Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

bài điều kiện công tác dân số và sức khỏe sinh sản chủ đề mất cân bằng giới tính sau sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 11 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI</b>

<b>KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI</b>

<b>BÀI ĐIỀU KIỆNCÔNG TÁC DÂN SỐ VÀ </b>

<b>SỨC KHỎE SINH SẢNCHỦ ĐỀ: MẤT CÂN BẰNG GIỚI TÍNH SAU SINH</b>

<b>Giáo viên hướng dẫnHọ và tên Lớp</b>

<b>Khoa </b>

<b>HÀ NỘI - 2021</b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>MỤC LỤC</b>

<b>I. Thực trạng...1</b>

1. Việt Nam...1

2.Thế giới...3

<b>II. Nguyên Nhân...4</b>

<b>III. Hậu quả:...5</b>

<b>IV. Giải pháp:...6</b>

 Cấp độ vĩ mô...6

 Đối với ngành Công tác xã hội...8

</div><span class="text_page_counter">Trang 3</span><div class="page_container" data-page="3">

<b>I. Thực trạng1. Việt Nam </b>

Tâm lý ưa thích con trai và định kiến giới đã tồn tại dai dẳng ở Việt Nam từ thời phong kiến, đến nay dù dân trí đã được nâng cao giúp cải thiện tình hình nhưng mất cân bằng giới tính khi sinh đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng. Thực tế hiện nay, tỷ số giới tính khi sinh phản ánh cân bằng giới tính của số bé trai và bé gái khi được sinh ra của Việt Nam vẫn cao hơn mức sinh học tự nhiên dẫn đến những cảnh báo sớm về tình trạng mất cân bằng giới tính

<b>a. Theo đánh giá của Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA)</b>

Tỷ số giới tính khi sinh bắt đầu tăng mạnh từ năm 2006, tới 109 bé trai trên 100 bé gái (xem đồ thị) và những năm sau, con số này luôn ở mức từ 110,5 trở lên và cao nhất là trong năm 2018, tới 114,8 bé trai trên 100 bé gái. Mặc dù con số này đã giảm đi chút ít trong năm 2019 (111,5 bé trai trên 100 bé gái) nhưng nó lại nhanh chóng tăng lại mức thường thấy trong vòng một chục năm gần đây (112,2 bé trai trên 100 bé gái)

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

Đối với cha mẹ đã có hai con nhưng chưa có con trai, xác suất sinh thêm con lên đến 48% trong vòng 10 năm sau khi đứa trẻ thứ 2 ra đời. Con số này khá thấp đối với cha mẹ đã có 2 con trai hoặc đã có 1 con trai và 1 con gái với tỷ lệ chiếm lần lượt là 22% và 23%. Qua đó có thể thấy, những cha mẹ chưa có con trai thường có tỷ lệ sinh thêm con cao gấp đôi so với cặp cha mẹ đã có ít nhất 1 con trai. Đi cùng với sự mất cân bằng ở tỷ số giới tính khi sinh là sự thiếu hụt trẻ em gái. Thống kê trong giai đoạn 2014-2019, mất cân bằng tỷ số giới tính khi sinh ở lần sinh đầu tiên là nguyên nhân gây thiếu hụt khoảng 30% trẻ em gái tại Việt Nam, ở lần sinh thứ 2 là 26% và sự thiếu hụt ở lần sinh thứ 3 lên tới 44% trẻ em gái.

Theo tính tốn của các nhà nhân khẩu học, năm 2019, có khoảng 45.900 em gái bị thiếu hụt trong số sinh trong năm, chiếm tới 6,2% số lượng trẻ em gái sinh ra. Nếu tỷ số giới tình khi sinh vẫn tiếp tục cao như hiện nay thì chỉ khoảng hai, ba chục năm tới, sẽ có hàng triệu nam giới trong độ tuổi kết hơn sẽ khơng thể tìm được bạn đời.

Tỷ số giới tính khi sinh của Việt Nam năm 2019 (111,5) được đánh giá chỉ thấp hơn Trung quốc và Ấn Độ, hai quốc gia đông dân nhất thế giới.

<b>b. Theo số liệu Tổng điều tra dân số và nhà ở Việt Nam năm 2019</b>

Tỷ số giới tính khi sinh của cả khu vực thành thị và nông thôn đều cao và chênh lệch không nhiều. Mặc dù tỷ số giới tính khi sinh của khu vực nơng thôn cao hơn so với khu vực thành thị nhưng chênh lệch này chỉ có đúng một điểm phần trăm (111,8 ở khu vực nông thôn so với 110,8 ở khu vực thành thị).

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

<b>c. Theo vùng Địa lí – Kinh tế </b>

Trong số 6 vùng địa lý - kinh tế thì vùng Đồng bằng sơng Hồng có tỷ số giới tính khi sinh cao nhất (115,5 bé trai trên 100 bé gái) còn vùng Đồng bằng sơng Cửu Long lại có tỷ số giới tính khi sinh thấp nhất (chỉ có 106,9 bé trai trên 100 bé gái)

Chênh lệch về tỷ số giới tính khi sinh giữa các vùng địa lý – kinh tế là khá cao. Nói chung, tỷ số giới tinh khi sinh của các tỉnh Bắc bộ cao hơn nhiều so với các tỉnh Nam bộ.

<b>2.Thế giới </b>

Theo một nghiên cứu được công bố trên tạp chí y khoa BMJ ngày 2/8, ước tính trong 10 năm tới số bé gái được sinh ra trên thế giới ít đi 4,7 triệu do tình trạng lựa chọn giới tính thai nhi vì thích sinh con trai hơn ở nhiều nước. Xu hướng này có thể gây suy yếu sự gắn kết xã hội về lâu dài.

Để dự báo tác động lâu dài của việc lựa chọn giới tính đối với xã hội, một nhóm nghiên cứu quốc tế đã phân tích dữ liệu hơn 3 triệu ca sinh nở trong 50 năm qua. Các tác giả tập trung vào 12 nước có tỉ lệ nam giới so với nữ giới gia tăng kể từ năm 1970 và 17 nước khác có tỉ lệ này có thể gia tăng do các xu hướng văn hóa hoặc xã hội, từ đó mơ phỏng 2 kịch bản.

Cụ thể, kịch bản thứ nhất giả định việc lựa chọn giới tính gia tăng dựa trên số liệu thống kê. Theo đó, đến năm 2030 số bé gái sinh ra trên thế giới ít đi 4,7 triệu.

Kịch bản thứ hai giả định việc lựa chọn giới tính gia tăng ở một số nước dựa trên các xu hướng quan sát được và tỉ lệ sinh giảm, nhưng thiếu số liệu cụ thể. Theo đó, đến năm 2100 số bé gái sinh ra ít đi 22 triệu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

Cũng theo nghiên cứu, các trường hợp nạo phá thai để lựa chọn giới tính gia tăng trong 40 năm qua tại nhiều nước ở các khu vực Đông Nam châu Âu, Nam Á và Đông Á.

Nghiên cứu cho thấy số bé gái được sinh ra giảm sẽ dẫn tới tình trạng thừa thanh niên nam giới tại khoảng 30% dân số toàn cầu vào năm 2030. Các tác giả nghiên cứu cảnh báo tình trạng mất cân bằng giới có nguy cơ dẫn đến gia tăng hành vi bạo lực và chống đối xã hội, sau cùng ảnh hưởng đến sự ổn định lâu dài và sự phát triển xã hội bền vững.

Liên hợp quốc xác định những hành vi lựa chọn giới tính cùng với nạn tảo hôn và hủ tục cắt bộ phận sinh dục ngoài của phụ nữ là rào cản đối với việc hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ. Nghiên cứu nói trên kêu gọi các nước thu thập dữ liệu đầy đủ hơn về những hành vi như vậy nhằm loại bỏ những hủ tục này cũng như triển khai các sáng kiến giáo dục và tuyên truyền rộng rãi hơn.

Theo các tác giả, nhiều nước cũng cần đặt ra những mục tiêu cao hơn như thay đổi quan niệm về giới tính, nhất là những hành vi có hại như lựa chọn giới tính thai nhi. Điều này địi hỏi các chính phủ phải có khn khổ pháp lý chặt chẽ hơn để đảm bảo bình đẳng giới.

<b>II. Nguyên Nhân</b>

Các nhà nghiên cứu đã phân tích và đưa ra những nguyên nhân dẫn tới mất cân bằng giới tính khi sinh ở Việt Nam. Mất cân bằng giới tính khi sinh có liên quan đến rất nhiều yếu tố kinh tế - xã hội, đặc biệt là các yếu tố tập tục, văn hóa truyền thống vốn ăn sâu trong tiềm thức cộng đồng. Mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến tình trạng thừa nam, thiếu nữ trong tương lai, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc sống cá nhân, gia đình, dịng tộc mà cịn ảnh hưởng tiêu cực đối với dân tộc cũng như sự phát triển bền vững của đất nước.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b> Văn hóa trọng nam khinh nữ dẫn đến mất cân bằng giới tính khi sinh</b>

Do ảnh hưởng của nền văn hóa châu Á, trọng nam khinh nữ, đánh giá vai trò của nam giới là trụ cột trong gia đình… nên tâm lý ưa thích và mong muốn có con trai để "sau này về già có chỗ dựa dẫm"; "nối dõi tơng đường, kéo dài dịng họ"… đã ăn sâu trong tâm thức của nhiều người,

 Sự mất cân bằng diễn ra do nhận thức không đúng về bình đẳng giới dẫn đến tâm lý ưa thích có con trai và mong muốn lựa chọn giới tính bị thiên lệch về giới

<b> Hệ thống an sinh xã hội chưa phát triển</b>

Tình trạng bất bình đẳng giới vẫn diễn ra hằng ngày ở mỗi gia đình. Nhưng những chính sách giải quyết các vấn đề liên quan đến bất bình đẳng giới chưa thật sự thỏa đáng, cũng góp phần thúc đẩy một số phụ nữ chủ động tìm kiếm các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh. Những người phụ nữ này cũng tin rằng khi mình có con trai thì sẽ khẳng định được vị trí của mình đối với chồng, gia đình chồng.

Những chuẩn mực xã hội mới, mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh từ 1-2 con. Trong khi đó, các cặp vợ chồng vừa mong muốn có ít con, lại mong muốn trong số đó phải có con trai… cũng là nguyên nhân khiến các cặp vợ chồng tìm kiếm và sử dụng các dịch vụ lựa chọn giới tính trước sinh.

<b> Sự phát triển của khoa học công nghệ dẫn đến lựa chọn giới tính trướcsinh</b>

Chính sự mong mỏi có con trai trong mỗi gia đình cùng với những tiến bộ khoa học cơng nghệ trong sản khoa… khơng ít gia đình đã lạm dụng những tiến bộ này để thực hiện lựa chọn giới tính trước sinh.

<b> Những chuẩn mực xã hội mới</b>

Quy định mỗi cặp vợ chồng chỉ sinh từ 1 – 2 con. Mà mong muốn trong số đó phải có con trai của các cặp đây là động lực lựa chọn sử dụng dịch vụ chọn giới tính trước sinh.

<b>III. Hậu quả:</b>

 Nam giới khó kết hơn, kết hơn muộn, thậm trí khơng tìm được bạn đời.  Dễ dẫn tới gia tăng tội phạm về tình dục, lừa đảo, bắt cóc, bn bán phụ

 Tăng tệ nạn mại dâm, hiếp dâm phụ nữ  Nguy cơ lây nhiễm HIV, các bệnh xã hội  Bất ổn về chính trị, kinh tế và xã hội  Dễ dàng li hơn vì lí do khơng có con trai.

 Phá vỡ cấu trúc cân bằng giới trong nguồn lao động

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

 Tỉ lệ nữ ít nên tiếng nói và vị thế của phụ nữ trong xã hội có thể bị ảnh hưởng

<b>IV. Giải pháp:</b>

<b> Cấp độ vĩ mô</b>

<i>Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy, chính quyền.</i>

– Các cấp ủy đảng, chính quyền tiếp tục quán triệt sâu sắc hơn nữa việc chuyển hướng công tác dân số từ tập trung vào việc giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế. Thống nhất nhận thức trong lãnh đạo và chỉ đạo cuộc vận động thực hiện mỗi gia đình, cặp vợ chồng sinh đủ hai con, nuôi dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện sinh ít con hơn ở những địa phương có mức sinh cịn cao, duy trì kết quả ở những nơi đã đạt mức sinh thay thế, sinh đủ hai con ở những nơi có mức sinh thấp.

– Trên cơ sở xác định hiện trạng và xu hướng mức sinh của địa phương, đơn vị để xây dựng, ban hành các văn bản chỉ đạo, kế hoạch với chỉ tiêu cụ thể về việc điều chỉnh mức sinh của địa phương, đơn vị cho từng giai đoạn cụ thể hướng đến mục tiêu đạt mức sinh thay thế – mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng nên sinh hai con.

– Cấp ủy đảng, chính quyền chủ trì, huy động các ngành, đồn thể, tổ chức tham gia thực hiện kế hoạch; giao nhiệm vụ cụ thể cho từng địa phương, đơn vị trong tổ chức thực hiện. Thường xuyên giám sát, kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện của các địa phương, đơn vị để có biện pháp điều chỉnh kịp thời, phù hợp với điều kiện thực tiễn của địa phương trong từng thời kỳ.

– Ban hành quy định đảm bảo sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong thực hiện sinh đủ hai con, ni dạy con tốt, xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc; gắn kết quả thực hiện các mục tiêu điều chỉnh mức sinh được giao cho các địa phương, đơn vị với đánh giá hoàn thành nhiệm vụ của lãnh đạo cấp ủy, chính quyền địa phương, đơn vị, nhất là đối với người đứng đầu.

<i>Thứ hai, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động thay đổi hành vi.</i>

– Tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền sâu, rộng trong xã hội các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước về dân số trong tình hình mới nhằm tạo sự đồng thuận trong toàn xã hội về nội dung chuyển hướng chính sách về quy mơ dân số từ tập trung vào nỗ lực giảm sinh sang duy trì mức sinh thay thế. Tổ chức chiến dịch truyền thông thay đổi các chuẩn mực xã hội và thay đổi quan niệm xã hội về việc ưa thích con trai và hạ thấp giá trị của con gái nhằm giải quyết vấn đề lựa chọn giới tính trên cơ sở định kiến giới trên phạm vi cả.

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

– Đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động với các hình thức đa dạng, phong phú, sinh động, hấp dẫn và thuyết phục. Nâng cao hiệu quả của truyền thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, chú trọng việc sử dụng các phương tiện truyền thông đa phương tiện, internet và mạng xã hội. Sử dụng hợp lý các loại hình văn hóa, văn nghệ, giải trí. Phát huy vai trị của những người có ảnh hưởng với cơng chúng, gia đình và dịng họ như: những người nổi tiếng trong các lĩnh vực chính trị, khoa học, văn hóa, nghệ thuật, thể thao, già làng, trưởng bản… Đặc biệt quan tâm đẩy mạnh các hoạt động truyền thông trực tiếp, nhất là các hoạt động truyền thông tại nhà, tại cộng đồng thông qua đội ngũ cộng tác viên, tuyên truyền viên, nhân viên y tế thơn bản.

– Đổi mới tồn diện nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục về dân số, sức khỏe sinh sản trong và ngoài nhà trường phù hợp với từng cấp học, lứa tuổi trong hệ thống giáo dục. Mục tiêu của giáo dục dân số, sức khỏe sinh sản phải bảo đảm trang bị cho người học các kiến thức, kỹ năng cơ bản, có hệ thống về cấu tạo, cơ chế hoạt động của các cơ quan sinh sản ở người, chăm sóc sức khỏe sinh sản; phịng tránh mang thai ngồi ý muốn, vơ sinh và các bệnh lây truyền qua đường tình dục; định hình giá trị mỗi gia đình nên có hai con vì lợi ích gia đình và tương lai bền vững của đất nước.

– Thí điểm triển khai mở rộng thực hiện chương trình giáo dục bắt buộc trước khi kết hơn đối với thanh niên nam, nữ chuẩn bị kết hôn. Chương trình phải bảo đảm cung cấp cho nam, nữ thanh niên các kiến thức về chăm sóc sức khỏe sinh sản liên quan trực tiếp đến cuộc sống vợ chồng; chăm sóc, ni dạy con, quản lý kinh tế gia đình; củng cố giá trị mỗi gia đình nên có hai con, ni dạy con tốt và xây dựng gia đình bình đẳng, ấm no, tiến bộ, hạnh phúc.

<i>Thứ ba, điều chỉnh, hồn thiện các chính sách hỗ trợ, khuyến khích. </i>

– Rà sốt, đề xuất sửa đổi các quy định khơng cịn phù hợp với mục tiêu duy trì vững chắc mức sinh thay thế, đặc biệt là các quy định xử lý vi phạm chính sách dân số hiện hành.

– Đề xuất ban hành quy định về việc đề cao tính tiên phong, gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên trong việc sinh đủ hai con, ni dạy con tốt, xây dựng gia đình hạnh phúc.

– Ban hành các chính sách hỗ trợ, khuyến khích phù hợp với đặc điểm mức sinh của các địa phương có mức sinh khác nhau.

<i>Thứ tư, mở rộng tiếp cận các dịch vụ sức khỏe sinh sản/kế hoạch hóa gia đìnhvà các dịch vụ có liên quan. </i>

– Phổ cập dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản tới mọi người dân bảo đảm công bằng, bình đẳng trong tiếp cận, sử dụng dịch vụ, không phân biệt giới, người đã kết hôn, người chưa kết hôn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

– Xây dựng và triển khai các loại hình phịng, tránh vơ sinh từ tuổi vị thành niên tại cộng đồng; đẩy mạnh chuyển giao công nghệ, phát triển mạng lưới hỗ trợ sinh sản.

– Đối với địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo: tổ chức các loại hình cung cấp dịch vụ phù hợp; tư vấn, kiểm tra sức khỏe, phát hiện sớm, phòng, tránh các yếu tố nguy cơ dẫn đến sinh con dị tật, mắc các bệnh, tật ảnh hưởng đến việc suy giảm chất lượng nòi giống.

<i>Thứ năm, đào tạo, tập huấn, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ làm cơng tácdân số các cấp, các ngành, đồn thể, tổ chức xã hội, đặc biệt là kiến thức, kỹ</i>

năng lồng ghép các nội dung điều chỉnh mức sinh vào nhiệm vụ, hoạt động của các ngành, đơn vị. Đưa nội dung về điều chỉnh mức sinh vào chương trình đào tạo, tập huấn cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; chú trọng đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực dân số, nhân khẩu học thông qua hệ thống đào tạo trong và ngoài nước.

<b> Đối với ngành Công tác xã hội</b>

<b>- Phương pháp Công tác xã hội cá nhân: Được thực hiện trong</b>

việc tham vấn, tư vấn cho thân chủ để cải thiện về nhận thức, những khó khăn, trở ngại về vấn đề sinh con, hôn nhân khi áp lực về đẻ con trai. Kết nối họ đến với những chính sách, quyền lợi được hưởng và bảo vệ.

<b>- Phương pháp Công tác xã hội nhóm: Tạo mơi trường cho nhóm</b>

được chia sẻ những bài học, kinh nghiệm, tác động qua lại, học tập lẫn nhau, tăng cường khả năng giải quyết các khó khăn.

<b>- Phát triển cộng đồng: Xây dựng dự án, Truyền thông, nâng cao</b>

nhận thức cho người dân về vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh. Giúp thay đổi cộng đồng có nhận thức đúng đắn.

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

TÀI LIỆU THAM KHẢO

<b>1. Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA)</b>

2. Tổng cục dân số Bộ Y Tế - Trung tâm tư vấn và cung cấp dịch vụ.

“Mất cân bằng giới tính khi sinh: Các xu hướng hiện nay, hậu quả và các tácđộng chính sách”, Xuất bản tiếng anh năm 2012, Văn phòng UNFPA khu vực </i>

Châu Á – Thái Bình Dương.

%20bang%20gioi%20khi%20sinh_2013.pdf

<i>4. “Mất cân bằng giới tính khi sinh tại Việt Nam xu hướng và những khác biệt”,</i>

Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.

_final_1.pdf

5.

×