Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (31.91 MB, 131 trang )
<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI <small>KHOA LUẬT</small>
<small>Mã số: 60 38 01 04</small>
HÀ NOI - 2014
</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2"><small>Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của</small>
<small>Luận văn đảm bao tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã</small>
hồn thành tat cả các mơn học và đã thanh toán tat cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
<small>Tôi xin chân thành cảm ơn!</small>
<small>Vũ Thị Phương Lan</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">11. KHÁI NIỆM, ĐẶC DIEM, Ý NGHĨA VA DIEU KIỆN CUA
HOAT ĐỘNG ĐỊNH TOI DANH DOI VOI TOI ĐÁNH BAC...
<small>1.1.1. Khai niệm định tội danh...-- ccscscsscsssscsscssssssscsssssssessssssssseeess</small> 1.1.2. Các đặc điểm của hoạt động định tội danh...--- se.
1.1.4. Điều kiện dam bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc...
1.2.1. Cơ sở pháp ly của việc định tội danh đối với tội đánh bạc...
1.4. KHÁI QUÁT LICH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIEN CUA
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mang tháng Tám năm 1945 đến trước khi
<small>ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm ]985...-. ----5-5c«¿</small>
<small>Trang</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">1.4.2. Giai đoạn từ sau khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 cho đến
<small>trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999... -- 55555 5<<+<+<ss2 38</small>
2.1.1. Những dấu hiệu pháp lý của tội đánh bạc...---cc-++cccccvcccee 46
<small>2.1.2. Hit phat oe ... 51</small>
2.2. ĐỊNH TOI DANH TOI DANH BAC TAI CAP SƠ THÂM VA
2.2.1. Định tội danh tại cấp SƠ thẤ...- 2c +sc2+xSEEEEEEEEEEEEEEEtEEEkrtEEkesrrkerrrked 58 2.2.2. Định tội danh tội đánh bạc tại cấp phúc tha... 61
<small>2.3.1. Phân tích, đánh giá thực tiễn xét xử tội đánh bạc ...--.--- 61</small>
2.3.2. Một số tồn tại, vướng mắc trong xét xử tại cấp sơ thâm ...- 67
bạc trên địa bàn thành phố Hà Nội...-- 2 2 2 22252 s+zxcsee: 93
3.2. MỘT SỐ KIÊN NGHỊ HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CUA
VAN BAN HUGNG DAN AP DUNG THONG NHAT PHAP
3.2.1. Hoàn thiện các quy định của BLHS về tội đánh bạc...---3.2.2. Sửa đôi, bố sung một số quy định cụ thé tại Điều 1 Nghị quyết số
01/2010/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng quy định tại điều 248 Bộ
<small>luật hình Sr...-- --- G555 1 1S 1S SH Sky TH TH HH ng HH ng rưệc</small>
3.3.4. Một số giải pháp khác...---c----+22CE2222eettEEEEEE1122 122211112 ccrrrrrk
trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian
<small>Phan ich hinh phat được áp dung đất và na TƯ</small>
<small>bị cáo bị Tòa án xét xử về tội danh đánh bạc</small>
<small>Tông sô vụ, sô bị cáo đã xét xử về tội đánh</small>
bạc trên tổng số vụ án số bị cáo đưa ra xét xử
<small>trên địa bàn huyện Ba Vì trong thời gian từ</small>
năm 2008 đến 2013
<small>Hình phạtáp dụng tS “—...LƠ</small>
<small>64</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">1. Tính cấp thiết nghiên cứu đề tài
Dinh tội danh (DTD) là một van dé rất quan trọng trong quá trình giải
hợp pháp của tổ chức và công dân. Việc DTD sai sẽ dẫn đến hậu quả rat lớn,
<small>đặc biệt là không đảm bảo được tính có căn cứ của hình phạt được tun, xétxử không đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đây cũng là một nguyên</small>
nhân của tinh trạng oan sai đang ton tại hiện nay.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nước
nhưng nó khơng mang mục đích giải trí thơng thường mà nhằm sát phạt nhau về kinh tế, tác động tiêu cực đến xã hội. Trong những năm gần đây, mặc dù cơng tác phịng chống tội đánh bạc đã thực sự được chú trọng, nhưng thực sự được chú trọng, nhưng thực tế cho thấy tình hình tội đánh bạc diễn ra hết sức
<small>nhau, tài sản là phương tiện thanh tốn việc được thua có giá trị khơng ngừng</small>
tăng lên theo nhịp độ phát triển kinh tế, những thủ đoạn mà các chủ thé sử
rộng, chúng trực tiếp xâm hại đến trật tự cơng cộng, ở bình diện hẹp, chúng
phạm tội và bản thân những người đó. Các con bạc xuất hiện ở tất cả các tầng
quan trọng, then chốt trong bộ máy Nhà nước cũng tham gia tệ nạn này. Thêm
<small>nhũng, bảo kê của một bộ phận không nhỏ của cơ quan lực lượng chức</small>
năng... là những nguyên nhân khiến tệ nạn cờ bạc ngay càng nhức nhối, thách
Tội đánh bạc là tội phạm phô biến, làm ảnh hưởng đến nếp sống văn
<small>minh của nhân dân, làm tha hóa đạo đức của một bộ phận dân cư, gây ra thiệt</small>
Hiện nay tội, tệ nạn đánh bạc xuất hiện ở mọi nơi trên địa bàn Thành phố Hà Nội có xu hướng tăng cao, đã gây ra những ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội và quá trình phát triển kinh tế của địa phương. Thực trạng trên địi hỏi Đảng, Nhà nước phải có biện pháp tăng cường hiệu quả đấu tranh phòng
chống tội phạm đánh bạc, ngăn chặn những thiệt hại mà tội phạm gây ra cho xã hội. Hiện nay tệ nạn đánh bạc được biến tướng theo rất nhiều hình thức
</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">có thé đánh bac, gá bạc, hay là tô chức đánh bạc nên van đề DTD đối với
<small>văn thạc sĩ luật học.</small>
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tội đánh bạc là tội phạm có tính chất phức tạp cao, đã được một số nhà làm luật học đề cập trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam — của trường Dai
<small>học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Ha Nội 1998; Giáo trình Luật hình sự</small>
Sau khi ban Bộ luật hình sự năm 1999 ban hành, tội đánh bạc tiếp tục
<small>Đại học Luật HN, NXB Công an nhân dân, Hà Nội 2000; Giáo trình Luật</small>
hình sự Việt Nam (phần các tội phạm) khoa Luật, Đại học Quốc Gia HN, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội 2002; Bình luận khoa học BLHS năm 1999
<small>NXB Cơng an nhân dân...</small>
cách tồn diện và có hệ thống về việc ĐTD đối với tội đánh bạc. 3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
<small>3.1. Mục đích nghiên cứu</small>
phòng chống tội đánh bạc, nêu ra những giải pháp mang tính hệ thống làm cơ
</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">sở cho hoạt động ĐTD đối với loại tội phạm này, góp phần nâng cao hiệu quả
định tội, xử lý để đề xuất những kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật và
<small>các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự</small>
(BLHS) Việt Nam hiện hành về tội đánh bạc.
thực tiễn địa bàn Thành pho Ha Noi".
<small>3.3. Pham vi nghién cứu</small>
<small>Luan văn nghiên cứu tội đánh bac dưới góc độ pháp lý hình sự va thực</small>
tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn Hà Nội, trong thời gian 05 năm từ năm
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
<small>4.1. Cơ sở lý luận</small>
-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN; những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học, những luận điểm khoa học trong các cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo và các bài viết
<small>trên các tạp chí trong nước.</small>
4.2. Cơ sở thực tiễn
(TAND) Thành phố Hà Nội về tội đánh bạc.
</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12"><small>4.3. Phương pháp nghiên cứu</small>
lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nước pháp qun, về chính sách hình sự, về van đề cai cách tư pháp được thé hiện trong các Nghị quyết Dai hội Dang VII, IX, X và các Nghị quyết số 8-NQ/TW ngày 2/1/2002, Nghị quyết số 49-8-NQ/TW ngày 26/5/2005 về Chiến
Trong q trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
tổng hợp các tri thực khoa học và luận chứng các van dé tương ứng được
<small>nghiên cứu trong luận văn.</small>
5. Những đóng góp mới về khoa học
Đây là cơng trình chun khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt
<small>học của luận văn:</small>
niệm tội đánh bạc và các dau hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của tội phạm này
<small>trong pháp luật hình sự hiện hành.</small>
<small>- Phân tích, đánh giá đúng thực tiễn xét xử tội đánh bạc trên địa bàn</small>
Thành phố Hà Nội, phân tích, làm rõ những hạn chế, tồn tại trong thực tiễn
<small>xét xử tội đánh bạc va nguyên nhân của nó.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Kết quả nghiên cứu và những đề xuất được nêu trong luận văn, có ý
tội đánh bạc và áp dụng các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn xét
xử trên địa bàn Thành phố Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Những giải pháp đề cập trong đề tài luận văn giúp các cơ quan có thâm quyền xem xét, nghiên cứu áp dụng góp phan nâng cao hiệu quả cơng tác dau
<small>tranh phịng ngừa tội phạm đánh bạc.</small>
Luận văn có thể được sử dụng làm tải liệu tham khảo cho cán bộ làm
hình sự, tội phạm học nói riêng và các cán bộ thực tiễn đang công tác tại các
<small>cơ quan bảo vệ pháp luật.</small>
7. Cơ cầu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
Chương 3: Một sô kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của việc định tội danh đối với tội đánh bạc theo Luật
<small>hình sự Việt Nam.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14"><small>Chương 1</small>
MOT SO VAN DE CHUNG
VE ĐỊNH TOI DANH DOI VOI TOI ĐÁNH BAC
<small>1.1.1. Khái niệm định tội danh</small>
Một trong những hoạt động tố tụng quan trọng, xuyên suốt tất cả các
bộ q trình giải quyết vụ án, đó là hoạt động DTD. DTD được các co quan
phúc thâm, thậm trí có thé xảy ra cả trong trường hợp tái thấm, giám đốc thẩm
Trong khoa học luật hình sự Việt Nam hiện nay, có một số nhà khoa
Theo quan điểm của GS. TSKH Lê Cảm: “ĐTD là một quá trình nhận thức lý luận có tính logic, đồng thời là một trong những dạng của hoạt động
được tiến hành bằng cách — trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu thu thập được
<small>hình sự quy định” [3, tr. I [].</small>
sau: “DTD là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chỉnh xác
Về khái niệm này, TS Dương Tuyết Mién cho rang: “DTD là hoạt động thực tiễn của các cơ quan tiễn hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát,
tên gọi cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện". [21, tr. 9]
của tội nào trong số các tội phạm được quy định trong BLHS” và “DTD là
thực hiện. Nó đồng thời cũng là một trong những hình thức hoạt động về mặt pháp lý, thé hiện sự đánh giá về mặt pháp lý đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội đang được kiểm tra, xác định trong mỗi tương quan với các quy phạm
<small>pháp luật hình sự”. [33, tr.7 — 8]</small>
Nhìn chung trong các khái niệm về DTD nêu trên, mặc dù các tác giả
yếu tố cần thiết của hoạt động ĐTD, đó là: yếu tố về chủ thê của hoạt động
<small>pháp ly cua DTD. Bên cạnh việc đưa ra khái nệm DTD, các tác gia nêu trên</small>
<small>nao đó có giá trị pháp ly được pháp luật đảm bảo thi hành án (mang tính</small>
<small>khơng phát sinh tính pháp lý.</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16"><small>Theo GS.TSKH Lê Cảm, có hai hình thức ĐTD: ĐTD chính thức và</small>
ĐTD khơng chính thức. Trong đó, ĐTD chính thức “là sự đánh giá về mặt nhà nước tính chất pháp ly hình sự của một hành vi phạm tội cụ thể do các
hành vi phạm tội cụ thể” [5, tr.12-13]. Quan điểm của TS. Lê Văn Đệ và TS
DTD như trên, đó là đều thừa nhận có hai hình thức DTD với những đặc điềm
- Một là DTD chính thức: Do các cơ quan tiến hành tố tụng và một số
<small>thức nay có giá trị pháp lý và được bảo đảm thực hiện.</small>
<small>- Hai là ĐTD khơng chính thức: Do các luật gia, luật sư, cán bộ nghiên</small>
cứu khoa học, cơ quan, to chức, báo chí... thực hiện, nhăm nêu lên những
có giá trị pháp ly dé giải quyết vụ án.
DTD riêng, mang ban sắc của mình. Trong đó, khái niệm DTD của TS. Lê
tiễn, bước đầu tiên của ĐTD là xác định xem có tội phạm xảy ra hay khơng,
phạm đó tên là gì, được quy định tại điều nào của BLHS.
Còn khái niệm DTD của TS Dương Tuyết Miên, khái niệm này đã phản ánh cụ thé hơn, sát với thực tiễn hơn và đã chỉ ra được chủ thé của hoạt động
</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">DTD là các co quan tiễn hành tố tụng. Điểm đáng lưu ý trong khái niệm DTD
tội hay khơng” (bước định tội) và sau đó “ nếu phạm tội thì đó là tội gì” (bước
<small>DTD). Tuy nhiên, mặc dù bà đã thừa nhận có hai hình thức DTD là: DTDchính thức và DTD khơng chính thức, nhưng trong khái niệm của bà chỉ mới</small>
luật gia, luật sư, cán bộ nghiên cứu khoa học, cơ quan, tổ chức, báo chí...
ĐTD, PGS. TS Trịnh Quốc Toản đã nêu ra được những vấn đề mang tính bản
<small>niệm DTD nay.</small>
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, chúng tôi thấy cần đưa ra một
<small>khái nệm DTD bao qt được cả hai dạng: chính thức và khơng chính thức,</small>
rồi sau đó đưa ra một khái niệm riêng cho dang DTD chính thức nhằm phân
có thé khái niệm DTD chung như sau: “DTD là hoạt động nghiên cứu, phân
cứ thu thập được do các cơ quan, tô chức, cá nhân thực hiện, nhằm xác định
Về khái niệm DTD theo dạng chính thức, có thể xây dựng như sau:
<small>10</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">người tiễn hành tố tụng và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy định
<small>và “ đặt tên” cho một hành vi phạm tội.</small>
chính thức do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Chính vì vậy, những van đề liên quan đến khái niệm DTD đều được hiểu là tác giả dé cập đến dạng
<small>“PTD chính thức”.</small>
Khái niệm DTD nêu trên chỉ là việc DTD trong hoạt động tố tụng nói
<small>chung, mang ý nghĩa khoa học áp dụng cho tồn bộ các loại tội phạm. Cịn</small>
đánh bạc, các cơ quan tiến hành tố tụng (hoặc cơ quan có thâm quyền theo quy định của BLTTHS) phân tích, đánh giá nhằm xác định hành vi phạm tội
<small>tụng theo quy định của pháp luật.</small>
Trong BLHS năm 1999, tại Điều 248 có tên gọi là “ Tội đánh bạc”.
niệm về việc DTD đối với tội đánh bạc như sau: “ DTD tội đánh bạc là hoạt
xem xét đánh giá, phân tích một hành vi phạm tội có thỏa mãn những dau hiệu cua tội đánh bac hay khơng, nếu đúng thì nó thuộc điểm, khoản nào của Điều 248 BLHS”.
<small>11</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">bởi cơ quan tiễn hành tô tụng (bao gồm co quan được giao nhiệm vụ tiến hành
hình sự (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thâm phán).
tra (bao gồm cả cơ quan được giao một số hoạt động điều tra được quy định trong tơ chức điều tra hình sự) thực hiện.
+ Trong giai đoạn này việc DTD được tiến hành từ khi phát sinh các
xun xảy ra tệ nạn đánh bạc gây mất trật tự công cộng, an ninh địa phương, gây nhức nhối trong quần chúng nhân dân, nên đã có rất nhiều vụ án đánh bạc
khi phát hiện hoặc nhận được tổ giác của công dân phải báo ngay tin về tội
<small>* Tin báo trên các phương tiện thơng tin đại chúng: Khi có tin báo trên</small>
các phương tiện thơng tin đại chúng như báo dai... thì các co quan có thâm quyền phải tiến hành thu thập,xác minh xem xét tin báo đó nếu thấy có dau hiệu của hành vi đánh bạc thì ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
<small>* Người phạm tội tự thú: Đây là trường hợp chưa bị phát hiện nhưngngười phạm tội đã chu động ra trình báo với cơ quan có thâm quyền vê hành</small>
<small>12</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">vi của mình. Trên cơ sở việc tự thú, cơ quan có thẩm quyền có căn cứ xác
tố hình sự. Đối với hành vi đánh bạc thì trường hợp người phạm tội tự thú là
Việc DTD cũng được tiến hành trong các trường hợp: Dinh chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thay đơi tội danh trong quá trình điều tra, phục hồi điều tra, khởi tố bị can, kết luận điều tra. Việc DTD ở giai đoạn này là tiền đề cơ sở
cho hoạt động DTD ở giai đoạn truy tô và xét xử.
+ DTD trong giai đoạn truy tố: DTD ở giai đoạn này do Viện kiểm sát
giai đoạn xét xử va là cơ sở cho việc DTD lại ở giai đoạn điều tra néu vụ án bi trả hồ sơ đề điều tra bố xung.
+ ĐTD ở gia đoạn xét xử: ĐTD ở giai đoạn này do Tòa án quyết định.
Việc DTD được tiễn hành trong các trường hợp: Xét xử vụ án, đình chỉ vụ an, trả hồ sơ vụ án dé điều tra bố xung.
Việc DTD ở giai đoạn nay là cơ sở cho việc kết luận vụ án hoặc là cơ
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Pháp luật tố tụng hình sự (luật về hình thức) và pháp luật hình sự (luật về nội dung) đều là những căn cứ pháp lý để ĐTD đối với tội đánh bạc.
Việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự có thể xem là hình thức pháp lý
tang phải thé hiện một cách khách quan, chính xác hay việc xử lý vật chứng,
<small>13</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">phương tiện phạm tội (quân bài, tiền, ...) phải rõ ràng. Hay việc ra các quyết
áp dụng các biện pháp ngăn chặn giam giữ đối với đối tượng thuộc tội này
Việc áp dụng LHS là nội dung pháp ly của hoạt động DTD. DTD đối với tội đánh bạc. Vì pháp luật hình sự quy định cụ thể tội danh của từng tội phạm cụ thể với các dấu hiệu cơ bản của tội TP đang được sử dụng dé DTD.
là kết luận hành vi đánh bạc có xảy ra không? AI là người phạm tội đánh bạc
<small>và buộc họ phải chịu một hành vi tương xứng với hành vi và tội phạm và họ</small>
đã thực hiện. Hình thức kết luận đó về mặt pháp lý phải được thực hiện bằng văn ban áp dụng pháp luật phù hợp với từng giai đoạn tô tụng và thâm quyền
giải quyết vụ án đồng thời phải phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Các hình thức văn bản đối với ĐTD tội đánh bạc:
<small>+ Quyết định khởi tô vụ án, quyết định khởi tổ bị can, quyết định áp</small>
dụng hoặc thay đổi biện pháp ngăn chặn (giam giữ, xử lý vật chứng..). kết
Từ nội dung khái niệm về DTD của tội đánh bạc, chúng ta có thể nêu lên những đặc điểm cơ bản của việc ĐTD đối với loại tội nay.
Thứ nhất: Xác định xem các dau hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội
<small>xã hội cụ thê đã xây ra.</small>
<small>14</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">Thứ hai, định tôi danh tội đánh tội đánh bạc là hoạt động thực tiễn pháp
lý của các cơ quan tư pháp hình sự - các cơ quan Điều tra, truy tố, xét xử dé
giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của
<small>hoặc DTD sai.</small>
hóa trách nhiệm hình sự và cá thé hóa hình phạt một cách cơng minh và có
<small>căn cứ.</small>
DTD đúng sẽ hé trợ cho việc thực hiện một loạt các nguyên tắc tiễn bộ
nhiệm do lỗi, trách nhiệm do cá nhân, bình đăng trước pháp luật hình sự,
ĐTD đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính xác các quy
<small>dân trong lĩnh vực tư pháp hình sự.</small>
<small>tiêu cực như: không đảm bảo được tính cơng minh có căn cứ đúng pháp luật,</small>
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vơ tội, bỏ lọt người tội phạm tội, xâm phạm thô bạo danh dự nhân phẩm các quyền tự do dân chủ của công dân là giá trị xã hội cao quý nhất được thừa nhận trong Nhà nước.
ĐTD sai làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế
<small>15</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">Đối với tội đánh bạc là hành một trong những tệ nạn xã hội làm cho nhiều người mất nhà cửa, phát sinh mâu thuẫn dẫn đến gia đình tan nát và
<small>đánh bạc cịn được xem là một trong những nguyên nhân phát sinh tệ nạn xãhội khác và tội phạm. Chính vì vậy, bên cạnh việc xử lý hành chính pháp luật</small>
<small>con quy định đánh bạc là tội phạm và những người vi phạm dap ứng được các</small>
yếu tố cấu thành tội phạm sẽ bị áp dụng chế tài nghiêm khắc nhất là hình phạt.
<small>Tuy nhiên do sự đa dạng của các hình thức đánh bạc nên việc xác định hành</small>
vi nào cần phải xử lý hình sự khơng phải là việc đơn giản. Trong khoảng thời gian ngắn từ năm 2003 đến năm 2010, Hội đồng Tham phán Tòa án nhân dân
01/2006/NQ — HĐTP ngày 12/5/2006; Nghị quyết số 01/2010/NQ — HĐTP
cảnh sát còn ban hành nhiều văn bản hướng dan dé áp dụng cho phủ hợp với thực tế. Tuy vậy, hiện nay, việc điều tra, truy tố, xét xử tội đánh bạc dựa vào quy định tại Điều 248 BLHS và Nghị quyết số 01/2010/NQ-HĐTP ngày
số quy định tại Điều 248, Điều 249 của BLHS còn nhiều bất cập trong việc
định tiền hoặc hiện vật dùng dé đánh bạc, xác định số tiền hoặc giá trị hiện vật
Điều đó có thé thay được ý nghĩa của việc DTD trong công tác dau tranh phòng ngừa riêng đối với loại tội này cũng như trong cơng tác phịng
<small>ngừa chung các loại tội phạm khác.</small>
1.1.4. Điều kiện đảm bảo cho việc định tội danh đối với tội đánh bạc
<small>16</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">môn của người ĐTD là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu đảm
gốc mà người DTD phải có năng lực chun mơn sẽ đảm bảo cho người DTD
nghiệp của mình. Để có năng lực chun mơn vững vàng, trước hết người ĐTD cần phải là người được đảo tại về cơ bản (phải có băng đại học Luật
<small>chun mơn, thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật mới, chịu khó học hỏi</small>
Ở tội Đánh bạc có tính đa dạng, các hình thức biểu hiện của hành vi đánh bạc
liêng, sâm, chắn, cá độ, bán độ,... Điển hình vừa qua Cơng an tỉnh Ninh Bình khởi tố 2 cầu thủ là Trần Mạnh Dũng và Nguyễn Mạnh Dũng đã có hành vi cá
<small>Như vậy, chỉ với khả năng chuyên môn vững vàng của mình, người</small>
ĐTD mới có điều kiện cân nhắc, đánh giá tồn bộ các tình tiết vụ án thơng
BLHS để từ đó xác định hành vi đó phạm tội gì tương ứng với điều luật nào của BLHS. Năng lực chuyên môn là yếu tố ảnh hưởng rat lớn đến việc DTD.
khơng có chun mơn vững vàng thì khó có thể làm tốt cơng tác của mình
nghiệp, họ khó có thể là người độc lập, có chính kiến riêng trong hoạt động
<small>17</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 25</span><div class="page_container" data-page="25">nghề nghiệp của mình. Và như chúng ta đã biết DTD là hoạt tư duy có tính
Người DTD phải biết vận dụng pháp luật hình sự một cách đúng đắn, nhưng
hội nước ta biến đôi không ngừng dẫn tới các văn bản pháp luật cũng thường
giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ và của chủ đề, chủ cá độ dùng đánh
định số tiền hoặc giá trị hiện vật của người chơi đề, cá độ dùng đánh bạc:
tiền mà họ dùng đánh bạc là tổng số tiền mà họ đã bỏ ra dé mua số dé, cá độ
Việc người DTD cập nhật văn bản pháp luật thường xuyên theo những lần
tội của hành vi từ đó giúp cho việc ĐTD được đúng đắn. Chỉ trên cơ sở có kiến thức chun mơn vững vàng, độc lập,sáng tạo trong hoạt động nghề nghiệp, người DTD mới có thé độc lập trong quan điểm và dám bảo vệ quan điểm của minh, không bị chi phối bởi những quan điểm của cấp trên hay của
<small>18</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 26</span><div class="page_container" data-page="26">đồng nghiệp. Đồng thời ý thức cầu thì, ham học hỏi, sự vươn lên trong hoạt
môn của người ĐTD. Riêng với đội ngũ Hội thâm nhân dân cần thiết phải lựa
luật như giáo viên dạy Luật, Cán bộ Điều tra đã về hưu..
Thứ hai: Đạo đức nghề nghiệp của người ĐTD: Có thê nói, đây là một trong những điều kiện quan trọng hang đâu đảm bảo cho việc DTD được
nghiệp là điều kiện đủ. Hai điều kiện này bổ sung cho nhau, hỗ trợ nhau giúp cho người DTD có thé DTD đúng. Trên cơ sở năng lực chuyên môn vững
trong hoạt động nghề nghiệp, là người chiến sỹ kiên cường, dũng cảm trên
<small>hay khơng có tội. Người DTD phải là người có bản lĩnh, dũng cảm, thực sự là</small>
người chiến sỹ tiên phong trong mặt trận chống tiêu cực bảo vệ công băng xã
dạng đủ mọi thành phần xã hội từ cán bộ có vi trí chức vụ cao, những người
<small>đứng trong hàng ngũ Đảng thuộc cơ quan Nhà nước, Doanh nghiệp nên việc</small>
san sang bỏ rất nhiều tiền để hối lộ CQ DT nhằm thốt tội, có những vụ án đánh bạc lên đến vài chục tỷ đồng thậm chí hơn thì địi hỏi người DTD phải có một lập trường vững vàng, có lương tâm nghề nghiệp, có thái độ làm việc khách quan. Hay tội Đánh bạc thường bắt quả tang, số tiền trên chiếu bạc sẽ
<small>tiên đánh bạc của các con bạc lớn hơn rât nhiêu so với mức đủ đê xử lý hình</small>
<small>19</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 27</span><div class="page_container" data-page="27">sự thì cán bộ điều tra bỏ ngoài biên bản quả tang thu giữ tang vật chi dé dừng
truy tố ở điều khoản thấp nhất mà đáng lẽ ra phải ở điều khoản với mức hình
bảo cho việc ĐTD nhất là đối với tội Đánh bạc. Hơn nữa, thái độ bao che cần phải được loại bỏ trong quá trình DTD trong q trình xét xử. Có một thực tế trong quá trình xét xử tội Đánh bạc, do nhận thức của con bạc cho rằng đây là
<small>loại tội ít nghiêm trọng, xảy ra là bình thường nên các bị cáo đứng trước vành</small>
móng ngựa có thái độ rất coi thường, thậm chí cợt nhả, vì biết trước có sự ưu
<small>quan trọng là người ĐTD phải có thái độ đúng mực, nghiêm túc trong mọihoàn cảnh, và q trình xác định một hành vi có phạm tội khơng tội đó là tội</small>
gì phải đúng theo quy định của Pháp luật. Có như vậy mới đủ sức thuyết phục, mang tính răn đe, giúp cho người phạm tội thấy rõ sự sai trái của minh từ đó tự giác chấp hành bản án, chấp hành pháp luật. Đồng thời tăng cường cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm nhất là loại tội Đánh bạc đang có
đạo đức nghề nghiệp là những nhân tố vô cùng quan trọng để đảm bảo cho
kiện tốt dé người DTD phát huy được năng lực chun mơn, đạo đức nghề nghiệp của mình. Chỉ trên cơ sở hệ thống pháp luật mà trước hết là hệ thống pháp luật hình sự hồn chỉnh, người tiến hành DTD mới có điều kiện phát huy được khả năng làm việc của mình. Khó có thể nó đến sự hiệu quả thực sự trong hoạt động DTD khi mà pháp luật nước ta còn nhiều chồng chéo. Quy định về cách tính tiền phạt hoặc hiện vật Đánh bạc tại các khoản 2,3,4 và Điều
<small>20</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 28</span><div class="page_container" data-page="28">5 Nghị quyết số 01/2010/NQ — HĐTP và thực tiễn khởi tố, điều tra truy tố xét
nhất. Tội Đánh bạc đã có rất nhiều lần sửa đổi bổ sung về mức xử lý, hay chỉ
hay Nghị quyết số 01/2006/NQ — u\HDTP. Qua các lần sửa đổi bổ sung cho thấy sự thiếu xót, hạn chế cũng như vướng mắc trong việc áp dụng của nhà làm
<small>luật cũng người như người áp dụng pháp luật, mà ở đây là người DTD.</small>
riêng. Như vậy trong quá trình DTD nếu hiểu theo nghĩa hẹp (chỉ về nội dung) thì BLHS có ý nghĩa quyết định và quan trọng nhất, vì nó đóng vai trò là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) của việc DTD. Sự khang định như vậy là
<small>Hiện nay theo pháp luật hình sự (PLHS) Việt Nam, thì BLHS năm</small>
<small>phạt nói riêng.</small>
Bản chất của việc ĐTD tội đánh bạc là so sánh, đối chiếu và kiểm tra để xác định xem các dấu hiệu của hành vi đánh bạc được thực hiện trong thực tế khách quan có phù hợp với các dấu hiệu tương ứng của Điều 248 được qui
định trong Phần riêng BLHS hay không.
Nhà làm luật khi xây dựng hệ thống các qui phạm của Phan các tội phạm BLHS - trong quá trình tội phạm hóa các hành vi nguy hiểm cho xã hội
<small>21</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 29</span><div class="page_container" data-page="29">- đã tìm xem các dấu hiệu nào là đặc trưng cơ bản nhất, phổ biến nhất và hay
qui định chúng trong BLHS với tính chất là các dấu hiệu bắt buộc tương ứng
CTTP đặc biệt tăng nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) dé các cơ quan tư pháp hình
<small>sự dùng làm mơ hình pháp lý cua DTD.</small>
BLHS qui định và liệt kê tất cả những hành vi nguy hiểm cho xã hội thường xảy ra trong thực tế bị nhà làm luật nhân danh Nhà nước coi là tội phạm. Nói một cách khác, BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất của
việc DTD chứa đựng những mẫu (mơ hình) pháp lý của các tội phạm, mà dựa
<small>được thực hiện.</small>
BLHS bao gồm hệ thống các nhóm qui phạm pháp luật được nhà làm luật sắp xếp thành hai Phần - Phần chung và Phần các tội phạm, - mà những người có thầm quyền tiến hành việc DTD đối với hành vi nguy hiểm cho xã
<small>nhóm qui phạm PLHS này bởi các lý do như sau:</small>
<small>và hữu cơ với nhau trong quá trình DTD - xác định CTTP tương ứng được</small>
người có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thé. Chang hạn, khi tìm các quy phạm PLHS dé DTD đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội như bạo loạn và hoạt động phi, thì không thể áp dụng các điều 82-83 tại Phần các tội phạm BLHS năm 1999 (quy định hai tội phạm tương ứng với những hành vi nay), mà còn phải áp dụng Điều 20 tại Phan chung BLHS đó (đề cập đến chế định đồng phạm) dé xác định mức độ
<small>22</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 30</span><div class="page_container" data-page="30">TNHS khác nhau của các loại người đồng phạm cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm cụ thé tương ứng.
Trong quá trình DTD nếu các quy phạm PLHS tại Phần các tội phạm
giống nhau của các dấu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thê được thực hiện, thì các quy phạm PLHS tại Phần chung về lỗi, các giai đoạn thực hiện tội phạm, đồng phạm, v.v... giúp cho chúng ta nhận biết được một cách nhanh chóng và chính xác các dấu hiệu của CTTP cụ thể (CTTP cơ bản,
<small>CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng nặng hay C TP giảm nhẹ) của tội phạm</small>
<small>tương ứng đó.</small>
trị là cơ sở pháp lý duy nhất trực tiếp (về nội dung), thì các quy phạm PLTTHS (dĩ nhiên không phải là tất cả mà chỉ có một số quy phạm) - là cơ sở pháp lý gián tiếp (về hình thức) khơng kém quan trọng. Bởi lẽ:
gián tiếp (bỗ trợ) trong việc DTD, nhưng chúng có ý nghĩa pháp ly quan trọng
hiện nay. Chang hạn, Tòa án cấp phúc thẩm hoặc cấp giám đốc thâm sau khi
<small>257) Tồ án hai câp này có qun sửa lại bản án đã tuyên của Tòa án câp dưới</small>
<small>23</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 31</span><div class="page_container" data-page="31">để áp dụng điều khoản BLHS về tội danh nhẹ hơn, tức là tiến hành việc định
<small>lại tội danh.</small>
Việc nghiên cứu những vấn đề về CTTP, chính vì thế, có ý nghĩa pháp lý hình sự rất quan trọng đối với quá trình DTD, vì DTD chính xác tức là xác định đúng sự phù hợp giữa các dâu hiệu của một hành vi nguy hiểm cho xã hội nhất định nào đó được thực hiện với các dấu hiệu của CTTP tương ứng
-các dấu hiệu được quy định tại một quy phạm PLHS cụ thể của Phần -các tội
<small>phạm BLHS. Như vậy, trong giai đoạn xây dựng NNPQ Việt Nam hiện nay</small>
định cho luận điểm đúng đắn răng: CTTP là cơ sở khoa học của việc PTD.
quy phạm PLHS về DTD, chúng ta có thé nhận thấy vai rị của CTTP thé
<small>hiện rõ trên ndm bình diện như sau:</small>
CTTP là một trong những điểu kiện chung và quan trọng nhất để ĐTD chính xác - vì nêu như trong hành vi nguy hiểm cho xã hội khơng có day đủ
khơng thê đặt ra việc ĐTD.
-vì một loạt các thuật ngữ và phạm trù được sử dụng Có liên quan đến CTTP (như: “khách thể”, “chủ thể”, “mặt chủ quan”, “mặt chủ quan”, v.v...) đều được cá nhà lý luận soạn thảo ra trong khoa học luật hình sự, cịn nếu như
<small>chúng có được quy định trong luật thực định đi chăng nữa thì cũng là dướidạng các quy phạm PLHS trừu tượng.</small>
khi hành vi nguy hiểm cho xã hội của chủ thê có đầy đủ các dấu hiệu của một
<small>24</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 32</span><div class="page_container" data-page="32">CTTP tương ứng nào đó được quy định trong Phần các tội phạm BLHS, thì
<small>truy cứu TNHS người phạm tội.</small>
người bị kết án - vì nêu hành vi nguy hiểm cho xã hội chứa các dấu hiệu của một CTTP cụ thể (như: CTTP cơ bản, CTTP tăng nặng, CTTP đặc biệt tăng
<small>nặng hoặc CTTP giảm nhẹ) mà trong đó ghi nhận khung hình phạt tương ứng</small>
các tội phạm BLHS, thì Tịa án cũng khơng thể có căn cứ để lựa chọn loại và
chế và củng cơ trật tự pháp luật trong NNPQ - vì với tat cả sự thé hiện trên
<small>này của CTTP.</small>
được thừa nhận chung trong khoa học luật hình sự là: CTTP có bốn yếu tố -khách thé (1), mặt -khách quan (2), chủ thể (3) và mặt chủ quan (4) của tội phạm. Như vậy ở tội Đánh bạc chúng ta có thể thay 4 yếu tố CTTP gồm:
- Khách thể của tội phạm - đó là quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tinh chất tội phạm, nhưng bi tội phạm xâm hại đến
và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
<small>- Mặt khách quan của tội phạm - đó là mặt bên ngồi của sự xâm hại</small>
<small>25</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 33</span><div class="page_container" data-page="33">sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cắm, có năng lực
<small>ứng quy định).</small>
<small>- Mặt chu quan của tội phạm - đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy</small>
hành vi đó (lỗi).
Tội phạm là hiện tượng tiêu cực trong xã hội, tội phạm "vuất hiện cùng
<small>với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia</small>
thành giai cấp đối kháng" [6, tr.287]. Vì vậy dé bảo vệ đặc quyền của của giai cấp thống trị, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy hiểm cho xã hội nào
<small>Với thuộc tính là hiện tượng mang tính xã hội - pháp lý, tội phạm ln chứa</small>
Tội phạm có nguồn sốc xã hội, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội lồi người. Do đó tội phạm mang tính lịch sử. Nhìn nhận và đánh giá về tội phạm, nhà Luật học Larry J. Siegel đã đưa ra
<small>khái niệm tội phạm như sau:</small>
<small>26</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 34</span><div class="page_container" data-page="34">... Tội phạm là một hành vi vi phạm các nguyên tắc xã hội
<small>được giải thích và quy định trong một đạo luật hình sự do những</small>
người năm giữ quyền lực chính trị và xã hội tạo ra. Những cá nhân vi phạm các nguyên tắc này là đối tượng sẽ bị trừng phạt bởi các cơ
<small>Nghiên cứu khái niệm tội phạm dưới góc độ khoa học luật hình sự cho</small>
thấy khái niệm tội phạm được các nhà luật học trong và ngoài nước nghiên
niệm này như: Trung Quốc, Liên bang Nga, Thụy Điền, v.v...
Khái niệm tội phạm là một trong những vẫn đề quan trọng nhất
nét bản chất giai cấp, các đặc điểm chính trị, xã hội cũng như pháp lý
của luật hình sự mỗi nước...Vì vậy, nghiên cứu khái niệm tội phạm
ln ln là chủ đề nóng hồi trong khoa học pháp lý hình sự trên thé
<small>giới nói chung và ở nước ta nói riêng. [11, tr.157-158]</small>
Nghiên cứu BLHS Việt Nam năm 1999 (đã được sửa đối bổ sung năm
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định
<small>trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự</small>
thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ qun,
<small>Tuy nhiên, khái niệm tội phạm trong định nghĩa lập pháp được các nhà</small>
<small>27</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 35</span><div class="page_container" data-page="35">(đặc điểm) cơ bản, mà theo GS.TSKH Lê Cảm, khái niệm này còn thiếu một
các nhà làm luật nước ta ghi nhận mới thé hiện được day đủ cả ba bình diện
diện khách quan (nội dung) - tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1); 2)
<small>Bình diện pháp ý (hình thức) - tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự (2)</small>
<small>và; 3) Bình diện chu quan - tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS (3)</small>
cứu lý luận và thực tiễn chúng tơi hồn toàn tán thành với quan điểm này.
tội phạm (chung), hiện nay trong khoa học luật hình sự nước ta cịn nhiều quan điểm khác nhau, cụ thé:
Quan điểm: Đánh bạc là được thua bằng tiền hay lợi ích khác
trong tương lai. Thông thường, các kết quả hay biến cố nói trên sẽ biết
khác nhau tùy thuộc vào bối cảnh văn hóa, lịch sử. [37]
Đánh bạc là (hành vi) tham gia vào trị chơi được tơ chức bat
hưởng xấu đến gia đình va cá nhân người chơi mà cịn có thé là
<small>nguyên nhân của tệ nạn xã hội và tội phạm khác. [10, tr.227]</small>
Chúng tơi cho rằng quan điểm này có ưu điểm là đã nêu bật được khách
<small>và dâu hiệu chủ thê của tội phạm này.</small>
<small>28</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 36</span><div class="page_container" data-page="36">Tóm lại, dưới góc độ khoa học luật hình sự, khái niệm tội đánh bạc cần
<small>tương ứng cơ bản của tội phạm như đã nêu trên. Do đó khái niệm tội phạmnày được định nghĩa như sau:</small>
Tội đánh bạc là hành vi tham gia trò chơi trái phép dưới bat kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên, gây thiệt hại cho trật tự an tồn cơng cộng, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp; hoặc dưới hai triệu đồng nhưng
<small>án tích mà cịn vi phạm.</small>
<small>bạc như sau:</small>
Một là, tội đánh bạc nằm trong nhóm tội xâm phạm trật tự cơng cộng,
tiêu chí dé đánh gia su ồn định, phát triển, văn minh, dân chủ của một quốc gia. Dé có trật tự cơng cộng - một trạng thái xã hội lành mạnh, có tơ chức, có kỷ luật và ơn định địi hỏi Nhà nước, các cơ quan, tô chức và mọi công dân trong xã hội đều phải có trách nhiệm xây dựng, thực hiện và bảo vệ các quy
hội. ĐI ngược lại điều này là xâm phạm đến trật tự công cộng và sẽ bị xử lý
<small>thành tội phạm.</small>
Hai là, tội đánh bạc là hành vi tham gia các trò chơi được thua bằng tiền hay hiện vật từ hai triệu đồng trở lên dưới nhiều hình thức khác nhau một
<small>cách trái pháp luật, gây thiệt hại cho trật tự an tồn cơng cộng, hoặc dưới hai</small>
<small>chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm.</small>
<small>29</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 37</span><div class="page_container" data-page="37">Ba là, tội đánh bạc do người có đủ năng lực TNHS thực hiện và đủ tuổi
hiện tội đánh bạc trái phép khơng có mục đích chống chính qun nhân dân.
LUAT HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VE TOI ĐÁNH BAC CHO DEN TRƯỚC KHI BAN HANH BỘ LUẬT HINH SỰ NĂM 1999
1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước
<small>khi ban hành Bộ luật hình sự Việt Nam năm 1985</small>
<small>Sau khi cách mang tháng 8/1945 thành cơng, Nhà nước Việt Nam dânchủ cộng hịa ra đời. Chính phủ mới được thành lập đã nhận thức rõ sự nguy</small>
hành vi cờ bạc là quân dịch và những thành phan thuộc giai cấp bóc lột lúc
<small>vụ cách mạng.</small>
Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm của các hành vi cờ bạc và để đấu tranh, xử lý, ngăn chặn những hệ lụy nguy hại cho xã hội và an ninh quốc gia,
14/4/1948 - Văn bản pháp luật hình sự đầu tiên được nhà nước ta quy định về
khắc của nhà nước ta đối với loại tội phạm này, đặc biệt đối với những đối
<small>tượng đánh bạc.</small>
Tại Điều 1 của Sắc lệnh 168/SL quy định về hành vi đánh bạc như sau: - Hành vi đánh bạc bao gồm: "Tat cả các trị chơi cờ bạc dit có tinh chat
<small>30</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 38</span><div class="page_container" data-page="38">x6 số vì tiền hay bằng đồ mà khơng có nhà chức trách có thâm quyền cho phép
- Tại Điều 2 Sắc lệnh 168/SL cũng quy định hành vi tổ chức đánh bạc với nội dung là tô chức một cuộc đánh bài, đánh bạc, một trò chơi đã được nêu tại điều I của Sắc lệnh mà không phụ thuộc vào địa điểm thực hiện hành vi.
với những người mà cho mượn tiền mượn địa điểm để tổ chức đánh bạc không cần biết có thu lợi hay khơng đều bị xử lý như người tô chức đánh bạc
Những người giúp, người khác tổ chức những cuộc chơi nói
của người to chức đánh bạc và bị phạt tù từ 2 - 5 năm tù và phạt băng tiền từ 10.000đ đến 100.000đ. [30, tr. 497]
Bên cạnh việc xác định phạm vi những đối tượng bị xử lý về hình sự
<small>với người phạm tội đánh bạc:</small>
thé áp dụng đối với người phạm tội là bị quản thúc từ 1 năm đến 5 năm. Văn bản cũng quy định các dụng cụ dùng vào việc đánh bạc, tiền nong bắt được trên bàn hay trên chiếu bạc đều bị tịch thu.
Ngoài ra Điều IV của Sắc lệnh thê hiện thái độ rất nghiêm khắc của
<small>Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong việc xử lý những người thực hiện</small>
<small>hành vi cờ bạc.</small>
<small>31</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 39</span><div class="page_container" data-page="39">Dù rằng Tịa án có xét xử tình trạng nên giảm, cũng bắt buộc ap dụng hình phạt tối thiểu về tù và tiền nói trong Điều II và Điều III trên đây. Tòa án phải phạt vừa tù và tiền mà khơng cho bi can
Sắc lệnh số 168/SL ngày 14/ 04 /1948, mặc dù chưa phân biệt rõ các
biện pháp tịch thu tất cả các đồ vật, tiền dùng dé đánh bạc.
pháp lý quan trọng phục vụ cho việc phòng chống các tội cờ bạc nói chung và tội đánh bạc nói riêng. Tuy nhiên sự biến đổi sâu sắc của kinh tế, chính trị - xã
<small>Thông tư 301/VHH-HS ngày 14/2/1957 và thông tư 2098/VHH-HS</small>
một phần những vướng mắc của Sắc lệnh 168/SL.
Tại thông tư 301/VHH-HS, với phương châm “lấy giáo duc làm chính”
việc đánh bạc, đó là: Khơng nhất thiết phải bắt được quả tang đánh bạc mới
<small>minh là bị can đã đánh bạc nhưng phải thận trọng trong trường hợp này. Có</small>
<small>32</small>
</div><span class="text_page_counter">Trang 40</span><div class="page_container" data-page="40">Thông tư này cũng xác định chỉ truy tố đối với các đối tượng:
chuyên sống về nghề cờ bạc.
mà vẫn tiếp tục chơi coi thường pháp luật.
Quy định này đã thu hẹp về đối tượng bị xử lý về tội cờ bạc, bao gồm các đối tượng tham gia vào tổ chức, chứa gá bạc và người đánh bạc là đối tượng có kèm theo những đặc điểm về nhân than thì mới xem xét dé truy tó.
thông tư nay đã giảm nhẹ đáng ké đối với những đối tượng tham gia cờ bạc.
Tại thông tư số 2098 ngày 31/5/1957 một lần nữa lại nêu ra cách vận dụng Sắc lệnh 168/SL trong điều kiện và tình hình xã hội mới. Thơng tư này
<small>xác định những nội dung chính sau:</small>
- Về mức hình phạt: Đối với những trường hợp phạm tội nhẹ mà nếu
phạt mức tối thiểu. Nếu xét thấy khơng cần thiết phải truy tố thì cảnh cáo ở phịng cơng tố rồi tha cho bị can. Mức phạt tiền vẫn giữ nguyên theo quy
định của Sắc lệnh 168/SL.
<small>33</small>
</div>