững.

Như vậy có thể thấy bảo hiểm thất nghiệp vừa là cơng cụ góp phần giải quyết thất nghiệp vừa là một chính sách xã hội rất quan trọng. Bảo hiểm thất nghiệp khơng chỉ có ý nghĩa, vai trị với người lao động mà cịn có ý nghĩa với cả người sử dụng lao động và Nhà nước. Tóm lại, bảo hiểm thất nghiệp có vai trị rất lớn khơng chỉ với cá nhân người lao động và doanh nghiệp mà cịn đóng vai trị làm thăng bằng trong nền kinh tế, là liều thuốc làm hạ nhiệt sự căng thẳng xã hội do tình trạng thất nghiệp gây ra là một trong những công cụ để thực hiện chính sách an sinh xã hội của mỗi quốc gia.

<b>2.2. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay2.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp</b>

Đối mặt với tình trạng thất nghiệp, chính phủ đã đưa ra những chính sách và biện pháp khác nhau trong đó chính sách tối ưu nhất là bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp là một bộ phận của bảo hiểm xã hội nhằm bảo bị người lao động trong trường hợp bị mất việc làm. Bởi vậy, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp đa được hình thành, ngày càng phát triển giúp đảm bởi lợi ích cho người lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động được tiếp cận với việc làm mới, ổn định các quan hệ liên quan đến thất nghiệp.

Ở các nước Anh - Mĩ, các nước theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn pháp luật bảo hiểm thất nghiệp khá rộng, gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành, án lệ của tòa án và điều ước quốc tế.

Ở Việt Nam, hệ thống pháp luật bảo hiểm thất nghiệp là các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành cùng với đó là các điều ước quốc tế liên quan mà nước ta là thành viên.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được quy định trong các văn bản như: Hiến pháp, luật Lao động, luật Việc làm, các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định của Chính phủ, Thơng tư,... cùng với đó là các điều ước quốc tế mà Việt

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

Nam đã tham gia giúp điều chỉnh mối quan hệ giữa người thất nghiệp với cơ quan quản lý về bảo hiểm thất nghiệp.

<i>Như vậy, Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp là tổng thể các quy phạm phápluật điều chỉnh mối quan hệ giữa các chủ thể phát sinh trong q trình đóng góp và sửdụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp, chi trả một khoản trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thunhập cho người lao động nghỉ việc, bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp, giảipháp hỗ trợ tìm kiếm việc làm người thất nghiệp trở lại làm việc.</i>

<b>2.2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh quan hệ bảo hiểm thất nghiệp bằng pháp luật </b>

Có thể thấy vấn nạn thất nghiệp ảnh hưởng đến nền kinh tế cũng như chính trị của đất nước rất nhiều, từ đây mà Bảo hiểm thất nghiệp là phương pháp tối ưu nhất, phù hợp với nền kinh tế của mỗi quốc gia. Do đó, cần có sự điều chỉnh các quan hệ bảo hiểm thất nghiệp bằng pháp luật.

<b>Chính sách bảo hiểm thất nghiệp là chỗ dựa cho người lao động. </b>

Bảo hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ thiết thực nhất về mặt tài chính cho người lao động trong lúc mất việc làm giúp họ ổn định được cuộc sống lúc này,

<i><b>điều này được nêu rõ trong Công ước của ILO. Các cơ chế pháp lý trong pháp luật hệ</b></i>

thống các giải pháp: hỗ trợ học nghề, tư vấn, giới thiệu việc làm, ổn định tâm lý giúp họ thích ứng với cơng việc mới. Bảo hiểm thất nghiệp chính là các quy định của pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành nhằm đảm bảo việc xây dựng và sử dụng quỹ bảo hiểm thất nghiệp. Qua đó để hỗ trợ tài chính cho người thất nghiệp và đưa ra những giải pháp giúp họ sớm tìm được việc làm. Quyền có việc làm được coi là quyền

<i><b>hiến định trong pháp luật quốc tế, cụ thể, Điều 23 Tun ngơn tồn thế giới về nhânquyền năm 1948 ghi nhận: “Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc</b></i>

làm…”. Như vậy, quyền được có việc làm, được làm việc, bảo vệ chống thất nghiệp là một trong những quyền cơ bản của con người, nó được ghi nhận từ rất lâu trong quốc tế cũng như được quy định hầu hết ở pháp luật của mỗi quốc gia.

<b>Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp giúp liên kết giữa người sử dụng lao độngvà người lao động.</b>

Ở Việt Nam, quyền có việc làm cũng được ghi nhận và nội luật hóa các tiêu chuẩn quốc tế về quyền con người trong lĩnh vực lao động, đặc biệt là quyền có việc

</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">

<i><b>làm của người lao động trong Hiến pháp và văn bản pháp luật luật lao động như: Điều30 Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hồ có quyền làmviệc…”; Điều 58 Hiến pháp năm 1980: “Cơng dân có quyền có việc làm…”; Hiếnpháp năm 2013: “Cơng dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi</b></i>

làm việc”, “Có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, khơng bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tơn giáo”, “được làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm”. Như vậy, quyền có việc làm là quyền cơ bản và quan trọng của con người trong lĩnh vực lao động được ghi nhận và bảo vệ trong Hiến pháp, pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế. Bảo hiểm thất nghiệp giúp ngăn ngừa sự bất ổn định về kinh tế và xã hội, thay thế một phần thu nhập bị mất mà không phải do lỗi của người lao động, do đó cần có pháp luật để quản lý người thất

<i><b>nghiệp và việc chi trả bảo hiểm thất nghiệp và từ đây Luật việc làm 2013 cũng ra đời. </b></i>

Cũng từ đây mà các nguyên tắc của bảo hiểm thất nghiệp trong pháp luật bảo hiểm thất nghiệp Việt Nam bao gồm như sau:

<i><b>Theo Điều 41 Luật Việc làm 2013, nguyên tắc bảo hiểm thất nghiệp bao gồm</b></i>

05 vấn đề sau: Bảo đảm chia sẻ rủi ro giữa những người tham gia bảo hiểm thất nghiệp; Mức đóng bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở tiền lương của người lao động; Mức hưởng bảo hiểm thất nghiệp được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp; Nguyên tắc việc thực hiện bảo hiểm thất nghiệp phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia; Quỹ bảo hiểm thất nghiệp được quản lý tập trung, thống nhất, công khai, minh bạch, bảo đảm an toàn và được Nhà nước bảo hộ.

Nối liền sau đó là các quy định về đối tượng tham gia

<i><b>Căn cứ theo Điều 43, Điều 44 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định28/2015/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm</b></i>

thất nghiệp, có thể thấy, pháp luật Việt Nam quy định rất rõ ràng về 02 đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp như sau:

 Người lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">

<i><b>Theo Khoản 1 Điều 3, Điều 43 Luật Việc làm 2013 thì người lao động là công</b></i>

dân Việt Nam, phải tham gia bảo hiểm thất nghiệp khi làm việc theo hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc không xác định thời hạn; Hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc xác định thời hạn; Hợp đồng lao động theo mùa vụ hoặc theo một cơng việc nhất định có thời hạn từ đủ 03 tháng đến dưới 12 tháng. Theo quy định này, chỉ những người lao động là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động và có nhu cầu làm việc; giao kết các loại hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc như trên với người sử dụng lao động mới là đối tượng của bảo hiểm thất nghiệp. Do đó, những người lao động là người nước ngồi làm việc tại Việt Nam; người đang hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, giúp việc gia đình; người giao kết hợp đồng lao động dưới 03 tháng không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

<i><b>Ngoài ra, theo quy định tại Điều 11 Nghị định số 28/2015/NĐ-CP quy định chi</b></i>

tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm 2013 về bảo hiểm thất nghiệp thì người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ 14 ngày làm việc trở lên không hưởng tiền lương tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội, người lao động tạm hoãn thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã giao kết theo quy định của pháp luật thì người lao động khơng thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian này.

 Người sử dụng lao động

Cũng như người lao động, pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ngay từ khi mới ban hành cũng giới hạn phạm vi được tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người sử dụng

<i><b>lao động. Trước đây, theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xãhội và Điều 3 Nghị định 127/2008/NĐ-CP thì việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp chỉ</b></i>

áp dụng đối với người sử dụng lao động có sử dụng từ 10 lao động trở lên tại các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân. Nhưng thực tế của thị trường Việt Nam hiện nay cho thấy, người sử dụng lao động có sử dụng dưới 10 lao động còn khá phổ biến, hơn nữa nguy cơ người lao động mất việc làm ở những nơi này lại cao hơn so với các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan có quy mơ sử dụng lao động lớn nên đây là một điểm bất cập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">

Vì vậy, cùng với việc mở rộng đối tượng tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp, Luật Việc làm cũng đề ra những thay đổi về việc tham gia bảo hiểm thất nghiệp của

<i><b>người sử dụng lao động. Theo Điều 43 Luật Việc làm người sử dụng lao động tham</b></i>

gia bảo hiểm thất nghiệp gồm: Cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, đơn vị vũ trang nhân dân; Tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp; Cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động.

Cuối cùng là các quy định để hưởng bảo hiểm thất nghiệp:

<i><b>Theo quy định tại Điều 49 Luật Việc làm 2013 và Điều 11 Nghị định 28/2015/NĐ- CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất</b></i>

nghiệp, điều kiện để người lao động bị thất nghiệp được hưởng trợ cấp thất nghiệp yêu cầu như sau:

- Trong thời hạn 3 tháng kể từ ngày chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động phải nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại trung tâm dịch vụ việc làm.

- Người lao động đang đóng bảo hiểm bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc chấm dứt hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật. Người lao động đang đóng bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là người có tháng liền kề trước thời điểm chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã đóng bảo hiểm thất nghiệp và được tổ chức bảo hiểm xã hội xác nhận.

- Người lao động thất nghiệp phải tham gia đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ thời gian theo quy định của pháp luật.

- Để hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động thất nghiệp phải nộp hồ sơ tại Trung tâm dịch vụ việc làm ở địa phương nơi người lao động muốn nhận trợ cấp thất nghiệp.

- Người lao động chưa tìm được việc làm sau 15 ngày làm việc kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp tới Trung tâm dịch vụ việc làm, trừ các trường hợp quy

<i><b>định tại khoản 4 điều 49 Luật Việc làm 2013.</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">

Bảo hiểm thất nghiệp là cơng cụ bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động chính vì vậy cần phải có pháp luật điều chỉnh để áp dụng một cách hữu hiệu nhất.

<b>2.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp </b>

Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp như:

<b>Chính sách của nhà nước</b>

Nhà nước ra đã có những giải pháp hỗ trợ người thất nghiệp song chưa thực sự giải quyết được những vấn đề đặt ra như:

 Đối với Sở Lao động - Thương binh và Xã hội

- Sở Lao động - Thương binh và Xã hội không báo cáo định kỳ 6 tháng, hằng năm về Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội.

- Công tác tuyên truyền chưa sâu, rộng đến mọi tầng lớp nhân dân, người sử dụng lao động và người lao động.

- Chưa thực hiện thanh tra chuyên đề về Bảo hiểm thất nghiệp mà chỉ lồng ghép với nội dung trong pháp luật lao động.

 Đối với cơ quan bảo hiểm xã hội tỉnh

- Vi phạm về thời gian cấp sổ bảo hiểm xã hội, chốt sổ Bảo hiểm xã hội. - Vi phạm thu Bảo hiểm thất nghiệp không đúng mức quy định.

- Chi trả chế độ Bảo hiểm thất nghiệp không đúng thời gian quy định từ tháng thứ hai trở đi, chi gộp nhiều tháng/lần.

- Không thông báo cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội khi: sau 03 tháng kể từ ngày người lao động hết thời hạn hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng người lao động không đến nhận tiền trợ cấp thất nghiệp.

 Đối với các trung tâm dịch vụ việc làm

Không ghi ngày hẹn trả kết quả; Không ghi ngày và chữ ký của người lao động về thời điểm nhận kết quả giải quyết và tài liệu kèm theo;

<b>Nhận thức của nhà lập pháp</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">

Trong cuộc sống, pháp luật giữ vai trò quan trọng và trong công việc đây là phương tiện pháp lý để xác lập mối quan hệ giữa người sử dụng lao động, người lao động, nhà nước giúp kiểm soát các vấn đề việc làm. Mặc dù vậy, chất lượng này vẫn còn bị phụ thuộc, ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như:

 Đối với đơn vị sử dụng lao động

- Vi phạm về trốn đóng Bảo hiểm thất nghiệp: Tồn bộ lao động không được tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế;

- Vi phạm về chậm đóng bảo hiểm thất nghiệp - Đóng bảo hiểm thất nghiệp khơng đúng mức

- Khơng đóng số tiền bảo hiểm thất nghiệp đã thu hoặc khấu trừ của người lao động.

 Đối với cơ sở đào tạo nghề

- Người được hỗ trợ học nghề không tham gia khóa học hoặc tham gia khơng đầy đủ nhưng cơ sở dạy nghề vẫn làm thủ tục thanh toán chế độ hỗ trợ học nghề cho lao động thất nghiệp. Đây chính là một hành vi trục lợi bảo hiểm thất nghiệp.

 Đối với người lao động

- Người lao động có việc làm mới trong vịng 15 ngày kể từ ngày đăng ký hưởng trợ cấp thất nghiệp nhưng không thông báo mà vẫn đến nhận quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp.

- Người lao động đã có việc làm mới nhưng hàng tháng vẫn đến trung tâm dịch vụ việc làm thơng báo chưa tìm được việc làm để tiếp tục hưởng trợ cấp thất nghiệp. Đây cũng là một hành vi trục lợi Bảo hiểm thất nghiệp.

Do vậy để khắc phục tình trạng này cũng như phát huy hết tiềm lực của hoạt động xây dựng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp thì Nhà nước phải có các cơ chế,biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiểu biết của nhà làm luật.

<b>Sự ràng buộc của các cam kết quốc tế liên quan</b>

Để thúc đẩy nền kinh tế đất nước thì nước ta cần hội nhập với thế giới, thúc đẩy hợp tác, quan hệ hữu nghị phát triển thị trường lao động. Bên cạnh đó để đảm bảo cân bằng lợi ích giữa những người lao động thất nghiệp thì việc xây dựng và ban hành các

</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">

văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề này phải tương thích, phù hợp với các yêu cầu, quy định của quốc tế. Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) do đó một số cơng ước của nước ta sẽ gắn liền với công ước ILO như: Công ước 122 về chính sách việc làm; Cơng ước 111 về phân biệt đối xử trong việc làm và nghề nghiệp,... Từ đây, ta có thể thấy việc xây dựng, ban hành pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta luôn gắn liền với những Điều ước quốc tế mà mình đã tham gia, ký kết.

<b>2.2.4. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp </b>

<i><b>Trên thế giới </b></i>

Vấn đề bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu được ghi nhận trên thế giới trong các văn bản pháp lý của các quốc gia kê từ sau cuộc Đại cách mạng công nghiệp lần thứ 2 vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, khoảng thời gian này là sự bùng nổ của nạn thất nghiệp, sự phân hóa giai cấp, tầng lớp sâu sắc. Năm 1900 và 1910, Na uy và Đan mạch ban hành đạo luật về bảo hiểm thất nghiệp tự nghiệp có sự hỗ trợ về tài chính của Nhà nước. Năm 1911, Vương quốc Anh là quốc gia đầu tiên ban hành đạo luật về bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc và tiếp sau đó là một số nước khác ở Châu u như: Italia, Thụy Điển, Cộng hòa Liên bang Đức,... Sau cuộc tổng khủng hoảng kinh tế trên thế giới năm 1929-1933 một số nước ở Châu u và Bắc Mỹ ban hành các đạo luật về bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp, như ở Mỹ năm 1935, ở Canada năm 1939, ở Cộng hòa Pháp năm 1958.

Sau chiến tranh thế giới thứ 2, đặc biệt là sau khi có cơng ước số 102 năm 1952 của tổ chức Lao động thế giới (ILO) thì một loạt nước trên thế giới đã triển khai bảo hiểm thất nghiệp và và trợ cấp thất nghiệp. Tính đến đến năm 1981, có 30 nước thực hiện bảo hiểm thất nghiệp bắt buộc và 7 nước thực hiện bảo hiểm thất nghiệp tự nguyện, đến năm 1992 những con số trên là 39 và 12 nước. Ở Châu Á, các nước như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc,... đều đã thực hiện bảo hiểm thất nghiệp. Tính đến nay đã có hơn 70 quốc gia thực hiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp. Bảo hiểm thất nghiệp không phải là của riêng một quốc gia nào mà nó cịn được thừa nhận trong cộng đồng quốc tế.

<i><b>Ở Việt Nam </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">

Thất nghiệp là một hiện tượng xã hội. Ở những nơi có người thất nghiệp thường mang lại nhiều ảnh hưởng tiêu cực như: lãng phí nguồn nhân lực, thiếu hụt tài chính mà khơng có nguồn bù đắp dẫn đến tệ nạn xã hội, gây bất ổn về chính trị và rất nhiều hệ lụy khác… Thấy được hậu quat đó nên Chính phủ các nước đã đề ra những biện pháp nhất định để giải quyết tình trạng này. Ở nước ta, trước khi có chế định bảo hiểm thất nghiệp, trong từng giai đoạn, Nhà nước đã ban hành những quy định về trợ cấp thôi việc đối với người lao động bị mất việc làm.

Hội nhập kinh tế quốc tế và nền kinh tế thị trường đang có sự tác động sâu sắc đến nền kinh tế cả nước, đặc biệt là khu vực kinh tế công nghiệp, thương mại mà các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chiếm tỷ trọng tăng trưởng lớn. Tuy nhiên, song song với những tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế, trong giai đoạn hiện nay, ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu sau đại dịch Covid 19 cũng đang đem lại những tác động xấu đối với tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là tình trạng mất việc làm của người lao động. Hằng năm, có khoảng từ 1,1 đến 1,2 triệu người bước vào tuổi lao động, nhưng khả năng thu hút lao động của nền kinh tế lại hạn chế. Không một người lao động nào có thể chắc chắn mình có thể có một cơng việc ổn định cả đời. Việc gia nhập các tổ chức kinh tế, diễn đàn thương mại vừa mang lại cơ hội việc làm cho người lao động, vừa đặt ra những khó khăn khơng nhỏ đối với các cơ quan hữu trách khi giải quyết các vấn đề cơng ăn, việc làm vì tình trạng phá sản, giải thể của các doanh nghiệp có thể sẽ gia tăng do năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam cịn thấp.

Với tình trạng mất việc, thiếu việc làm của người lao động, để đảm bảo an sinh xã hội, đảm bảo đời sống của người lao động bị mất việc làm, các chính sách , quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội là vô cùng cần thiết. Bảo hiểm thất nghiệp nghiệp ra đời góp phần ổn định đời sống và hỗ trợ cho người lao động trong học nghề, tìm kiếm việc làm, sớm đưa người lao động trở lại với công việc, giảm gánh nặng đối với doanh nghiệp, gia đình, bản thân người lao động, Nhà nước và xã hội. Pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp nhằm đảm bảo sự ổn định cho người lao động khi xu hướng di chuyển cơng việc, tình trạng mất việc có thể gia tăng.

Tại Việt Nam, trước đây chúng ta theo trường phái của Anh, Mỹ, Thụy Điển khi quy định bảo hiểm thất nghiệp nằm trong hệ thống bảo hiểm xã hội. Khi đó các

</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">

quan điểm về bảo hiểm xã hội chỉ được đề cập như một chế độ trợ cấp tài chính cho người lao động khi bị mất việc làm, điều này đã bó hẹp bảo hiểm xã hội như là một chế độ bảo hiểm xã hội mà không làm rõ được hết vai trò quan trọng của bảo hiểm thất nghiệp trong thực tế là thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề, giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm cho người lao động.

 Giai đoạn từ 1945 đến năm 1985

<i><b>Ngày 10/10/1945, Bộ lao động đã ban hành Nghị định số 01. Trong đó quy</b></i>

định các xưởng kỹ nghệ, các nhà thương mại muốn sa thải công nhân phải báo trước một tháng và ấn định tiền trợ cấp cho người bị sa thải.

<i><b>Ngày 12/03/1947, Chủ tịch nước đã ban hành Sắc lệnh số 29/SL. Tại Điều 80,Điều 84 của Sắc lệnh quy định công nhân khi bị sa thải hồi sẽ được Người sử dụng</b></i>

lao động trả phụ cấp thâm niên, cứ mỗi năm làm việc được thanh toán 50 đồng, trừ trường hợp tự ý xin thôi ra làm một cơ sở khác hay ra kinh doanh để lợi riêng cho mình hoặc bị thải vì đã phạm một trọng tội về hình luật.

<i><b>Ngày 20/05/1950, Chủ tịch nước ban hành Sắc lệnh số 76/ SL về việc ban hành</b></i>

hành quy chế công chứ.

<i><b>Sau đó, ngày 01/10/1964, Thủ tướng chính phủ ban hành Thông tư số 88/TTg</b></i>

về chế độ trợ cấp thôi việc.

Như vậy trong giai đoạn này, Nhà nước đã đề ra trách nhiệm phải thanh toán trợ cấp đối với người sử dụng lao động trong trường hợp người lao động bị mất việc làm giúp họ giải quyết một phần khó khăn khi thơi việc, tạo điều kiện họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, tiếp cận việc làm mới. Những quy định trong giai đoạn này là cơ sở để Nhà nước ban hành chế độ bảo hiểm thất nghiệp sau này.

 Giai đoạn từ 1986 đến năm 1994

Đây là giai đoạn tổ chức lại nền kinh tế. Từ khi nhà nước thừa nhận nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, thị trường lao động đã có nhiều biến động. Các doanh nghiệp nhà nước cơ cấu lại khiến cho số lượng lớn người lao động bị mất việc hoặc chuyển sang làm việc tại các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Do đó, địi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp đảm bảo quyền lợi cho người mất việc.

</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">

Những quy định trong giai đoạn này phần nào đã trợ giúp những khó khăn của người lao động khi mất việc làm, thậm chí cịn có những ưu tiên trong bố trí việc làm hay đào tạo lại nghề cho người mất việc. Điều này không chỉ hỗ trợ những thiếu hụt tài chính mà cịn giải tỏa tâm lý cho họ, là cơ sở pháp lý quan trọng để xây dựng pháp luật bảo hiểm thất nghiệp.

 Giai đoạn từ 1994 đến năm 2006

Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội việc làm là vấn đề luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, việc chuyển sang cơ chế kinh tế thị trưởng có ảnh hưởng không nhỏ tới cung và cầu lao động. Nền kinh tế mới, năng động đòi hỏi cao về kỹ thuật, trình độ tay nghề, năng lực tổ chức quản lý....trong khi số lượng lao động trong nước tuy đông nhưng lại chưa đáp ứng kịp những địi hỏi đó. Đây chính là ngun nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thất nghiệp. Vì thế, để bảo vệ quyền lợi của người lao động, Nhà nước ta trong giai đoạn này đã ban hành một số chế độ hỗ trợ người lao động bị mất việc làm như sau:

<i><b>- Về chế độ trợ cấp mất việc làm: Theo khoản 1 Điều 17 Bộ luật lao động (có</b></i>

hiệu lực 01/01/1995) quy định về đối tượng nhận trợ cấp mất việc.

<i><b>Sau đó, ngày 02/04/2002, Quốc hội ban hành Luật số 35/2002/QH10 về sửa đổi</b></i>

bổ sung một số điều của Bộ Luật lao động. Để cụ thể hóa chế độ trợ cấp mất việc làm,

<i><b>ngày 18/04/2003, Chính phủ đã ban hành Nghị định 39/2003/NĐ-CP.</b></i>

<i><b>- Về chế độ trợ cấp thôi việc: Bộ luật lao động 2015 ra đời, tại khoản 1 Điều 42</b></i>

đã quy định đối tượng hưởng trợ cấp thôi việc là người lao động làm việc làm việc thường xuyên từ một năm trở lên chấm dứt hợp đồng lao động

- Về chế độ đối với lao động dôi dư do sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước: để sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước có quy mơ thua lỗ kéo dài hoặc khơng cần duy trì sở hữu nhà nước, nhà nước đã có chủ trương giao, bán, khốn kinh doanh, cho th, cổ phần hóa doanh nghiệp.

Như vậy có thể thấy giai đoạn này những lao động làm việc trong khối nhà nước nếu bị mất việc làm sẽ được xem xét, hỗ trợ nhiều hơn so với người lao động bị mất việc trước đây. Điều này thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến đời sống vật chất tinh thần của người mất việc với mong muốn bù đắp những tổn thất về tài chính cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">

lao động dơi dư khi mất việc, đồng thời tạo điều kiện cho họ tìm việc làm mới thơng qua chính sách hỗ trợ đào tạo, giới thiệu việc làm, giúp họ yên tâm, ổn định cuộc sống. Song, Nhà nước cũng cần có những những quy định hỗ trợ tương tự cho cả người lao động ngoài quốc doanh để động viên họ trong lúc mất việc làm.

 Giai đoạn từ 2006 đến nay

Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động mất việc, nhà nước đã có nhiều chính sách song chưa đầy đủ, vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc trong q trình thực hiện. Việc thanh tốn chế độ cho người lao động nghỉ việc lại quy hết vào trách nhiệm của người sử dụng lao động. Do đó, muốn san sẻ bớt gánh nặng chi trả chế độ, hỗ trợ doanh nghiệp, đòi hỏi nhà nước cần phải có những biện pháp, giải pháp hữu hiệu, mang tính tồn diện. Nhằm khắc phục điều đó, ngày 29/6/2006, Quốc Hội đã chính

<i><b>thức thơng qua Luật Bảo hiểm xã hội. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, toàn diện nhất</b></i>

từ trước đến nay được áp dụng cho các đối tượng tham gia bảo hiểm trong đó có chế độ bảo hiểm dành cho người lao động bị mất việc. Như vậy, cùng với sự ra đời của

<i><b>Luật bảo hiểm xã hội đã phần nào giúp người sử dụng lao động san sẻ gánh nặng tài</b></i>

chính mỗi khi doanh nghiệp có người thơi việc. Những quy định đặt ra vừa đảm bảo quyền lợi cho người lao động, vừa ràng buộc trách nhiệm của người sử dụng lao động, của Nhà nước khi gặp trường hợp thất nghiệp.

Sau nhiều năm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp trong thực tiễn và đồng thời cũng nhận được các ý kiến đóng góp khác nhau từ những học giả, nhà nghiên cứu về

<i><b>lĩnh vực thất nghiệp ngày 16/11/2013 Quốc hội đã thơng qua Luật việc làm và có hiệu</b></i>

lực ngày 01/01/2015. Đây là một điều chỉnh mang tính đột phá khi chuyển toàn bộ chế

<i><b>độ bảo hiểm thất nghiệp quy định ở Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 sang Luật việclàm 2013. So với các quy định trước đây về bảo hiểm thất nghiệp, nội dung của Luật</b></i>

cho phép mở rộng đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm hiểm thất nghiệp, bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp , bổ sung chế độ hỗ trợ đào tạo , bồi dưỡng, nâng cao trình độ - bổ sung điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, thay đổi cách tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, giới hạn mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng, bỏ trợ cấp một lần và bảo lưu thời gian đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, mở rộng điều kiện.

Xét cho cùng, thơng qua các giai đoạn hình thành và phát triển của pháp luật về pháp luật bảo hiểm thất nghiệp đều có mục tiêu chung là giải quyết tình trạng thất

</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">

nghiệp của người lao động. Bảo hiểm thất nghiệp không phải là biện pháp giải quyết hậu quả một cách bị động, mà bảo hiểm thất nghiệp có vai trị chủ động trong việc thúc đẩy sự chuyển đổi cơ cấu ngành, nghề , giảm thất nghiệp, giúp người lao động nhanh chóng tìm được việc làm.

<b>2.2.5. Nguồn pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp </b>

Ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các nước theo hệ thống pháp luật Anh -Mỹ, nguồn pháp luật về bảo hiểm thất nghiệp khá rộng. Hệ thống nguồn pháp luật ở các nước này ngoài các văn bản quy phạm do nhà nước ban hành, các án lệ của tòa án và tập quán quốc tế liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp cũng có vai trị quan trọng. Ở các nước theo theo hệ thống pháp luật Châu Âu lục địa, nguồn pháp luật bảo hiểm thất nghiệp trước đây chủ yếu là các văn bản quy phạm do cơ quan có thẩm quyền ban hành. Ở Việt Nam hiện nay, nguồn cơ bản của hệ thống pháp luật bảo hiểm thất nghiệp là các văn bản quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành và các điều ước quốc tế liên quan mà Việt Nam là thành viên. Hiện nay, án lệ về bảo hiểm thất nghiệp đã được bổ sung là một nguồn chính thức ở Việt Nam, tuy nhiên, trong thực tế, chưa có án lệ về bảo hiểm thất nghiệp nào được áp dụng trong quá trình xét xử.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam được xem là một nguồn chính thức, quan trọng nhất bao gồm các quy định trong các văn bản như Hiến pháp, luật Lao động, luật Việc làm, luật Bảo hiểm xã hội cùng các văn bản hướng dẫn, quy định chi tiết liên quan như các Nghị định của Chính phủ, Thông tư của các Bộ

<i><b>trưởng… Trước hết, có thể kể đến Hiến pháp 2013, Bộ Luật Lao động năm 2019 là</b></i>

những văn bản mang tính định hướng cũng như có mối liên quan khá mật thiết với bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, đóng vai trị điều chỉnh trực tiếp các vấn đề bảo hiểm hiểm thất nghiệp phải kể đến các văn bản quy phạm sau đây:

<i><b>- Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) 2014 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội</b></i>

chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 20/11/2014 (thay thế Luật Bảo hiểm xã hội số 71/2006/QH11), có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2016 (riêng quy định tại điểm b khoản 1 và khoản 2 Điều 2 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018)

<i><b>Cùng với các văn bản hướng dẫn chi tiết như: Thông tư 04/2013/TT-BLĐTBXH sửa đổi Thông tư 32/2010/TT-04/2013/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về bảo hiểm thất</b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">

<i><b>nghiệp do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành; Thông tư04/2013/TT-BLĐTBXH sửa đổi Thông tư 32/2010/TT-BLĐTBXH hướng dẫn về bảo</b></i>

hiểm thất nghiệp do Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội ban hành.

<i><b>- Luật việc làm số 38/2013/QH13 do Quốc hội ban hành ngày 16/11/2013.Cụ thể hóa nội dung về bảo hiểm thất nghiệp, Nghị định số 61/2020/NĐ-CPcủa Chính phủ: Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 28/2015/NĐ-CP ngày</b></i>

12 tháng 3 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Việc làm về bảo hiểm thất nghiệp, đồng thời, Ngày 31/3/2021 Thủ tướng Chính phủ

<i><b>ban hành Quyết định số 17/2021/QĐ-TTg về quy định mức hỗ trợ học nghề đối với</b></i>

người lao động tham gia Bảo hiểm thất nghiệp. Có hiệu lực thi hành kể từ ngày

<i><b>15-5-2021 và thay thế Quyết định 77/2014/QĐ-TTg ngày 24-12-2014 Thủ tướng Chính phủcũng ra Quyết định số 77/2014/QĐ-TTg.</b></i>

Các văn bản này điều chỉnh mối quan hệ giữa người lao động thất nghiệp với cơ quan quản lý về bảo hiểm thất nghiệp; giữa người lao động thất nghiệp với người sử dụng lao động có người lao động mất việc và các mối quan hệ khác có liên quan đến bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên, ở Việt Nam, bảo hiểm thất nghiệp được coi là một chế độ trong hệ thống các chế độ của bảo hiểm xã hội, nên các quy phạm pháp luật bảo hiểm hiểm thất nghiệp điều chỉnh các quan hệ về bảo hiểm thất nghiệp cũng có sự tương tự như các quy định pháp luật bảo hiểm xã hội trong quá trình điều chỉnh các quan hệ của bảo hiểm xã hội.

Bên cạnh các văn bản quy phạm do cơ quan thẩm quyền ban hành, điều ước quốc tế tương ứng mà Việt Nam đã tham gia cũng được xem là một nguồn pháp luật

<i><b>quan trọng về bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)</b></i>

được thành lập năm 1919 với ba mục tiêu cơ bản đó là mục tiêu nhân đạo, mục tiêu chính trị, mục tiêu kinh tế. Sau khi trở thành thành viên, tính đến tháng 12/2010, Việt Nam đã phê chuẩn 17 Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 2

<i><b>cơng ước ưu tiên đó là Cơng ước số 81 về Thanh tra lao động trong công nghiệp vàthương mại và Công ước 144 về Sự tham khảo ý kiến ba bên nhằm xúc tiến việc thi</b></i>

hành các quy phạm quốc tế về lao động. Việt Nam là nước ít áp dụng trực tiếp các điều ước quốc tế trong quá trình thực thi các vấn đề liên quan trong thực tế. Cho nên, hoạt động xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật trong nước cho phù hợp và tương thích với

</div>

×