Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (279.5 KB, 55 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
1. Lí do chọn đề tài...1
2. Mục đích nghiên cứu...3
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu...3
4. Nhiệm vụ nghiên cứu...4
5. Giới hạn nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu...4
6. Phương pháp nghiên cứu...4
7. Cấu trúc đề tài...5
8. Những đóng góp của đề tài...5
<b>PHẦN II: NỘI DUNG...7</b>
<b>CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VIỆC VẬN DỤNG LÝ THUYẾT VĂN HÓAXÃ HỘI CỦA L.X.VYGOTSKY VÀO VIỆC THIẾT KẾ MÔI TRƯỜNG HOẠTĐỘNG LÀM QUEN VỚI CHỮ VIẾT CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI...7</b>
1.1. Giới thiệu về L.X. Vygotsky...7
1.2. Lí thuyết văn hóa xã hội của L.X. Vygotsky...7
1.3. Thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi ...7
<b>CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG LÀM QUEN VỚI CHỮVIẾT CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON GLOBAL ECOKIDS,QUẬN GỊ VẤP, TP. HỒ CHÍ MINH...9</b>
2.1. Khái quát về Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gò Vấp, Tp. Hồ Chí Minh...9
2.2. Thực trạng về việc giảng dạy hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, Tp. Hồ Chí Minh...10
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6"><b>QUEN VỚI CHỮ VIẾT CHO TRẺ 5 – 6 TUỔI TẠI TRƯỜNG MẦM NON</b>
<b>GLOBAL ECOKIDS, QUẬN GÒ VẤP, TP. HỒ CHÍ MINH...20</b>
3.1. Nguyên tắc khi vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X. Vygotsky vào thiết kế mơi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 - 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, Tp. Hồ Chí Minh...20
3.2. Một số biện pháp thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết trẻ 5 - 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, Tp. Hồ Chí Minh theo thuyết văn hóa xã hội của L.X. Vygotsky...22
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7"><b>1. Lí do chọn đề tài 1.1.Về mặt lí luận</b>
Giáo dục Mầm non (tiếng Anh là Early Childhood Education) là mắc xích đầu tiên trong hệ thống Giáo dục Quốc dân, là cấp học đặt nền móng có nhiệm vụ hình thành và phát triển nhân cách trẻ, tạo ra thế hệ người Việt Nam có đầy đủ những phẩm chất về sức khỏe, trí tuệ cũng như đạo đức đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Chính vì vậy, giáo dục mầm non giữ vai trò đặc biệt quan trọng bởi đây được coi là “Giai đoạn vàng” để giáo dục những kiến thức, kỹ năng cho trẻ góp phần hình thành nhân cách tốt, là bước đầu xây dựng hành trang để bước lên bậc học mới.
Mục tiêu của Giáo dục Mầm non hiện nay là nuôi dạy chăm sóc và giáo dục trẻ phát triển tồn diện theo năm lĩnh vực: nhận thức, ngôn ngữ, thể chất, thẩm mỹ và tình cảm – xã hội. Trong đó, phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của chương trình Giáo dục Mầm non bởi ngôn ngữ tham gia vào hầu hết mọi hoạt động phát triển của trẻ.
Giáo dục phát triển ngơn ngữ giúp trẻ định hình và phát triển nhận thức, tư duy, đạo đức, nhận thức về bản thân, là phương tiện để trẻ giao tiếp, kết nối, bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc của mình với mọi người trong học tập cũng như vui chơi. Ngơn ngữ góp phần đào tạo các em trở thành con người hoàn thiện.
K. D. Usinxki đã nói: “Tiếng mẹ đẻ là cơ sở của mọi sự phát triển trí tuệ và là kho tàng của mọi tri thức”. (Phát triển ngôn ngữ, Nguyên bản tiếng Nga, NXB Matxcơva, tr3). Ngôn ngữ là cơng cụ của tư duy, là chìa khóa để nhận thức, là vũ khí để chiếm lĩnh
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">kho tàng kiến thức của dân tộc và của nhận loại. Vì vậy, việc giáo dục ngơn ngữ cho trẻ là hết sức quan trọng và phải được băt đầu từ rất sớm, ngay từ khi trẻ mới ra đời.
Sự phát triển ngơn ngữ của trẻ em theo góc nhìn của L.X. Vygotsky xuất phát từ mục đích mà nhìn nhận: “Bản chất sự phát triển ngơn ngữ nhằm mục đích giao tiếp và nhận thức và tất nhiên sự phát triển ngôn ngữ của trẻ không chỉ thuần tuý dựa trên sự phát triển khả năng nhận thức của trẻ”[1]
Vygotsky tin rằng “Ngôn ngữ đại diện cho kho kinh nghiệm được chia sẻ chung, rất cần thiết trong việc kiến tạo sự phát triển nhận thức. Ông tin rằng việc trò chuyện rất cần thiết để làm sáng tỏ các điểm quan trọng, nhưng trò chuyện với người khác còn giúp chúng ta học được nhiều hơn về giao tiếp. Chúng ta có thể học được rất nhiều từ việc quan sát các cuộc đối thoại của trẻ. Nó có thể giúp chúng ta nhận ra trẻ đã biết được gì và điều gì trẻ cịn lẫn lộn. .. Vygotsky đã cho chúng ta thấy tầm quan trọng của việc học như một trải nghiệm mang tính tương tác. Những giáo viên nào muốn khích lệ sự phát triển nhận thức của học trị thì nên khuyến khích các cuộc đối thoại.” [1]
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non chính là phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc viết. Làm quen với chữ viết là hoạt động có vai trị quan trọng trong chương trình chăm sóc giáo dục trẻ mầm non 5 - 6 tuổi, nó khơng phải là một hoạt động độc lập riêng biệt mà nó là một phần, một bộ phận của việc phát triển ngơn ngữ trong chương tình chăm sóc, giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi.
Làm quen với chữ viết không chỉ giúp trẻ nhận biết được các mặt chữ cái để phát âm chính xác khi nói mà cịn tạo cho trẻ hứng thú học tiếng mẹ đẻ, làm tiền đề cho trẻ thích ứng với việc tập đọc, tập viết và làm quen với cách ngồi, cách sử dụng đồ dùng học tập, phát triển các kĩ năng đồng đều trên các tiết học để chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 một cách vững vàng.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>1.2. Về mặt thực tiễn</b>
Bước vào lớp Một là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của một đứa trẻ. Việc chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông là nhiệm vụ của cả gia đình và nhà trường. Đặc biệt, việc chuẩn bị cho trẻ học chữ viết là một trong những lĩnh vực thu hút khơng ít sự quan tâm của các nhà giáo dục và các bậc phụ huynh.
Nắm bắt được đặc điểm tâm lý đó, qua thực tiễn cơng tác tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh tơi nhận thấy hoạt động làm quen với chữ viết luôn được quan tâm và chú trọng đầu tư xây dựng môi trường học tập cho trẻ. Và khi dạy hoạt động làm quen chữ viết cho trẻ 5 tuổi tôi luôn cố gắng thay đổi môi trường giúp trẻ học chữ viết một cách tốt nhất. Tuy nhiên, thực tế nhiều năm qua tôi thấy trẻ thực sự chưa hứng thú lắm, chủ yếu trên tiết học khơ khan và dạy gị ép theo giáo án mẫu. Các trị chơi nhằm mục đích ơn luyện cuối tiết học thường lặp đi, lặp lại nhàm chán, đơn điệu, không phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và lứa tuổi của từng trẻ, cơ chưa tận dụng để luyện tập, nhằm kích thích trẻ hoạt động với chữ viết.
Chính vì hiểu rõ được tầm quan trọng của việc cho trẻ làm quen với chữ viết, nên tơi đã tìm tịi, cập nhật những vấn đề mới trong việc đổi mới môi trường hoạt động cho trẻ làm quen chữ viết theo lí thuyết văn hóa xã hội của L.X Vygotsky để áp dụng dạy trẻ ở lớp có hiệu quả.
<b>Xuất phát từ những lý do trên tôi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài “Vận dụng thuyết</b>
<b>văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quenvới chữ viết 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, Thànhphố Hồ Chí Minh” làm đề tài tiểu luận cho mình với mong muốn đề xuất một số biện</b>
pháp thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết ở Trường Mầm non tôi đang cơng tác.
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10"><b>2. Mục đích nghiên cứu</b>
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thuyết văn hóa xã hội của Lev Semyonovich
<b>Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết 5 – 6 tuổi, đánh</b>
giá thực trạng trong tổ chức hoạt động làm quen chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh. Từ đó, đề xuất các biện pháp làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tuổi thông qua việc vận dụng lí thuyết văn hóa xã hội của L.X. Vygotsky vào thiết kế môi trường hoạt động làm quen chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh nhằm góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng dạy trẻ làm quen chữ viết hiện nay.
<b>3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu3.1.Khách thể nghiên cứu</b>
Môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>3.2.Đối tượng nghiên cứu</b>
Vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>4. Nhiệm vụ nghiên cứu</b>
Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài “Vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh” như sau:
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">- Nghiên cứu cơ sở lí luận về thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng tổ chức các hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh. - Đề xuất các biện pháp vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>5. Giới hạn nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu5.1.Giới hạn nghiên cứu</b>
Đề tài chỉ nghiên cứu lý thuyết Văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky nhằm vận dụng để thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi.
<b>5.2.Phạm vi nghiên cứu</b>
Đề tài nghiên cứu tổ chức môi trường hoạt động làm quen với chữ viết tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>6. Phương pháp nghiên cứu</b>
Nhằm giải quyết các vấn đề đã đặt ra trong đề tài “Vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh” tơi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu thực tiễn sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận - Phương pháp nghiên cứu thực tiễn. - Phương pháp quan sát.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">- Phương pháp điều tra. (Đàm thoại, test)
- Phương pháp chuyên gia (phỏng vấn cá nhân, bảng hỏi). - Phương pháp phân tích và tổng kết kinh nghiệm.
<b>Chương 1: Cơ sở lí luận về việc vận dụng lý thuyết văn hóa xã hội của</b>
L.X.Vygotsky vào việc thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi.
<b>Chương 2: Thực trạng tổ chức hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6</b>
tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gò Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>Chương 3: Biện pháp vận dụng thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vào</b>
việc thiết kế mơi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi tại Trường Mầm Non Global Ecokids, Quận Gị Vấp, TP. Hồ Chí Minh.
<b>8. Những đóng góp của đề tài8.1.Về lí luận</b>
<b>- Làm rõ những nội dung của thuyết văn hóa xã hội của L.X.Vygotsky vận</b>
dụng được vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi trong hoạt động làm quen với chữ viết, dưới cả hai hình thức tổ chức dạy học là các tiết học và các hoạt động ngoài tiết học.
<b>- Kế thừa các nguyên tắc ứng dụng học thuyết này vào giáo dục trẻ em.</b>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13"><b>- Đề xuất biện pháp thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho</b>
trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi.
<b>8.2.Về thực tiễn.</b>
Nghiên cứu thực trạng vấn đề vận dụng lý thuyết Văn hóa xã hội của L.X Vygotsky; kết hợp Trường Mầm non Global Ecokids trong thực hành thiết kế môi trường tổ chức hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ 5 – 6 tuổi theo hướng giải pháp đề xuất.
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><b>1.1. Giới thiệu về L.X. Vygotsky </b>
L.X. Vygotsky tên đầy đủ là Lev Semyonovich Vygotsky (1896 – 1934) sinh ra ở Orsha (Belarus), Nga cùng năm với Piaget. Ơng là nhà tâm lí học – là người tiên phong cho thuyết kiến tạo kiến thức thông qua tương tác xã hội, người ủng hộ ý tưởng rằng tương tác xã hội đóng một vai trò quan trọng trong việc học của trẻ em.
L.X. Vygotsky được coi là một trong những tác giả có ảnh hưởng nhất trong nhiều ngành tâm lý học ngày nay, mặc dù trong thời của ông, ông không được cơng nhận nhiều như Piaget, Skinner hay Pavlov trên tồn thế giới cho đến nhiều thập kỷ sau khi ông qua đời. Điều này được cho là cả do mối quan hệ của ông với Đảng Cộng sản Liên Xô và cái chết sớm của ông.
Chỉ với 38 tuổi đời, gần 1/4 trong số đó dành cho tâm lý học, L.X. Vygotsky đã tạo bước ngoặt, mở ra trang mới cho sự phát triển của tâm lý học nói chung, tâm lý học phát triển nói riêng. Ngày nay, trên thế giới, L.X. Vygotsky không được thể hiện như là một nhân vật của lịch sử, mà như là nhà nghiên cứu đang sống và hoạt động. Cùng với J.Piaget, ông là một trong hai trụ cột của tâm lý học phát triển đương đại, đặc biệt là về
</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">lý luận và phương pháp luận tâm lý học. Những cống hiến trên lĩnh vực này, đã đưa ông lên hàng các nhà tâm lý học – nhà lý luận vĩ đại nhất thế kỉ XX.
Đối với L.X. Vygotsky, sự phát triển nhận thức và xã hội có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Cụ thể, ông tin rằng cách bộ não và quá trình suy nghĩ của trẻ em phát triển liên quan đến tương tác xã hội của chúng, ý tưởng còn được gọi là lý thuyết văn hóa xã hội. Dựa trên ý tưởng này, ơng cho rằng văn hóa đóng một vai trị quan trọng trong việc hình thành và phát triển các khả năng cụ thể, như học tập, trí nhớ, sự chú ý và giải quyết vấn đề. Vygotsky giải thích rằng các cơng cụ dành riêng cho văn hóa (chủ yếu là phong cách học tập) cũng ảnh hưởng đến cách trẻ suy nghĩ về thế giới xung quanh.
Cơng trình nghiên cứu của L.X. Vygotsky đã trở thành nền tảng cho rất nhiều nghiên cứu và học thuyết về phát triển nhận thức trong suốt nhiều thập kỷ, đặc biệt là cơng trình của ơng về Lý thuyết Phát triển Xã hội (Social Development Theory).
<b>1.2.Lí thuyết văn hóa xã hội của L.X. Vygotsky</b>
<b>1.2.1. Ảnh hưởng của văn hóa – xã hội đối với sự phát triển nhận thức</b>
Học thuyết của Vygotsky tập trung nhấn mạnh vai trò cơ bản của sự tương tác xã hội trong sự phát triển nhận thức.
Tiêu điểm của Vygotsky là sự phát triển của trẻ em, giáo dục, tâm lí nghệ thuật và phát triển ngôn ngữ. Tương tự với Piaget, Vygotsky tin rằng trẻ em là những người tích cực xây nên kiến thức và những kĩ năng của chính chúng. Tuy nhiên, trái với Piaget, ông tin rằng sự phát triển của trẻ em là kết quả của sự tương tác giữa đứa trẻ và môi trường xã hội của nó. Ơng cho rằng việc học xảy ra thơng qua tương tác với những người khác trong cộng đồng là: bạn bè, giáo viên và người lớn. Vygotsky cũng tuyên bố rằng văn hóa là yếu tố chính quyết định việc tiếp thu kiến thức.
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">Ơng nói: “Mọi chức năng trong q trình phát triển văn hóa của đứa trẻ đều xuất hiện hai lần: thứ nhất, ở cấp độ xã hội và sau đó, ở cấp độ cá nhân; đầu tiên, giữa con người với nhau (liên tâm lý) và sau đó là bên trong đứa trẻ (nội tâm lý)<small>[CITATION LXV78 \l1033 ]</small>
Vygotsky cho rằng trẻ em sinh ra với những nền tảng cơ bản của nhận thức: trong đó có nhận thức thị giác, trí nhớ, sự chú ý và tốc độ xử lí. Điều này tạo điều kiện cho đứa trẻ phát triển những kĩ năng tư duy cao hơn như giải quyết vấn đề, lập luận, lập kế hoạch và nhớ. Đứa trẻ cịn có một khả năng bẩm sinh để học thông qua chỉ dẫn bởi việc người hướng dẫn giúp đỡ và dạy dỗ. Người hướng dẫn có thể làm mẫu những hành vi hoặc cung cấp những hướng dẫn bằng lời cho trẻ. Vygotsky nhắc đến những điều này như cuộc đối thoại cộng tác/tương tác. Do đó, ơng khuyến khích nhiều hoạt động tương tác hơn để thúc đẩy sự phát triển nhận thức, chẳng hạn như thảo luận hiệu quả, phản hồi mang tính xây dựng và hợp tác với những người khác. Như vậy, những tiêu chuẩn văn hóa của một xã hội bắt đầu ở mức độ bên ngồi, thơng qua kinh nghiệm và việc học gián tiếp, trở thành cái bên trong tư duy.
Vygotsky đã làm thay đổi cách nghĩ của các nhà giáo dục về sự tương tác của trẻ em với những người khác. Cơng trình của ơng cho thấy sự phát triển xã hội và nhận thức luôn song hành và dựa vào nhau, không thể phân tách kinh nghiệm cá nhân và kinh nghiệm xã hội được. Thế giới mà trẻ sống trong đó được định hình bởi gia đình, công đồng, trạng thái kinh tế xã hội, giáo dục và văn hóa. Hiểu biết của các em về thế giới này một phần đến từ những giá trị và niềm tin của những người lớn và các trẻ em khác trong cuộc sống của các em. Trẻ học hỏi từ mỗi người khác trong đời sống hàng ngày. Chúng phát triển kĩ năng ngôn ngữ và thu nhận những khái niệm mới khi trao đổi và lắng nghe người khác.[1]
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17"><b>1.2.2.Phát triển ngôn ngữ và tư duy</b>
Vấn đề tư duy và ngơn ngữ chiếm vị trí trung tâm trong các cơng trình nghiên cứu của L.X. Vygotsky. Nó là sự vận dụng các nguyên tắc phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và quan điểm lý luận của ông vào lĩnh vực cụ thể của tâm lý học. Kết quả là L.X. Vygotsky cũng như tâm lý học Xô viết đã giải quyết được rất nhiều vấn đề trong lĩnh vực này theo quan điểm mới và khoa học triệt để: nguồn gốc của tư duy, trí tuệ và của ngơn ngữ, bản chất xã hội của tư duy ngơn ngữ, vai trị của ngơn ngữ trong tư duy và trí tuệ trẻ em,…[2]
Ngơn ngữ là cơng cụ văn hóa mà Vygotsky coi là trung gian giữa tư duy và học tập. Ơng mơ tả nó như “một công cụ mạnh và bền” trong những tương tác của trẻ em. Đối với Vygotsky, ngơn ngữ đóng vai trò trung tâm trong sự phát triển nhận thức. [3]
Theo L.X. Vygotsky, xét cả phương diện phát triển lứa tuổi cũng như cơ chế chuyển vào trong, quá trình phát triển ngôn ngữ gắn liền với phát triển tư duy, nhận thức của cá nhân. Trong lý thuyết của ông, trẻ em và môi trường xã hội hợp tác với nhau để định hướng nhận thức theo cách thức xã hội quen thuộc. Ông cho rằng: sự nhận thức của con người vừa có tính ngơn ngữ, lại vừa có cơ sở là ngơn ngữ.
Sự hình thành và phát triển tư duy ngôn ngữ của trẻ em diễn ra theo quy luật: Thời kì đầu cả tư duy và ngôn ngữ đều sơ khai và tách rời nhau (trẻ dưới 3 tuổi): tư duy chưa được định hình bởi ngơn ngữ (tư duy chưa có ngơn ngữ) và ngơn ngữ khơng mang nghĩa (trống rỗng), sau đó tư duy và ngôn ngữ kết hợp với nhau (khoảng 3 tuổi) tạo thành thể thống nhất như hai mặt của tờ giấy: tư duy ngơn ngữ, tư duy có vỏ vật chất là ngơn ngữ cịn ngơn ngữ trở nên có nghĩa. Khi điều này xảy ra, những lời độc thoại của những đứa trẻ được nội tâm hóa để trở thành ngơn ngữ bên trong. Sự nội tâm hóa của ngơn ngữ rất quan trọng, vì nó dẫn đến sự phát triển nhận thức.[4]
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">Quá trình chuyển vào trong của ngôn ngữ giáo viên và của trẻ cũng theo quy luật ba bước (giai đoạn): bước đầu ngơn ngữ xã hội, ngơn ngữ giao tiếp ngồi, có tính khách quan mà trẻ dùng để nói chuyện với người khác (điển hình từ lúc trẻ 2 tuổi); bước tiếp theo là ngôn ngữ chuyển tiếp (ngôn ngữ cá nhân), vừa có tính khách quan vừa có tính chủ quan và hướng vào bên trong, có chức năng trí tuệ (đặc trưng cho trẻ 3 tuổi); và cuối cùng là ngơn ngữ nội tâm (tư duy), có tính độc thoại và rút gọn tức là loại ngôn ngữ giảm thiểu âm thanh, đảm nhiệm chức năng tự điều chỉnh và được biến đổi thành ngôn ngữ cá nhân bên trong (điển hình ở trẻ 7 tuổi). Quá trình tương tác bằng ngôn ngữ giữa giáo viên và học sinh thực chất là quá trình học sinh tiếp nhận đối tượng học và chuyển chúng vào trong bằng ngôn ngữ theo các giai đoạn nêu trên.
Trong khi, Piaget cho rằng ở trẻ có loại ngơn ngữ tự ngã trung tâm. Ngôn ngữ tự ngã trung tâm của trẻ là loại ngơn ngữ trẻ tự nói với chính mình, khơng hề quan tâm đến đối tượng giao tiếp. Hay nói cách khác, đây là loại ngơn ngữ có tính duy kỷ (chỉ nói với chính mình, khơng đặt mình vào quan hệ đối thoại).
Ngược lại, Vygotsky phản đối mạnh mẽ kết luận của Piaget. Ông lập luận rằng, trẻ em tự nói với chính mình là để tự điều khiển và điều chỉnh hành vi. Do vậy ngôn ngữ giúp trẻ tư duy về hành vi của mình và lựa chọn các hành động phù hợp. Vygotsky đánh giá ngôn ngữ như nền tảng cho tất cả các quá trình tư duy bậc cao, như điều khiển chú ý, ghi nhớ có chủ định và nhớ lại… Ơng cho rằng loại ngơn ngữ tự ngã nói với chính mình không được gọi là ngôn ngữ tự ngã trung tâm mà được gọi là ngôn ngữ cá nhân. Và ông nhấn mạnh ngôn ngữ cá nhân thúc đẩy cơ bản sự phát triển nhận thức từ bản chất xã hội. Đó là sự khác biệt cơ bản giữa Vygotsky và Piaget. [5]
Ơng đã ghi nhận tầm quan trọng của ngơn ngữ cá nhân. Ơng xem ngơn ngữ cá nhân là điểm chuyển tiếp giữa ngôn ngữ xã hội và ngôn ngữ bên trong. Đó là thời điểm phát triển mà ngôn ngữ và tư duy hợp nhất để tạo thành suy nghĩ có lời. Vì vậy, theo
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">quan điểm của Vygotsky, ngơn ngữ cá nhân là hình thức biểu thị đầu tiên của ngôn ngữ bên trong. Thật vậy, ngơn ngữ cá nhân có nhiều điểm tương đồng (ở cả hình thức lẫn chức năng) với ngơn ngữ bên trong hơn là ngôn ngữ xã hội.
Đối lập với quan điểm của Piaget, ngôn ngữ phụ thuộc vào suy nghĩ để phát triển (có nghĩa tư duy có trước ngôn ngữ). Ngôn ngữ chỉ là một công cụ dùng để phát triển và nâng cao tư duy, tầm quan trọng của phát triển ngôn ngữ thấp hơn phát triển tư duy. Thì Vygotsky lại nhấn mạnh vai trị của ngôn ngữ trong sự phát triển nhận thức. Sự phát triển nhận thức là kết quả của quá trình nội hóa ngơn ngữ.[3]
Vygotsky xem “ngơn ngữ cá nhân” là phương tiện để trẻ lên kế hoạch những hoạt động và chiến lược, đồng thời hỗ trợ sự phát triển của trẻ. Ngôn ngữ cá nhân là năng lực sử dụng ngơn ngữ để tự điều chỉnh hành vi. Vì vậy, ngôn ngữ là yếu tố thúc đẩy cho tư duy/hiểu biết . Vygotsky tin rằng trẻ tham gia vào ngơn ngữ cá nhân càng nhiều thì càng thành thạo về mặt xã hội nhiều hơn so với những trẻ không sử dụng thường xuyên.[4]
Vygotsky coi rằng tất cả các quá trình nhận thức bậc cao đều là kết quả của các sự tương tác xã hội. Lý thuyết này đề cập đến một loạt bài tập mà trẻ không tự giải quyết nhưng có thể thực hiện được với sự giúp đỡ của người lớn hay của bạn bè có kỹ năng cao hơn. Khi chúng tham gia vào các hoạt động và sử dụng ngôn ngữ để đối thoại với những người có kỹ năng cao hơn. Chúng sẽ học tập ngôn ngữ của các đối thoại này, biến chúng thành một phần của ngôn ngữ cá nhân của trẻ và sử dụng ngôn ngữ này để tổ chức nỗ lực cá nhân theo cách thức tương tự.[5]
Thứ hai là “đặc điểm hướng dẫn thích ứng”. Đó là sự thay đổi của những ủng hộ xã hội trong quá trình giảng dạy. Người lớn thay đổi sự giúp đỡ của mình để phù hợp với mức độ phát triển tư duy hiện có của trẻ bằng cách sử dụng các chỉ dẫn, giảng giải trực
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">tiếp... dần dần khả năng của trẻ được nâng cao, hướng dẫn thích ứng này sẽ giảm đi cùng với sự phát triển khả năng thành công của trẻ. [5]
<b>1.2.3.Quan điểm của Vygotsky về mối quan hệ giữa dạy học và sự phát triển</b>
Quan điểm này của ông phản ánh rõ nét nguồn gốc xã hội của các chức năng tâm lý và là một trong những luận điểm có ảnh hưởng lớn đến tâm lý học dạy học.
Không giống với khái niệm của Piaget, cho rằng sự phát triển của trẻ em nhất thiết phải đi trước khả năng học tập. Vygotsky cho rằng học tập là một khía cạnh phổ biến và cần thiết của quá trình phát triển có tổ chức văn hóa, đặc biệt là về chức năng tâm lý của con người. Nói cách khác, học tập xã hội đi trước sự phát triển.[4]
“Học tập có một lịch sử dựa trên việc học kinh nghi-nghiệm-sống-thực, phần lớn được học trước khi đứa trẻ được giáo dục chính thức” [3]
Giữa dạy học và phát triển tâm lí người học có 3 khả năng: dạy học đi sau sự phát triển, dựa vào sự phát triển; dạy học song hành với sự phát triển và dạy học đi trước sự phát triển, kéo theo sự phát triển đi lên. L.X. Vygotsky nhấn mạnh, nếu coi dạy học tách rời sự phát triển tâm lí trẻ em, hoặc coi dạy học đi sau sự phát triển và đi bằng với sự phát triển là một sai lầm vì nó làm hạn chế vai trị của dạy học, hạn chế sự phát triển tâm lí của trẻ em. Dạy học và phát triển phải thường xuyên có quan hệ hữu cơ với nhau và dạy học phải đi trước sự phát triển tâm lí trẻ em để kích thích sự phát triển, để định hướng, dẫn dắt, kéo sự phát triển đi theo mình. [6]
Để dạy học có thể đi trước sự phát triển, dạy học phải là sự hợp tác giữa người dạy với người học. Trong đó giáo viên phải biết thực hiện các thăm dò nhằm phát hiện mức độ hiện tại của người học và tác động vào vùng phát triển gần của học sinh thông qua hoạt động học được tổ chức một cách phù hợp. Dĩ nhiên, không nên đi quá xa so với
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">trình độ tâm lí của trẻ hay lạm dụng một cách thái quá sẽ trở nên nhồi nhét, áp đặt trẻ sẽ đưa tới hậu quả không tốt cho trẻ.[6]
<b>1.2.4.Vùng phát triển gần nhất </b>
<i>1.2.3.1. Người hiểu biết hơn (MKO – More Knowleadgeable Other)</i>
<i>MKO trong lí thuyết của L.X. Vygotsky dịch ra là More Knowleadgeable Other có</i>
<i>nghĩa là “Người có hiểu biết hơn” tức là MKO đề cập đến bất kỳ ai có hiểu biết tốt hơn</i>
hoặc trình độ năng lực cao hơn đứa trẻ đối với một nhiệm vụ, quy trình hoặc khái niệm
<i>cụ thể, nó hoạt động song song với khái niệm ZPD.</i>
L.X. Vygotsky lập luận rằng một đứa trẻ tham gia vào cuộc đối thoại với "người khác hiểu biết hơn" chẳng hạn như bạn bè hoặc người lớn và dần dần, thông qua tương tác xã hội và nhận thức, phát triển khả năng giải quyết vấn đề một cách độc lập và thực hiện một số nhiệm vụ nhất định mà không cần trợ giúp. Theo Vygotsky, một số nhà giáo dục tin rằng vai trò của giáo dục là mang đến cho trẻ em những trải nghiệm nằm trong vùng phát triển gần nhất của chúng, từ đó khuyến khích và thúc đẩy việc học tập cá nhân của chúng như kỹ năng và chiến lược.
<i>1.2.3.2. Vùng phát triển gần nhất (ZPD – The Zone of Proximal Development)</i>
Một trong những khái niệm quan trọng nhất trong lý thuyết của Vygotsky là khái niệm về Vùng phát triển gần nhất, hay còn được viết tắt là ZPD (The Zone of Proximal Development), đây được coi là chìa khóa cho việc học.
L.X. Vygotsky xác định khái niệm này như là khoảng cách giữa mức độ phát triển thực tế được xác định bằng cách trẻ có thể tự tiếp thu, tự giải quyết vấn đề một cách độc
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">lập không cần sự giúp đỡ của người lớn (vùng phát triển hiện tại) và mức độ phát triển tiềm năng được xác định thơng qua việc trẻ có thể giải quyết vấn đề nếu có sự hướng dẫn của người lớn hoặc hợp tác với các bạn đồng trang lứa có năng lực hơn mà nếu tự mình thì nó khơng thể tự thực hiện được (vùng phát triển gần nhất). [CITATION LXV78 \l <small>1033 ]</small>
Ví dụ, một đứa trẻ có thể khơng tự mình cột dây giày và sẽ mất một khoảng thời gian khá lâu để thực hiện được việc đó. Nhưng trẻ có thể thực hiện được nếu có tương tác, hướng dẫn của người lớn. Từ đó, trẻ sẽ phát triển được kỹ năng này và có khả năng thực hiện độc lập vào những lần tiếp theo.
Cứ mỗi “vùng phát triển hiện tại” cho phép đạt tới “vùng phát triển gần nhất” tương ứng. Khi trẻ đã đạt tới tri thức ở vùng phát triển gần nhất, thì vùng phát triển hiện tại ở trình độ cao hơn so với vùng phát triển hiện tại cũ. Như vậy, hai mức độ phát triển trẻ em luôn vận động: Vùng phát triển gần nhất hơm nay thì ngày mai sẽ trở thành trình độ hiện tại và xuất hiện vùng phát triển gần nhất mới.
Việc đưa ra khái niệm “vùng phát triển gần nhất” (ZPD) là công lao to lớn của L.X Vygotsky đối với Tâm lí học và Giáo dục học, tạo cơ sở vững chắc cho dạy học tương tác và dạy học phát triển, các phương hướng tích cực trong lĩnh vực dạy học hiện đại.
<i>1.2.3.3.Giàn giáo (Scaffolding)</i>
Sự trợ giúp của giáo viên hay của bạn đồng lứa có năng lực hơn để cho phép đứa trẻ làm việc trong ZDP được Vygotsky gọi là giàn giáo (Scaffolding). Cũng giống như trong một dự án xây dựng, giàn giáo được dựng lên để hỗ trợ q trình xây dựng, nhưng sau đó được dỡ bỏ khi khơng cịn cần thiết. Hay cha mẹ thường nắm tay trẻ khi chúng
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">tập đi. Đó là giàn giáo. Và khi đứa trẻ đi vững rồi thì ba mẹ khơng cịn đỡ nữa. Đó là bởi vì giàn giáo khơng cịn cần thiết, được gỡ bỏ.
Cũng theo cách đó, người giáo viên và những bạn đồng lứa có thể giúp trẻ “với" tới một khái niệm hoặc một kĩ năng mới bằng cách cung cấp những thông tin hỗ trợ. Khi đứa trẻ đạt được nhiều kiến thức hoặc kỹ năng hơn thì giáo viên nên tăng độ khó của các bài tập theo tỷ lệ để chúng tiếp tục tận dụng lợi thế của vùng phát triển gần.
Để giàn dựng một đứa trẻ đúng cách, giáo viên phải biết được trình độ hiện tại của đứa trẻ sau đó xây dựng từ đó. Giống như một người thợ xây cẩn thận xếp từng hàng gạch khi leo lên giàn giáo, chúng ta phải xây dựng những đứa trẻ dần dần khi chúng ta dựng giàn giáo. Giáo viên phải đưa ra được cho trẻ các gợi ý cần thiết và đúng lúc. Có như vậy sự phát triển tâm lí của trẻ em diễn ra trong mối quan hệ tương tác giữa giáo viên và học sinh. Giáo viên giữ vai trò chủ đạo; học sinh ln giữ vai trị chủ động tích cực trong q trình phát triển. Chỉ có như vậy dạy học mới đạt hiệu quả tối ưu đối với sự phát triển của trẻ em.[6]
Có thể nói nghệ thuật tạo ra các bước đệm gợi mở (kĩ thuật giàn giáo) của người giáo viên là bí quyết thành công trong dạy học tương tác phát triển của L.X. Vygotsky.
<i>1.2.3.4.Sự cộng tác của bạn bè</i>
Lý thuyết của L.X. Vygotsky cũng có đóng góp trong học tập cộng tác, ông tin rằng cho rằng các thành viên trong nhóm cần có các cấp độ kinh nghiệm, khả năng khác nhau, như vậy những bạn tiến bộ hơn có thể giúp những thành viên còn kém thao tác trong vùng ZPD. Ông gợi ý thầy giáo sử dụng các bài tập học tập tập thể (hợp tác) dành cho những trẻ yếu kém hơn, với sự trợ giúp của các bạn đồng lứa có năng lực tốt hơn.
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">Dạy học tương tác giữa người học với người dạy (giáo viên và bạn bè) bao giờ cũng mang lại hiệu quả cao hơn so với việc các em tự mò mẫm đi đến kiến thức.
<b>1.3.Thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi</b>
<b>1.3.1.Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ 5 – 6 tuổi</b>
<i>1.3.1.1. Sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ trong sinh hoạt hàng ngày.</i>
Độ tuổi mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi là giai đoạn cuối cùng của trẻ em ở lứa tuổi “mầm non” – tức là lứa tuổi trước khi đến trường phổ thông. Ở những giai đoạn này, những cấu tạo đặc điểm tâm lí đặc trưng của con người đã hình thành trước đây, đặc biệt là trong độ tuổi mẫu giáo nhỡ vẫn tiếp tục phát triển mạnh.
Một trong những thành tựu to lớn nhất của giáo dục mầm non (tức là giáo dục tiền học đường) là làm cho trẻ sử dụng được một cách thành thạo tiếng mẹ đẻ trong đời sống hằng ngày. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hóa dân tộc, để giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, để tiếp thu khoa học, để bồi bổ tâm hồn,… Ganzalo – một nhà thơ nổi tiếng của Đaghextan đã nói: "Khi chết, người cha để lại cho con cái của mình nhà cửa, ruộng vườn, thanh kiếm và cây đàn pandua. Nhưng một thế hệ khi mất đi thì để lại cho thế hệ tiếp theo tiếng nói. Ai có tiếng nói người ấy sẽ xây dựng nhà mình, sẽ cày được ruộng, đúc được kiếm, lên được dây gàn pandua và gẩy được nó". (Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thị Như Mai, & Đinh Thị Kim Thoa, 2011).
Nhìn chung đứa trẻ trước khi bước vào tuổi học sinh đã có khả năng nắm được ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm đúng sự phát âm của người lớn (tuỳ theo địa phương có giọng nói như thế nào thì trẻ sẽ nói theo nhu vậy), biết dùng ngữ điệu phù hợp với hồn cảnh giao tiếp và đặc biệt là nói đúng hệ thống ngữ pháp phức tạp bao gồm những quy luật ngôn ngữ tinh vi nhất về phương diện cú pháp và về phương diện tu từ,
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">nói năng mạch lạc thoải mái. Tóm lại, trẻ đã thực sự nắm vững tiếng mẹ đẻ. Giống như một người học một thứ tiếng nước ngồi nào đó mà đạt tới trình độ ngang với một em bé 6 tuổi của nước ấy về nói năng, thì có thể khẳng định rằng người đó đã nắm vững thứ tiếng ấy để giao tiếp một cách chủ động.
Cần phải có một cách dạy dỗ đúng đắn để khi "tốt nghiệp" trường mẫu giáo, trẻ đã nắm vững được tiếng mẹ đẻ, nếu khơng chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong những năm tháng học tập ở trường phổ thông và trong bước đường trưởng thành sau này. Để làm việc đó một cách tích cực, ở gia đình cũng như ở lớp mẫu giáo cần phải coi việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những nội dung quan trọng nhất của giáo dục mầm non và nhiệm vụ đó cần phải được thực hiện ngay từ năm đầu tiên cho tới cuối tuổi mẫu giáo, đặc biệt trong thời kỳ phát cảm ngôn ngữ (từ 2 đến 5 tuổi). Tất nhiên cả về sau này nữa trong cuộc đời, mỗi người vẫn tiếp tục rèn luyện tiếng mẹ đẻ, nhưng 6 năm đầu vẫn chiếm vị trí cực kỳ quan trọng.
<i>1.3.1.2.Tiến vào bước ngoặt 6 tuổi</i>
Trong quá trình phát triển của trẻ em trong xã hội hiện đại, các nhà tâm lý học coi thời điểm lúc trẻ tròn 6 tuổi là bước ngoặt quan trọng. Đó là sự chuyển qua một lối sống mới với những điều kiện hoạt động mới, chuyển qua một địa vị mới trong xã hội, chuyển qua những quan hệ mới với người lớn và bạn bè cùng tuổi.
Do đó, các nhà giáo dục cần phải quan tâm, một mặt là để giúp trẻ hoàn thiện những thành tựu phát triển tâm lý trong suốt thời kỳ mẫu giáo, mặt khác là tích cực chuẩn bị cho trẻ có đủ điều kiện để làm quen dần với hoạt động học tập và cuộc sống ở trường phổ thông.
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">Việc chuẩn bị sẵn sàng về mặt tâm lí trẻ đến học tập ở trường phổ thơng là nhiệm vụ quan trọng của giáo dục mầm non làm tiền đề để trẻ thích nghi bước đầu với các điều kiện học tập có hệ thống ở trường phổ thơng. Trình độ phát triển ngơn ngữ được coi là một điều kiện hết sức quan trọng trong việc lĩnh hội các tri thức về khoa học tự nhiên cũng như khoa học xã hội. Bởi vậy ở lứa tuổi mẫu giáo, việc trẻ em sử dụng thông thạo tiếng mẹ đẻ được coi là yêu cầu nghiêm túc. Trước khi đến trường trẻ phải biết nói năng mạch lạc khi giao tiếp với người xung quanh, biết nói năng mạch lạc khi giao tiếp với người xung quanh, biết sử dụng ngôn ngữ như một phương tiện để tư duy, giao tiếp.
<b>1.3.2.Thiết kế môi trường hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi</b>
<i>1.3.2.1.Đặc điểm lĩnh hội ngôn ngữ viết</i>
Viết là một hình thức quan trọng của giao tiếp. Việc nắm được đặc điểm lĩnh hội ngôn ngữ viết của trẻ giúp cho giáo viên xác định nội dung và phương pháp giáo dục thích hợp.
Học viết là một q trình rèn luyện lâu dài. Trẻ chỉ có thể viết được khi có sự phối hợp đồng bộ giữa nhiều bộ phận cơ thể. Các nhà khoa học đã nghiên cứu cơ chế sinh lí của q trình viết như sau: Hình ảnh của chữ viết sẽ được trẻ tiếp thu qua mắt, từ đó chuyển lên trung khu viết ở vỏ não. Khi truyền lên, mắt sơ bộ phân tích hình ảnh chữ viết to hay nhỏ, màu sắc như thế nào, hướng viết các nét ra sao. Ở vỏ não sẽ diễn ra sự phối hợp chặt chẽ giữa hai trung khu nói và viết, phát lệnh cho các cơ và xương tay thì hành. Cơ và xuống của trẻ đang phát triển, có nhiều sụn, do vậy cử động bàn tay của trẻ cịn vụng về, khó khăn Khi viết trẻ dễ bị mỏi, khi cầm bút trẻ có tâm lí sợ bị rơi, khơng chắc, nên cầm chất. Do vậy, lại càng khó di chuyển bút. Tóm lại, viết là hoạt động đặc biệt, phải vai qua 4 - 5 năm rèn luyện mới trở thành kĩ xảo.[7]
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">Việc học viết của trẻ có thể chia thành 4 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Thể hiện sự quan tâm đến hoạt động viết. Xuất hiện nhu cầu viết trong sinh hoạt (thích xem người lớn viết, thích giả bộ viết trong khi chơi,…).
- Giai đoạn 2: Hình thành và xây dựng biểu tượng về chữ cái, chữ viết. Giai đoạn này trẻ phải nắm được hình dạng và kích thước của chữ viết (nhận biết và phân biệt được chữ cái, nhận biết một số chữ quen thuộc…).
- Giai đoạn 3: Giai đoạn tập viết các con chữ. - Giai đoạn 4: Trẻ có thể viết thành thạo chữ viết.
Như vậy, việc dạy trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi làm quen với chữ viết chỉ ở mức độ đơn giản bắt đầu làm việc giúp trẻ làm quen với sách từ rất bé. Ở trẻ bước đầu hình thành ý nghĩa của chữ viết, trẻ bắt đầu quan tâm đến chữ viết, thích học chữ, có nhu cầu thử nghiệm sử dụng ngơn ngữ viết trong quá trình giao tiếp hằng ngày. [7]
<i>1.3.2.2. Khái niệm hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi</i>
Hoạt động làm quen với chữ viết là hoạt động nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái trong bảng chữ cái Tiếng Việt theo mẫu chữ viết in thường và viết thường. Đây là hoạt động cơ bản đầu tiên và quan trọng nhất trong q trình học mơn Tiếng Việt. Hoạt động làm quen chữ viết là hoạt động quan trọng trong quá trình phát triển ngơn ngữ cho trẻ ở bậc học mầm non và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của trẻ vì chỉ khi trẻ nhận biết tốt chữ viết thì mới giúp trẻ phát triển được nhận thức các môn khoa học tự nhiên, xã hội.
<i>Vậy hoạt động làm quen với chữ viết cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi là q trình hoạtđộng tích cực của trẻ dưới sự hướng dẫn của giáo viên để trẻ nhận dạng chữ cái, làmquen với kĩ năng đọc, kĩ năng viết như tô, đồ các nét chữ, sao chép một số kí hiệu, chữ</i>
</div>