Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy luận văn ths luật 60 38 40 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1009.35 KB, 102 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn THANH DUNG

ĐịNH TộI DANH
đối với các tội phạm về ma túy

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2012

1


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn THANH DUNG

ĐịNH TộI DANH
đối với các tội phạm về ma túy
Chuyên ngành : Luật Hình sự
Mã số

: 60 38 40

luận văn thạc sĩ luật học

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng


Hà nội - 2012

2


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

7

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI

13

DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối

13

với các tội phạm về ma túy
1.1.1.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh


13

1.1.1.1. Khái niệm về định tội danh

13

1.1.1.2. Đặc điểm của định tội danh

14

1.1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh

15

1.1.2.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối

17

với các tội phạm về ma túy
1.1.2.1.
1.1.2.1. Khái niệm của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy

17

1.1.2.2.
1.1.2.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy

18


1.1.2.3.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy

19

1.2.1.2.

Căn cứ và những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh

20

đúng đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1.
1.2.1. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội

20

danh đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1.1. Những căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy

3

20


1.2.1.2. Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với các tội phạm

22


về ma túy
1.2.2.
1.2.2. Những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh đối với các tội

26

phạm về ma túy
1.2.2.1. Năng lực chuyên môn của người định tội danh

26

1.2.2.2. Đạo đức nghề nghiệp của người định tội danh

27

1.2.2.3. Hệ thống pháp luật hình sự hoàn chỉnh

29

Chƣơng 2. ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI

32

PHẠM CỤ THỂ VỀ MA TÚY CỦA CƠ QUAN CÓ
THẨM QUYỀN TRONG QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
VỤ ÁN HÌNH SỰ TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010
2.1.

Một số khái niệm liên quan đến các tội phạm về ma túy


32

2.2.

Một số vấn đề định tội danh đối với các tội phạm cụ thể về ma túy

35

2.2.1.

Tội trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa

35

chất ma túy (Điều 192)
2.2.2.

Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 193)

39

2.2.3.

Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt

42

chất ma túy (Điều 194)
2.2.4.


Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất

47

dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195)
2.2.5.

Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương

50

tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép
chất ma túy (Điều 196)
2.2.6.

Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 197)

54

2.2.7.

Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy(Điều 198)

57

2.2.8.

Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất


58

ma túy (Điều 200)

4


2.2.9.

Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện

60

hoặc các chất ma túy khác (Điều 201)
2.3.

Tình hình các tội phạm về ma túy và đấu tranh chống tội

62

phạm về ma túy trong những năm 2006 đến 2010
2.4.

Một số tồn tại, hạn chế của việc định tội danh đối với các

72

tội phạm về ma túy
Chƣơng 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT


79

LƢỢNG VIỆC ĐỊNH TỘI DANH ĐỐI VỚI CÁC TỘI
PHẠM VỀ MA TÚY
3.1.

Hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự liên quan

79

đến các tội phạm về ma túy
3.2.

Tăng cường công tác hướng dẫn áp dụng pháp luật

83

3.3.

Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ

85

chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với đội ngũ
cán bộ, Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán
3.4.

Kiện toàn tổ chức bộ máy các đơn vị trong các cơ quan tiến

88


hành tố tụng
3.5.

Tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho Cơ

90

quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án; chế độ ưu đãi đối
với Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán làm công tác
đấu tranh chống tội phạm ma túy
3.6.

Tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống

91

ma túy
KẾT LUẬN

93

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

95

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TNHS

Trách nhiệm hình sự

6


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng


Trang

Số liệu thống kê về tình hình phạm tội về ma túy trên địa

65

bảng

2.1

bàn cả nước
2.2

Số liệu thống kê các vụ án được giải quyết của Cơ quan

67

điều tra từ năm 2006 đến năm 2010.
2.3

Số liệu thống kê các vụ án được giải quyết của Viện kiểm

68

sát các cấp từ năm 2006 đến năm 2010.
2.4

Số liệu thống kê các vụ án được xét xử sơ thẩm của Tòa
án các cấp từ năm 2006 đến năm 2010.


7

71


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cả nhân loại đang nỗ lực hướng tới một cuộc sống hòa bình, hạnh
phúc, không có ma túy, nhưng ma túy hiện vẫn là vấn đề được quan tâm trên
toàn cầu. Theo số liệu mới nhất của cơ quan phòng chống ma túy và tội phạm
UNODC của Liên hợp quốc thì trên thế giới hiện có trên 200 triệu người
nghiện ma túy và ở Việt Nam hiện có khoảng 173.600 người nghiện ma túy,
trong đó có trên 70% người nghiện là dưới 30 tuổi và có khoảng 5% tổng số
người sử dụng ma túy ở độ tuổi chưa thành niên (dưới 18 tuổi), đặc biệt có
khoảng 50% tổng số người nghiện ma túy là trẻ em dưới 16 tuổi. Bên cạnh
đó, ma túy còn là nguyên nhân gây mất trật tự an toàn xã hội, là nguồn gốc
của nhiều loại tội phạm hình sự khác. Ma túy gắn liền với hành vi phạm tội và
là nguồn gốc bổ sung của tội phạm. Khi bị nghiện, người nghiện ma túy sẵn
sàng làm mọi việc để có tiền sử dụng ma túy như giết người, cướp của… Đây
chính là rào cản lớn ngăn cản người xây dựng cuộc sống văn minh, hiện đại.
Trong 10 năm gần đây, tình hình tội phạm ma túy tiếp tục diễn biến
phức tạp ở Việt Nam. Theo thống kê mới đây của Tòa án nhân dân tối cao,
năm 2008 Tòa án các địa phương đã xét xử 9.044 vụ án với 12.071 bị cáo
phạm các tội về ma túy tăng 1.383 vụ so với năm trước. Tình hình hoạt động
của bọn tội phạm ma túy diễn ra chủ yếu trên các tuyến biên giới Tây Bắc,
Miền Trung, biên giới phía nam và tiếp tục đi sâu vào lục địa. Đáng chú ý là
lượng hêrôin vận chuyển vào Việt Nam năm 2009 tăng 29% so với năm trước
và lượng methamphetamin tăng 11 lần. Điểm mới nhất trong những năm qua
là sự gia tăng hoạt động của băng nhóm tội phạm ma túy quốc tế. Chúng thực
hiện hành vi buôn bán ma túy hết sức tinh vi trên địa bàn rộng lớn với cách

thức tổ chức chặt chẽ, đặc biệt có sự cấu kết giữa các đối tượng buôn bán ma

8


túy trong nước với nước ngoài. Các đối tượng phạm tội này thường rất hung
hãn chống trả quyết liệt khi bị truy bắt. Mặt trận đấu tranh chống các tội phạm
về ma túy luôn diễn ra khốc liệt giữa các chiến sỹ công an với các tên tội
phạm về ma túy. Hơn 10 năm qua lực lượng cảnh sát đã giải quyết gần 100 vụ
án về tội phạm ma túy xuyên quốc gia liên quan đến gần 150 đối tượng khác
nhau, trong đó hầu hết là các hoạt động mua bán, vận chuyển trái phép các
chất ma túy từ nước ngoài vào Việt Nam và ngược lại.
Từ thực tế về tình hình tội phạm về ma túy, cơ quan có thẩm quyền cần
phải nắm vững hành vi, cách thức thực hiện của bọn chúng để triệt phá băng
nhóm tội phạm ma túy có tính chất nhỏ lẻ cũng như các đường dây ma túy
lớn. Cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định đúng tội danh đối với những tội
phạm về ma túy, để xử lý nghiêm khắc những kẻ mang đến "cái chết trắng"
cho nhân loại. Hiện nay có rất nhiều loại ma túy phổ biến như hêrôin, cần sa,
ma túy tổng hợp (ATS, Ecstasy, Dolophine, MS contin…), còn có rất nhiều
loại ma túy tổng hợp khác mà cơ quan chức năng chưa xác định được. Vì vậy,
việc xác định các chất nào đó là ma túy là việc cần thiết và quan trọng trong
việc định tội danh đối với từng loại tội phạm về ma túy. Bên cạnh đó, tội
phạm về ma tuý là loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm. Những đối tượng cầm
đầu thường không lộ diện, chúng thuê người dân tộc thiểu số có đời sống khó
khăn, đối tượng nghiện ma tuý hoặc những người nhận thức pháp luật hạn
chế. Những người thực hiện, giúp sức thường không biết tên tuổi, địa chỉ của
đối tượng cầm đầu nên việc điều tra không được mở rộng và việc triệt phá
đường dây cũng như đối tượng cầm đầu trong nhiều vụ án rất khó khăn. Đặc
biệt, trong quá trình giải quyết án ma tuý có nhiều vụ án không xác định đúng
tội danh, đã khởi tố sai tội danh, dẫn đến việc phải ra quyết định thay đổi tội

danh hoặc phải ra quyết định đình chỉ vụ án (Như vụ án Phùng Bảo Ninh:
năm 2007, Toà án Tp Hồ Chí Minh tuyên bị cáo phạm tội mua bán tiền chất

9


dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý theo Điều 195 BLHS; nhưng đến
năm 2010, Toà án Tp Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm tuyên bị cáo phạm tội
buôn lậu...). Do vậy, cần xác định đúng tội danh đối với tội phạm này để
trừng trị nghiêm khắc, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.
Chính những lí do trên mà chúng tôi đã lựa chọn vấn đề: "Định tội
danh đối với các tội phạm về ma túy" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ với sự
nhiệt tình mong muốn bày tỏ quan điểm cá nhân về vấn đề trên.
2. Tình hình nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tìm hiểu pháp luật hình sự Việt Nam, định tội
danh đối với các tội phạm về ma túy là một trong những nội dung quan trọng.
Bởi vì, ma túy là một hiểm họa của loài người, việc xác định được tội danh
đối với người buôn bán, vận chuyển trái phép chất ma túy…là nhiệm vụ quan
trọng trong việc ngăn ngừa và đấu tranh phòng, chống tội phạm về ma túy. Từ
đó, có các biện pháp xử lý thật nghiêm minh đối với những kẻ gây ra "cái chết
trắng" cho người dân Việt Nam, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ.
Khi chọn đề tài "Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy" cho
luận văn Thạc sỹ tôi đã tham khảo: Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần
các tội phạm), PGS-TSKH Lê Cảm, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2007;
Định tội danh: Lý luận, hướng dẫn mẫu và 350 bài tập thực hành. Nxb Đại
học Quốc gia Hà Nội năm 2004. Lê Cảm và Trịnh Quốc Toản; Bình luận
khoa học Bộ luật hình sự năm 2009, Nxb Công an nhân dân năm 2001; Giáo
trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) GS-TS Võ Khánh Vinh, Nxb
Công an nhân dân năm 2001; Bình luận khoa học chuyên sâu Bộ luật hình sự
(Phần các tội phạm), Th.s Đinh Văn Quế, NXB TP HCM năm 2005; Bình

luận khoa học Bộ luật hình sự (Phần các tội phạm), TS Uông Chu Lưu (Chủ
biên), Nxb Chính trị Quốc gia năm 2004; Luật hình sự Việt Nam (phần các tội
phạm), Nxb Chính trị Quốc gia năm 2010 và một số luận văn, luận án tiến sĩ

10


như luận văn "Mối quan hệ giữa Viện kiểm sát nhân dân với Cơ quan Cảnh
sát điều tra trong đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy” của Th.s
Nguyễn Minh Thành, Vụ 1C, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, năm 2011;
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Mạnh Cường (Vụ 1A, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao) về "Áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố các vụ án ma túy theo
yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam", năm 2007; Luận văn Thạc sĩ của
Nguyễn Thị Mai Nga (Vụ 1C, Viện kiểm sát nhân dân tối cao) về "Nâng cao
hiệu quả quan hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Cơ quan cảnh sát
điều tra trong quá trình giải quyết các vụ án ma túy"…
Hầu hết những tài liệu khoa học trên phạm vi nghiên cứu rộng hoặc
theo một số khía cạnh nhất định, trong đó vấn đề "Định tội danh đối với các
tội phạm về ma túy" chỉ là một phần nhỏ trong nội dung nghiên cứu của các
tác giả, tác giả vẫn chưa đi sâu vào phân tích về mặt lý luận và thực tiễn về
định tội danh đối với từng loại tội phạm về ma túy.
Trong luận văn này, chúng tôi đi nghiên cứu sâu sắc vào những quy
định của pháp luật hình sự về "Định tội danh đối với các tội phạm về ma
túy", thực trạng giải quyết vụ án hình sự trong những năm gần đây và qua đó,
tìm ra khó khăn, tồn tại và đưa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng.
3. Mục đích, nhiệm vụ và đối tƣợng nghiên cứu
3.1. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp, chúng tôi mong muốn đưa ra
cái nhìn tổng quát về các quy định của pháp luật hình sự đối với “Định tội
danh đối với các tội phạm về ma túy", cũng như việc áp dụng quy định này

trong thực tiễn. Từ đó làm sáng tỏ những ưu điểm, những tồn tại và đưa ra
giải pháp góp phần hoàn thiện các quy định về "Định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy", đồng thời nâng cao hiệu quả công tác thực hiện pháp luật

11


của cơ quan tiến hành tố tụng. Để đạt được những mục đích đó trong quá trình
nghiên cứu đề tài cần hoàn thiện nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và căn cứ
của việc định tội danh, cũng như những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh
đúng pháp luật.
Thứ hai, phân tích làm rõ những căn cứ pháp lý cụ thể của việc "Định
tội danh đối với các tội phạm về ma túy" được quy định tại Chương XVIII
của BLHS.
Thứ ba, phân tích thực tiễn áp dụng của việc "Định tội danh đối với các
tội phạm về ma túy" của cơ quan có thẩm quyền trong việc giải quyết vụ án
hình sự những năm gần đây, phân tích những tồn tại và vướng mắc.
Thứ tư, đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật hình sự
về "Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy", cũng như công tác đấu
tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các căn cứ pháp lý của pháp luật hình sự
về "Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy" thông qua BLHS, đồng
thời thông qua các số liệu giải quyết các vụ án hình sự từ năm 2006 đến năm
2010 để phân tích, tìm ra những khó khăn, tồn tại trong công tác định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp chủ nghĩa Mác Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và những chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước

ta về đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn sử dụng phương pháp như
phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích, đánh giá,
tổng hợp và phương pháp thống kê tình hình thực tiễn, áp dụng "Định tội

12


danh đối với các tội phạm về ma túy" của cơ quan có thẩm quyền giải quyết
vụ án hình sự. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình
hình và từ đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
trong việc áp dụng quy định "Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy".
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn tốt nghiệp góp phần hoàn thiện lý luận
về các quy định "Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy". Luận văn đi
sâu vào nghiên cứu vấn đề chung về định tội danh, khái quát lịch sử về tội
phạm ma túy trong BLHS (1985, 1999 và sửa đổi, bổ sung năm 2009), phân
tích cụ thể các căn cứ pháp lý của "Định tội danh đối với các tôi phạm về ma
túy", dựa trên kết quả công tác giải quyết vụ án hình sự của cơ quan tiến hành
tố tụng trong những năm gần đây để đánh giá tồn tại, hạn chế của việc "Định
tội danh đối với các tội phạm về ma túy", từ đó tìm ra nguyên nhân của những
tồn tại, hạn chế này để có giải pháp khắc phục, nâng cao hiệu quả áp dụng
trong thực tiễn.
Luận văn còn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận, có thể sử dụng
làm tài liệu nghiên cứu học tập và sử dụng trong việc đấu tranh phòng, chống
tội phạm về ma túy.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có cấu trúc gồm ba chương:
Chương I. Những vấn đề chung về định tội danh đối với các tội phạm

về ma túy.
Chương II. Định tội danh đối với các tội phạm cụ thể về ma túy của cơ quan
có thẩm quyền trong quá trình giải quyết vụ án hình sự từ năm 2006 đến 2010.
Chương III.Một số giải pháp nâng cao chất lượng việc định tội danh
đối với các tội phạm về ma túy.

13


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐỊNH TỘI DANH
ĐỐI VỚI CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối với
các tội phạm về ma túy
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh
1.1.1.1. Khái niệm về định tội danh
Để xác định một tội phạm và truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự, cơ quan có thẩm
quyền phải thực hiện hoạt động định tội danh.
Có thể nói, định tội danh là một khái niệm của khoa học luật hình sự
Việt Nam, nó không được quy định cụ thể trong luật thực định. Vì vậy, có rất
nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm này:
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì định tội danh là một quá
trình nhận thức lý luận có tính lôgic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên
cơ sở các chứng cứ tài liệu thu thập được và các tính tiết thực tế của vụ án
hình sự để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi tương ứng do
luật hình sự quy định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức đưa ra sự đánh
giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa
và phân tích trách nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng

pháp luật [11, tr.33].
TS Dương Tuyết Miên cũng đưa ra quan điểm của mình về định tội
danh: “Định tội danh là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều
tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật để xác định một người có phạm tội hay không, nếu phạm tội

14


thì đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS hay nói cách khác đây là quá trình
xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện”[27, tr.9].
Th.s Đoàn Tất Minh đưa ra định nghĩa về định tội danh: “Định tội danh
là thuật ngữ dùng để chỉ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến
hành tố tụng có thẩm quyền trong tố tụng hình sự nhằm đối chiếu sự phù hợp
giữa các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với các dấu hiệu pháp lý của
cấu thành tội phạm được mô tả (quy định) trong Luật hình sự để giải quyết án
hình sự bằng việc ra kết luận bằng văn bản áp dụng pháp luật” [31, tr.10].
Mỗi một tác giả đều thể hiện rõ quan điểm riêng của mình về khái niệm định
tội danh. Tuy nhiên, các quan điểm trên đều thể hiện: việc định tội danh là quá trình
áp dụng pháp luật hình sự của cơ quan có thẩm quyền và việc định tội danh phải
dựa trên quy định của luật hình sự để xác định tội danh cho người phạm tội.
Như vậy, định tội danh có thể được hiểu là hoạt động thực tiễn áp dụng
pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố
tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài liệu
thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp
giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội hay không, và phạm
tội theo điều luật nào của BLHS.
1.1.1.2. Đặc điểm của việc định tội danh

Bất kể hoạt động nào cũng có những đặc điểm riêng vốn có của nó, và
định tội danh cũng vậy. Từ khái niệm nêu trên cho thấy hoạt động định tội
danh có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tội danh là hoạt động tiến hành tố tụng được tiến hành
bởi cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Toà án) và
một số cơ quan khác có thẩm quyền.

15


Thứ hai, việc định tội danh được tiến hành trên cơ sở áp dụng pháp luật
hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Người định tội danh lựa chọn đúng quy
phạm pháp luật hình sự để áp dụng đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ
thể nào đó được thực hiện trong thực tế khách quan.
Thứ ba, hoạt động định tội danh là hoạt động đối chiếu sự phù hợp giữa
các dấu hiệu thực tế của cấu thành tội phạm với dấu hiệu pháp lí của cấu
thành tội phạm được mô tả trong BLHS. Hoạt động này chính là việc xác định
xem dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thể hiện có phù hợp với
dấu hiệu cấu thành tội phạm cụ thể do điều luật tương ứng trong Phần tội
phạm BLHS quy định không; trên cơ sở đó, đưa ra sự đánh giá nhất định về
mặt pháp lý hình sự đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể đã xảy ra
trong thực tế khách quan.
Thứ tư, sau khi đối chiếu sự phù hợp giữa dấu hiệu thực tế của cấu
thành tội phạm với dấu hiệu pháp lí của cấu thành tội phạm được mô tả trong
luật hình sự thì cơ quan có thẩm quyền sẽ đưa ra kết luận người đó phạm vào
tội gì theo điều luật nào của BLHS bằng việc ra một quyết định như quyết
định khởi tố, truy tố...
Như vậy, định tội danh phải dựa vào cấu thành tội phạm cơ bản của tội
phạm cụ thể. Định tội danh phải được tiến hành trước, trên cơ sở đó mới có
thể tiến hành được việc quyết định hình phạt. Chủ thể của hoạt động định tội

danh do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và một số cơ quan khác có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật tiến hành.
1.1.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh
Định tội danh là hoạt động thực tiễn quan trọng của các cơ quan
tiến hành tố tụng và một số cơ quan có thẩm quyền khác theo quy định
của pháp luật. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề định tội danh có ý nghĩa vô

16


cùng quan trọng trong công tác xét xử vụ án hình sự, thể hiện ở những
điểm sau:
Thứ nhất, việc định tội danh đúng sẽ là tiền đề cho việc phân hóa trách
nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt một cách công minh, có căn cứ và đúng
pháp luật, đồng thời để áp dụng chính xác các quy phạm và pháp luật, đồng
thời để áp dụng chính xác quy phạm và các chế định cơ bản được ghi nhận
trong BLHS năm 1999 như: các tình tiết loại trừ tính chất tội phạm của hành
vi, hình phạt, tái phạm, quyết định hình phạt trong một loạt những trường hợp
khác nhau (tội phạm có đồng phạm, nhiều tội phạm, án treo…).
Thứ hai, định tội danh đúng là một trong những cơ sở để áp dụng chính
xác các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự về tạm giam, thời hạn tạm giam,
khởi tố vụ án hình sự… bằng cách đó, định tội danh đúng sẽ góp phần đắc lực
vào việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân [11, tr.29]
Thứ ba, định tội danh chính là quá trình xác định một hành vi đã thực
hiện trên thực tế có phạm tội không, nếu phạm tội thì tội đó là gì theo điều
luật nào của BLHS, do vậy định tội danh đúng chính là sự thể hiện hoạt động
có hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật triệt để cũng như ý thức trách nhiệm
trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan có thẩm quyền, từ đó góp phần
nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan này cũng như hỗ trợ
cho việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Thứ tư, định tội danh sai sẽ dẫn đến hậu quả tất yếu là quyết định hình
phạt sai, từ đó làm cho hình phạt đã tuyên không tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm cho bản thân bị cáo
không thấy được tính sai trái của hành vi của mình, từ đó không tự giác tuân
thủ pháp luật. Định tội danh sai sẽ không thuyết phục được quần chúng nhân
dân về tính đúng đắn và nghiêm minh của bản án, làm giảm hiệu quả giáo dục
của bản án đối với quần chúng nhân dân. Bên cạnh đó, định tội danh sai cũng

17


dẫn tới việc không đảm bảo được tính có căn cứ pháp lý của bản án, đồng thời
làm giảm uy tín và hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm.
Như vậy, hoạt động định tội danh có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự, là cơ sở để tiến hành các hoạt động tố tụng khác. Mục
đích của hoạt động này là nhằm giải quyết vụ án hình sự một cách đúng đắn, đó
là xử lý đúng người, đúng tội và buộc người có hành vi phạm tội phải chịu hình
phạt tương ứng với tính chất và mục đích của hành vi mà họ đã thực hiện.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của việc định tội danh đối với
các tội phạm về ma túy
1.1.2.1. Khái niệm của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy
Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy là hoạt động thực tiễn áp
dụng các căn cứ pháp lý cụ thể được quy định từ Điều 192 - 201 tại Chương
XVIII của BLHS về các tội phạm về ma túy. Trên cơ sở các quy định này, các
cơ quan có thẩm quyển định tội danh sẽ xem xét, đánh giá một hành vi đã
thực hiện trên thực tế có thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm nào được quy
định trong Chương XVIII của BLHS rồi trên cơ sở đó mới xác định vấn đề
trách nhiệm hình sự của người phạm tội. Việc tiến hành định tội danh phải
dựa trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của

vụ án hình sự, từ đó xác định sự phù hợp giữa các tình tiết thuộc hành vi nguy
hiểm cho xã hội được thực hiện trên thực tế với các dấu hiệu của cấu thành tội
phạm của một tội phạm ma túy cụ thể được quy định trong Chương XVIII của
BLHS nhằm tìm ra tên tội cho hành vi đó.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu về định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy như sau:
Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy là hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành

18


tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ quan khác
có thẩm quyền theo quy định của pháp luật trên cơ sở các chứng cứ, các tài
liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án nhằm xác định sự phù hợp
giữa hành vi thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong Chương XVIII của BLHS, từ đó xác định một người có phạm tội
về ma túy hay không, và phạm tội theo điều luật nào của chương này.
1.1.2.2. Đặc điểm của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy
Tội phạm ma tuý có những đặc điểm như các tội phạm khác về tính
chất nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật hình sự, tính có lỗi và tính chịu
hình phạt. Tuy nhiên, tội phạm ma túy cũng có những đặc điểm riêng so với
các loại tội phạm khác như:
Một là, tội phạm về ma túy có tính nguy hiểm cho xã hội. Các tội phạm
về ma túy đều trực tiếp, hoặc gián tiếp liên quan đến ma túy, xâm phạm tới sự
độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước, để cho ma túy xâm nhập vào
cộng đồng làm gia tăng người nghiện, gây tác động xấu về nhiều mặt như
kinh tế, chính trị, văn hóa và trật tự an toàn xã hội; xâm hại nghiêm trọng tới
tính mạng, sức khỏe của con người; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội
phạm khác.

Hai là, tội phạm ma tuý có tính chất chống đối pháp luật rất cao. Các
đối tượng phạm tội theo đường dây ma túy lớn thường có nhân thân xấu hoặc
có nguồn "gốc xã hội đen", khi bị phát hiện thường chống trả hết sức quyết
liệt bằng vũ khí nóng. Khi một mắc xích trong đường dây bị lộ, để đảm bảo
an toàn cao hoạt động của mình bọn tội phạm sẵn sàng thủ tiêu đồng phạm.
Ba là, tội phạm ma tuý có tính bí mật, khép kín, cắt đoạn và kéo dài của
hoạt động phạm tội. Để bảo đảm tuyệt đối bí mật cho hoạt động phạm tội, bọn
tội phạm ma túy thường hình thành các đường dây chìm, khép kín từ người
mua đến người vận chuyển và người bán, khép kín trong một nhóm đối tượng

19


và thường là những người thân như: vợ chồng, con cái, anh chị em, cô dì, chú,
bác… Đặc biệt là tính cắt đoạn, người nào biết việc người ấy, không biết tới
người thứ ba thể hiện tính chia cắt nghiêm ngặt. Tính liên hoàn đó là một chuỗi
hành vi phạm tội, từ sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán đến người sử
dụng; đặc biệt do tính siêu lợi nhuận của mua bán ma túy mang lại nên không
dễ gì khi bước vào con đường phạm tội mà tự dứt bỏ ra được. Mặt khác, đã
tham gia đường dây mua bán ma túy lớn tự ý rút khỏi đường dây cũng dễ bị
đồng bọn thủ tiêu. Vì vậy, hành vi phạm tội thường kéo dài nhiều năm liền.
Bốn là, bọn tội phạm ma túy thường cấu kết với lực lượng có chức
năng chống ma túy như với cán bộ Công an, Bộ đội biện phòng (Như vụ án
Vũ Xuân Trường và Cao Thị Lan xảy ra ở Hà Nội, …). Chúng móc nối hoặc
hối lộ cán bộ chức năng nhằm thuận tiện cho đường dây mua bán, vận chuyển
trên địa bàn.
Như vậy, bên cạnh những đặc điểm về định tội danh chung thì định tội
danh đối với tội phạm về ma túy còn có những đặc điểm riêng được dựa trên
những đặc điểm đặc trưng của tội phạm ma túy như:
Định tội danh đối với các tội phạm về ma túy phải dựa vào cấu thành tội

phạm vật chất của tội phạm được quy định trong Chương XVIII của BLHS.
Định tội danh đối với tội phạm về ma túy phải được tiến hành trước,
trên cơ sở đó mới có thể tiến hành được việc quyết định hình phạt. Như thế,
mới đảm bảo được tính công minh, tính có căn cứ, tính đúng pháp luật và tính
xác thực của một bản án khi được tuyên.
1.1.2.3. Ý nghĩa của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy
Trong công tác xét xử vụ án hình sự về ma túy, định tội danh đối với các
tội phạm về ma túy có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy đúng sẽ là
tiền đề cho việc xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt được chính

20


xác, đảm bảo việc xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không xử oan
người vô tội, không bỏ loạt tội phạm về ma túy
Thứ hai, việc xác định tội danh đúng đối với những tên tội phạm về ma
tuý là sự thể hiện hoạt động có hiệu quả, ý thức tuân thủ pháp luật triệt để
cũng như ý thức trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan có
thẩm quyền, từ đó góp phần vào công cuộc đấu tranh và phòng chống ma túy
và nâng cao uy tín, chất lượng hoạt động của các cơ quan này cũng như hỗ trợ
cho việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, do tính chất của tội phạm ma túy phức tạp, những tên cầm đầu
đường dây ma túy thường không lộ diện mà chúng thường thuê hoặc dùng tay
chân trực tiếp vận chuyển, mua bán trái phép chất ma tuý. Dẫn đến, việc điều
tra, xử lý nhiều vụ án ma tuý gặp rất nhiều khó khăn và sẽ có nhiều trường
hợp định tội danh sai. Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến việc quyết định hình
phạt sai, từ đó làm cho hình phạt đã tuyên không tương xứng với tính chất,
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, làm cho bản thân bị cáo
không thấy được tính sai trái của hành vi của mình và không tự giác tuân thủ

pháp luật.
1.2. Căn cứ và những yếu tố đảm bảo cho việc định tội danh đúng
đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1. Những căn cứ pháp lý và căn cứ khoa học của việc định tội
danh đối với các tội phạm về ma túy
1.2.1.1. Những căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với các tội
phạm về ma túy
Theo quan điểm của GS.TSKH Lê Cảm thì những căn cứ pháp lý của
định tội danh được hiểu dưới hai khía cạnh rộng và hẹp:
“Ở khía cạnh rộng thì những căn cứ pháp lý của việc định tội danh là
hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở duy nhất (trực

21


tiếp), cũng như hệ thống các quy phạm pháp luật tố tụng hình sự với tính chất
là cơ sở pháp lý bổ trợ (gián tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định các dấu
hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội phạm.
Ở khía cạnh hẹp thì căn cứ pháp lý của việc định tội danh là chỉ có hệ
thống các quy phạm pháp luật hình sự với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất
(trực tiếp) cho toàn bộ quá trình xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho
xã hội được thực hiện là tội phạm” [11, tr.38].
Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lý duy nhất có ý nghĩa quyết định và quan
trọng nhất trong việc định tội danh. Theo TS Dương Tuyết Miên thì "Hoạt
động định tội danh suy cho cùng là việc so sánh, đối chiếu các tình tiết của
hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện trong thực tế có phù hợp với các
dấu hiệu tương ứng của cấu thành tội phạm cơ bản của một tội phạm cụ thể
nào đó được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS. Để có thể tiến
hành được việc định tội danh, nhà làm luật đã xây dựng những mẫu đặc thù
riêng cho từng tội cụ thể mà dựa vào đó những người có thẩm quyền tiến

hành việc định tội danh phải xác định sự có hay không có sự phù hợp giữa các
tình tiết của hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể được thực hiện trên thực tế
với một trong những mẫu đặc thù được quy định trong BLHS, từ đó tìm ra tên
tội cho hành vi nguy hiểm đã thực hiện" [24, tr.12].
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm căn cứ pháp
lý của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy:
Căn cứ pháp lý của việc định tội danh đối với các tội phạm về ma túy là
những quy phạm pháp luật hình sự được quy định trong Chương XVIII của
BLHS với tính chất là cơ sở pháp lý duy nhất (trực tiếp) cho toàn bộ quá trình
xác định dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện là tội
phạm ma túy. Các văn bản pháp luật hình sự khác chỉ là văn bản dưới luật làm
nhiệm vụ hướng dẫn, giải thích Chương XVIII của BLHS để đảm bảo cho

22


việc áp dụng quy định pháp luật được đúng đắn, chính xác và hiệu quả trong
thực tiễn.
1.2.1.2. Căn cứ khoa học của việc định tội danh đối với các tội phạm
về ma túy
Căn cứ khoa học của việc định tội danh có thể hiểu là cấu thành tội
phạm. Cấu thành tội phạm là tổng hợp những dấu hiệu chung có tính chất đặc
trưng, điển hình cho một loại tội phạm cụ thể được quy định trong BLHS,
đồng thời giúp cho việc phân biệt tội phạm này với tội phạm khác.
Theo TS Dương Tuyết Miên thì cấu thành tội phạm là căn cứ khoa
học của việc định tội danh bởi vì định tội danh là xác định các tình tiết của
một hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trên thực tế có thỏa
mãn với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể tương ứng - các dấu
hiệu được quy định tại một quy phạm pháp luật hình sự cụ thể của Phần các
tội phạm BLHS. Muốn định tội cho một hành vi cụ thể, người định tội phải

căn cứ vào các cấu thành tội phạm đã được quy định trong BLHS. Việc xác
định tội danh chính là quá trình xem hành vi đó có thỏa mãn các dấu hiệu
của cấu thành tội phạm nào trong BLHS. Nếu các tình tiết của hành vi
phạm tội phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể được quy
định trong BLHS thì hành vi được định theo tội danh của cấu thành tội
phạm đó. Như vậy, cấu thành tội phạm là căn cứ khoa học của việc định
tội, trên cơ sở căn cứ vào cấu thành tội phạm được quy định ttrong BLHS
mới có thể định tội và định tội danh đúng.
Theo GS - TSKH Lê Cảm thì cấu thành tội phạm là tổng hợp các dấu
hiệu pháp lý (khách quan và chủ quan) do luật hình sự quy định thể hiện một
hành vi nguy hiểm cho xã hội cụ thể là tội phạm.
Yếu tố của cấu thành tội phạm là dấu hiệu chung có tính chất đặc trưng,
điển hình cho các loại tội phạm cụ thể cụ thể được quy định trong luật hình

23


sự. Yếu tố của cấu thành tội phạm bao gồm: khách thể của tội phạm, chủ thể
của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm và chủ quan của tội phạm.
“Khách thể của tội phạm: đó là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự
bảo vệ tránh khỏi sự xâm hại có tính chất tội phạm, nhưng bị tội phạm xâm
hại đến và gây nên (hoặc có thể gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.
Mặt khách quan của tội phạm: đó là mặt bên ngoài của sự xâm hại
nguy hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng PLHS, tức là
sự thể hiện cách xử sự có tính chất tội phạm trong thực tế khách quan.
Chủ thể của tội phạm: đó là người đã có lỗi (cố ý hoặc vô ý) trong việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm, có năng lực
TNHS và đủ tuổi chịu TNHS theo luật định.
Mặt chủ quan của tội phạm: đó là mặt bên trong của sự xâm hại nguy
hiểm đáng kể cho xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng PLHS, tức là thái

độ tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý đối với
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị do mình thực hiện và đối với hậu quả của
hành vi đó” [11].
Từ yếu tố cấu thành chung của tội phạm trên, chúng tôi đưa ra dấu hiệu
pháp lý của tội phạm ma túy:
Khách thể của các tội phạm về ma tuý: Ma tuý là loại độc dược gây
nghiện nên Nhà nước độc quyền quản lý. Nghiêm cấm việc trồng cây thuốc
phiện hoặc các loại cây khác có chất ma tuý, các hoạt động sản xuất, tàng
trữ, mua bán, vận chuyển, chiếm đoạt các chất ma tuý cũng như tiền chất
dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma tuý. Để ngăn chặn ma tuý và tội
phạm ma tuý, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, trong Hiến
pháp 1992 quy định “Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng
trữ, sử dụng trái phép thuốc phiện và các chất ma tuý khác. Nhà nước quy

24


định chế độ bắt buộc cai nghiện và chữa các bệnh xã hội nguy hiểm” (Điều
61-Hiến Pháp 1992).
Tại Điều 2 Quyết định số 113/CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
(nay là Thủ tướng Chính phủ) về việc quản lý thống nhất xuất, nhập thuốc và
các nguyên liệu làm thuốc chữa cho người bệnh, quy định “...Việc xuất, nhập
khẩu thuốc và nguyên liệu làm thuốc có chất độc, có chất gây nghiện, thuốc
gây mê và thuốc tâm thần do Bộ Y tế chọn đơn vị tổ chức để giao nhiệm vụ”.
Nghị quyết 06/CP ngày 29 tháng 1 năm 1993 của Chính phủ quy định “Bộ y
tế có trách nhiệm xác định các loại thuốc phiện và các chất ma tuý khác vào
sản xuất dược phẩm và nghiên cứu khoa học theo quy định của Nhà nước”.
Điều 3 Luật phòng chống ma tuý cũng quy định cấm 8 nhóm hành vi
có liên quan đến ma tuý.
Vì vậy, các tội phạm ma tuý xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của

Nhà nước về các chất ma tuý; xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và xâm phạm
sức khoẻ, sự phát triển giống nòi...
Chủ thể của các tội phạm về ma tuý: là những người có năng lực trách
nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của Bộ luật hình sự. Trong 9 tội
danh và 13 hành vi của các tội phạm về ma tuý được quy định tại Chương
XVIII Bộ luật hình sự thì có đến 8 tội danh và 12 hành vi phạm tội chủ thể là
người từ đủ 14 tuổi trở lên, chỉ có một tội danh “Tội trồng cây thuốc phiện...”
(Điều 192) là tội phạm nghiêm trọng nên chủ thể là người từ đủ 16 tuổi trở
lên. Ngoài ra, chủ thể của tội Vi phạm các quy định về quản lý, sử dụng thuốc
gây nghiện hoặc các chất ma tuý khác (Điều 201) là người có trách nhiệm
trong công tác này mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Mặt khách quan của các tội phạm về ma tuý: bao gồm năm nhóm hành vi sau:
Hành vi trồng cây thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất
ma tuý;

25


×