Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.83 KB, 13 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
<b>MỤC LỤC </b>
Trang
MỤC LỤC ... 1
A. Khái niệm quốc tịch, đặc điểm mối quan hệ Pháp luật về quốc tịch xác lập giữa cá nhân và quốc gia, xác lập quốc tịch của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước. ... 2
I. Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ ... 4
II. Hưởng quóc tịch theo sự gia nhập ( Naturallisaten) ... 5
III. Hưởng quốc tịch theo sự lụa chọn (optation) ... 6
IV. Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch (Reintegration) ... 7
C. Chấm dứt quốc tịch ... 9
I. Do thôi quốc tịch ... 9
II. Đương nhiên mất quốc tịch ... 9
III. Do bị tước quốc tịch ... 9
D. Những trường hợp ngoại lệ về quốc tịch cá nhân ... 11
I. Người hai quốc tịch ... 11
II. Người không quốc tịch: ... 11
KẾT LUẬN ... 13
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><b>A. Khái niệm quốc tịch, đặc điểm mối quan hệ Pháp luật về quốc tịch xác lập giữa cá nhân và quốc gia, xác lập quốc tịch của cá </b>
<i><b>nhân trong mối quan hệ với nhà nước </b></i>
<b>I. Khái niệm </b>
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý hai chiều, được xác lập giữa cá nhân với một quốc gia nhất định, có nội dung là tổng thể các quyền và nghĩa vụ của người đó và quốc gia mà họ là công dân.
<b>II. Mối quan hệ pháp luật về quốc tịch xác lập giữa cá nhân và quốc gia có đặc điểm </b>
- Tất yếu được xác lập bằng những cách thức khác nhau. Đối với từng cá nhân, đây là mối quan hệ pháp luật tồn tại một cách bền vững, ổn định và ràng buộc người đó với nhà nước mà họ là cơng dân về quyền và nghĩa vụ mang tính hai chiều.
- Đối với mỗi cá nhân, quốc tịch chỉ có ý nghĩa ràng buộc họ với nhà nước mà họ là cơng dân.
- Quốc tịch vừa mang tính quốc tế, vừa là dối tượng điều chỉnh của luật trong nước
<b>III. Xác lập quốc tịch của cá nhân trong mối quan hệ với nhà nước </b>
Trên cơ sở chủ quyền, mỗi quốc gia có những quy định cụ thể về xác lập quốc tịch cho cá nhân là công dân của nước đó.Trong quan hệ pháp luật quốc tịch, quốc gia là chủ thể duy nhất của luật quốc tế có quyền ban cấp quốc tịch cho cá nhân, theo các nguyên tắc và quy định pháp luật của nàh nước đó.Việc quy định cụ thể các điều kiện, trình tự, thủ tục, cách thức hưởng và mất quốc tịch trước hết là công việc nội bộ của từng quốc gia.Song, các quy định về quốc tịch của quốc gia cần phù hợp với nguyên tắc của luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà quốc gia là thành viên.
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">Xác lập mối quan hệ quốc tịch có ý nghĩa pháp lý cực kỳ quan trọng đối với từng cá nhân trong xã hội.Quốc tịch là căn cứ,dấu hiệu nói lên sự quy thuộc của một cá nhân về một nàh nước nhất định.Sự quy thuộc này đối với cá nhân sẽ đồng nghĩa với việc người đó nhận được các quyền lợi mà nhà nước và pháp luật nước này đảm bảo cho họ được thụ hưởng, đồng thời xác định trách nhiệm, nghĩa vụ của nhà nước đó đối với việc bảo vệ quyền lợi cho cá nhân trong mối quan hệ với cộng đồng dân cư của quốc gia mà họ là công dân, cũng như trong quan hệ quốc tế mà người đó tham gia nhân danh chính cá nhân họ.
Về phía nhà nước,xác lập quốc tịch có ý nghĩa thực hiện chủ quyền quốc gia đối với dân cư, bởi về pháp lý,quốc tịch là căn cứ xác định giới hạn thẩm quyền tài phán của một quốc gia trong cac smối quan hệ pháp luật quốc tế.Đằng sau các mối quan hệ giữa một cá nhân với cá nhân của quốc gia khác hoặc giữa một cá nhân với nhà nước khác, chính là quan hệ giữa các nhà nước với nhau.Trong các quan hệ đó, ranh giới của chủ quyền giữa các quốc gia trước hết được xác định căn cứ vào yếu tố quốc tịch.Vì dù theo hình thái kinh tế - xã hội nào thì con người cũng phải gắn với điều kiện phát triển của một quốc gia,một nhà nước cụ thể. Quyền con người của cá nhân cụ thể trong xã hội phải được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện bằng quy định pháp luật và các thiết chế quốc gia.Có như vậy, các chuẩn mực quốc tế đối với quyền lợi của cá nhân con người mới có điều kiện để được thực hiện hóa trong đời sống.
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">
<b> B. Hưởng quốc tịch </b>
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia, mỗi nước quy định bằng pháp luật nước mình những trường hợp được hưởng quốc tịch, cũng như những trường hợp thay đổi và mất quộc tịch. Việc quy định các điều kiện và cách thức hưởng và mất quốc tịch là công việc nội bộ của mỗi nước.Mỗi nước có thể quy định cách thức hưởng quốc tịch khác nhau. Nhìn chung, theo pháp luật về quốc tịch hiện nay của nhiều nước trên thế giới, có những cách thức hưởng quốc tịch phổ biến sau đây:
- Theo sự sinh đẻ:
- Theo sự gia nhập quốc tịch; - Theo sự lựa chọn quốc tịch; - Theo sự phục hồi quốc tịch.
<b>I. Hưởng quốc tịch theo sự sinh đẻ </b>
Đây là cách thức hưởng quốc tịch phổ biến nhất. Một số nước Tây Á và Bắc Âu (
Áo, NaUy...) quy định việc hưởng quốc tịch do sinh đẻ theo nguyên tắc huyết thống (Jus sanguinis). Theo nguyên tắc này, đứa trẻ mới sinh ra có quốc tịch theo cha mẹ chứ khơng phụ thuộc vào nơi sinh.Ví dụ cha mẹ là công dân Áo công tác tại Việt Nam, thì dù đứa trẻ sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam nó vẫn mang quốc tịch Áo.
Một số nước khác như Ac-hen-ti-na, Braxin, Bolivia....lại quy định việc hưởng quốc tịch do sinh đẻ theo nguyên tắc nơi sinh (Jus soli). Theo nguyên tắc này, đứa trẻ sinh ra ở nước nào thì có quốc tịch nước đó, khơng phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ. Ví dụ đứa trẻ sinh ra trên lãnh thổ Braxin thì có quốc tịch Braxin, khơng phụ thuộc vào việc cha mẹ đứa trẻ là công dân Braxin hay công dân của nước khác.
Nguyên tắc “quyền huyết thống” và nguyên tắc “quyền nơi sinh” trái ngược nhau. Do vậy trong thực tiễn quốc tế đã xảy ra nhiều trường hợp một đứa trẻ sinh ra hoặc khơng có quộc tich hoặc có hai quốc tịch.
</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">Để giải quyết những trường hợp này, các nước phải hợp tác với nhau trên cơ sở kí kết các điều ước quốc tế nhằm loại trừ tình trạng khơng qc tịch hoặc hai quốc tịch.
Pháp luật đa số các nước trên thế giới đều quy định việc hưởng quốc tịch do sinh đẻ trên cơ sở kết hợp hai nguyên tắc trên. Chẳng hạn . Luật quóc tịch ngày 8/1/1951 của Ba Lan quy định đứa trẻ được hưởng quốc tịch Ba Lan nếu:
- Cha, mẹ là công dân Ba Lan.
- Một trong hai người là cơng dân Ba Lan cịn người kia không biết là ai hoặc không rõ quốc tịch hay không xác định được quốc tịch.
- Được sinh ra hoặc tìm thấy ở Ba Lan mà không biết cha mẹ là ai hoặc cha mẹ không rõ, không xá đinh được quốc tịch.
<b>II. Hưởng quóc tịch theo sự gia nhập ( Naturallisaten) </b>
Hưởng quóc tịch theo sự gia nhập được hiểu là việc một người được nhận quốc tịch của một nhà nước nhất định do việc xin gia nhập quốc tịch của nhà nước đó. Việc nhập quốc tịch được quyết dịnh bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc trao quốc tịch của nước đó cho một người theo trình tự được pháp luật nước đó quy định.
Pháp luật về quốc tịch của đa số các nước đều cho phép những người chưa có quốc tịch nước nào hoặc những người đã có quốc tịch nhưng muốn xin thay đổi quốc tịch, hoặc thậm chí những người đã có một quốc tịch muốn xin thêm một quốc tịch nữa, có thể gia nhập quốc tịch của nước đó.
Pháp luật của các nước đều quy định một số điều kiện nhất định đối với người xin gia nhập quốc tịch. Thơng thường những điều kiện đó là :Phải đến một độ tuổi nhất định, phải cư trú tại nước xin gia nhập quốc tịch trong một thời gian nhất định ( 5 năm như ở Mỹ, 7 năm ở Anh, 15 năm ở Lúc-xăm-bua...)phải biết tiếng của nước mình xin gia nhập quốc tịch, phải có điều kiện bảo đảm cuộc sống ở nước xin gia nhập quốc tịch.
</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">Ở đây cũng cần nhấn mạnh rằng, việc cho phép một người nào đó gia nhập quốc tịch của một nước ln ln mang tính chất giai cấp sâu sắc và biểu hiện bản chất của nhà nước đó.
Pháp luật về quốc tịch ở các nước tư bản chủ nghĩa thường quy định những điều kiện khắt khe, phức tạp và mập mờ đối với việc nhập quốc tịch của những người mà giai cấp tư sản thống trị không ưa thích. Chẳng hạn, theo đạo luật nhập cư và quốc tịch của Mỹ năm 1952 thì những người muốn gia nhập quốc tịch Mỹ phải có đầy đủ các điều kiện sau:
-Đủ 18 tuổi trở lên;
-Đã sinh sống ở Mỹ 5 năm trở lên; -Biết tiếng anh;
-Không phải là kẻ thù của chế độ hiện hành ở Mỹ; -Không phải là kẻ vô thần;
-Là những người thuộc các chủng tộc châu Âu và châu Phi và có quan hệ đến cơng việc ở Mỹ.
Đặc biệt tính chất phản động của pháp luật Mỹ còn thể hiện ở chỗ, trong đạo luật này( mục 313) quy định cấm tất cả những người cộng sản và những người tiến bộ được hưởng quốc tịch Mỹ theo cách thức xin gia nhập. Đây thực chất là việc chống lại những người dân chủ và tiến bộ, nhằm bảo vệ sự thống trị của giai cấp tư sản.
Pháp luật của tất cả các nước đều quy định cơ quan có thẩm quyền xem xét và giải quyết đơn xin gia nhập quốc tịch.Ở Mỹ là tóa án, An-ba-ni là Bộ tư pháp...Khi giải định cho người nào đó được nhập quốc tịch nước mình, cơ quan có thẩm quyền đều ra một văn bản về việc nhập quốc tịch đó.
<b>III. Hưởng quốc tịch theo sự lụa chọn (optation) </b>
Vấn đề lựa chọ quốc tịch được đặt ra trong trường hợp một bộ phận lãnh thổ của quốc gia này được sát nhập vào quốc gia khác va trong
</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">trường hợp chính phủ hai nước đó thỏa thuận với nhau về ciệc di chuyển các bộ phận dân cư nhất định từ nước này sang nước khác.
Lựa chọn quốc tịch là quyền của một người dân được tự do lựa chonjcho mình một quốc tịch (hoặc giũ nguyên quốc tịch cũ, hoặc là nhận quốc tịch cũ, hoặc nhận quốc tịch của quốc gia khác). Việc lựa chọn quốc tịch cần phải được tiến hành trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện ,phù hợp với nguyên tắc dân tộc tự quyết và các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế hiện đại .
Trong thực tiễn quan hệ quốc tế có nhiều trường hợp chính phủ các nước ký kết với nhau hiệp định trao đổi dân cư nhằm di chuyển các bộ phận dân cư nhất định tù nước này sang nước khác và ngược lại.Việc di cư này được tiến hành chủ yếu với nhưng người cùng dân tộc và trên cơ sở và hồn tồn tự nguyện .ví dụ,Hiệp định 6/6/1945 giữa chính phủ liên xơ và chính phủ lâm thời của mặt trận dân tộc thống nhất Ba Lan đã quy định người Ba Lan và người Do thái có quốc tịch liên xơ nên chuyển về Ba Lan ,người nga ,người Ucraina và người các dân tộc khacscuar liên xô hiện đang cư trú trên lãnh thổ của Ba Lan có quyền rút khỏi quốc tịch Ba Lan la và nên .chuyển về Liên xô. Hiệp định ngày 10/6/1946 giữa Liên xo và Tiệp Khắc về lựa chọn quốc tịch và di dân cũng quy định nguyên tắc tương tự .
Ngoài ra, trên thực tế, việc hồi hương (Repatration)cũng đặt ra việc lựa chọn quốc tịch cho một nhóm người nhất định. Đây là một dạng đặc biệt của hình thức di dân.Hinh thức này đã từng được áp dụng đối với người đức cư trú ở Ba Lan,Tiệp khắc ,Hung ga ri trong những năm sau chiến tranh thế giới thứ hai theo quy định của Hiệp ước pốt đam năm 1945.
<b> IV. Hưởng quốc tịch theo sự phục hồi quốc tịch (Reintegration) </b>
<i><b> Phục hồi quốc tịch là việc khôi phục lại quốc tịch của một người đã </b></i>
mất quốc tịch đó. Vấn đè phục hồi quốc tịch thường được đặt ra đối với
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">những người trước đây ra nước ngoài sinh sống nay trở về tổ quốc và đối với những người mất quốc tịch nước mình do kết hôn hay ly hơn với người nước ngồi .
Ngồi 4 cách thức hưởng quốc tịch phổ biến trên ,trong lịch sử quan hệ quốc tế người ta còn thấy trường hợp thưởng quốc tịch.Trường hợp đầu tiên thưởng quốc tịch trong lịc sử xảy ra vào giai đoạn cách mạng tư sản Pháp thế kỷ XVIII,khi quốc hội Pháp tặng thưởng quốc tịch cho mười tám người nước ngồi ,trong đó có vị anh hùng dân tộc Mỹ Gióc giơ Oa sinh tơn .Cho đến nay vẫn còn những trường hợp thưởng quốc tịch như vậy.
Thưởng quốc tịch là hành vi của cơ quan có thẩm quyền của một nước cơng nhận người nước ngồi có cơng trạng lớn đối với nước mình. Việc thưởng quốc tịch phai được sự đồng ý của đương sự.
</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9"><b>C. Chấm dứt quốc tịch </b>
Nếu như hưởng quốc tịch là cơ sở để xác định mối liên hệ pháp lý giữa một người dân với một nhà nước nhất định thì mất quốc tịch có ý nghĩa là mối liên hệ pháp lý giữa người dân với nhà nước đó bị cắt đứt. Cúng như việc hưởng quốc tịch, vấn đề chấm dứt quốc tịch do luật trong nước quy định. Trong thực tiễn, việc chấm dứt quốc tịch của một người thường xảy ra trong các trường hợp sau:
<b>I. Do thôi quốc tịch </b>
- Quốc tịch của một người mất đi khi họ xin thôi quốc tịch theo ý chí và nguyện vọng cá nhân, để nhập quốc tịch của nước khác.
- Trong trường hợp này, đương sự phải làm đơn thôi quốc tịch gửi lên cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Pháp luật các nước đều quy định những điều kiện chủ yếu để xin thôi quốc tịch như:
+ Đã hoàn thành hoặc được miễn nghĩa vụ quân sự
+ Đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế hoặc các nghĩa vụ tài chính cho quốc gia mà họ xin thôi quốc tịch.
+ Không phải thi hành các phán quyết dân sự
+ Không bị truy tố hình sự trong thời gian xin thơi quốc tịch
- Khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra quyết định cho phép thôi quốc tịch, đương sự sẽ khơng cịn là cơng dân của quốc gia đó nữa.
<b>II. Đương nhiên mất quốc tịch </b>
Pháp luật của nhiều nước quy định những trường hợp nhất định làm mất quốc tịch của cá nhân. Những trường hợp đó có thể là gia nhập quốc tịch nước khac, phục vụ trong quân đội nước ngoài hoặc tham gia vào bộ máy nhà nước của nước khác.
<b>III. Do bị tước quốc tịch </b>
Tước quốc tịch là biện pháp trừng phạt do nhà nước thi hành đối với cơng dân nước mình khi họ khơng cịn xứng đáng với danh hiệu công
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">dân nước mình nữa và thơng thường thì họ phạm những tội có tính chất phản quốc.
Tước quốc tịch là công việc thuộc chủ quyền quốc gia, song việc tước quốc tịch phải phù hợp với nguyên tắc chung của Luật quốc tế hiện đại. Những hành động tước quốc tịch hàng loạt một cách độc đoán dựa theo nguyên tắc các dấu hiệu dân tộc và chủng tộc, dựa trên cơ sở khủng bố những người tiến bộ trái với Luật quốc tế hiện đại.
Ngoài 2 trường hợp nêu trên, quan hệ pháp luật quốc tế giữa cá nhân và nhà nước cũng sẽ chấm dứt khi cá nhân đó chết đi, bởi có quốc tịch là quyền nhân thân khơng thể chuyển dịch cho chủ thể khác. Trường hợp này không giống với trường hợp phải chấm dứt mối quan hệ quốc tịch do trong pháp luật của nhiều quốc gia tồn tại những quy định mang tính chất tự động chấm dứt quốc tịch (đương nhiên mất quốc tịch ) nếu cá nhân tham gia quân đội Quốc gia khác, nếu xin gia nhập quốc tịch nước ngoài.
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11"><b>D. Những trường hợp ngoại lệ về quốc tịch cá nhân I. Người hai quốc tịch </b>
Hai quốc tịch là tình trạng pháp lý của một người cùng lúc là công dân của cả hai quốc gia
Nguyên nhân của tình trạng hai quốc tịch là:
- Do sự quy định khác nhau về vấn đề quốc tịch trong pháp luật các nước.
- Do những thay đổi về điều kiện thực tế của cá nhân. Ví dụ: Người đã có quốc tịch mới mà chưa bỏ quốc tịch cũ.
- Do hưởng quốc tịch mới từ việc kết hơn với người nước ngồi hoặc được làm con ni người nước ngồi
Cộng đồng quốc tế đã soạn thảo và ký kết các điều ước quốc tế hai bên hoặc nhiều bên để ngăn ngừa, hạn chế hoặc loại bỏ những trường hợp hai quốc tịch hoặc nhiều quôc tịch. Theo các điều ứôc quốc tế hữu quan, những người có hai hoặc nhiều quốc tịch có quyền tự do lựa chọn quốc tịch của một trong các nước tham gia điều uớc quốc tế. Trong trường hợp không lựa chọn được quốc tịch thì họ được coi là cơng dân của nước nơi họ cư trú thường xuyên.
<b>II. Người khơng quốc tịch: </b>
Đây là tình trạng pháp lý của một cá nhân khơng có quốc tịch của một nước nào.
Hiện tượng không quốc tịch xuất hiện trong các trường hợp sau: - Có sự xung đột pháp luật của các nước về vấn đề quốc tịch. - Khi một người đã mất quốc tịch cũ mà chưa có quốc tịch mới. - Khi trẻ em được sinh ra trên lãnh thổ của nước áp dụng riêng biệt nguyên tắc: “quyền huyết thống” mà cha mẹ là người khơng có quốc tịch.
Địa vị pháp lý của người khơng có quốc tịch bị hạn chế nhiều so với công dân nước sở tại và nguời có quốc tịch nước ngồi. Họ khơng
</div>