Tải bản đầy đủ (.pdf) (49 trang)

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC LỚP 10 CƠ BẢN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (575.66 KB, 49 trang )

<span class="text_page_counter">Trang 1</span><div class="page_container" data-page="1">

<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM KHOA: LÝ – HÓA - SINH </b>

------

<b>VÕ THỊ THANH TRANG </b>

<b>VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC LỚP 10 CƠ BẢN </b>

<i><b>Quảng Nam, tháng 5 năm 2016 </b></i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 2</span><div class="page_container" data-page="2">

<b>LỜI CẢM ƠN </b>

Để hồn thành khóa luận tốt nghiệp này, ngồi sự cố gắng nổ lực của bản thân tôi, tôi còn nhận được rất nhiều sự giúp đỡ của q thầy cơ giáo. Tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn chân thành đến:

Ban giám hiệu trường Đại học Quảng Nam.

Tồn thể q thầy cơ Khoa Lý – Hóa – Sinh đã tận tình giảng dạy, chỉ bảo, giúp đỡ tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu, hồn thành khóa luận.

Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến Th.S Phan Thanh Diễm, người đã tận tình hướng dẫn, chỉ dạy tơi trong suốt q trình nghiên cứu để hồn thành khóa luận.

Tơi cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến trường THPT Trần Văn Dư – Phú Ninh đã tạo điều kiện giúp đỡ tơi trong thời gian thực hiện khóa luận.

Cuối cùng, lời cảm ơn xin được gởi đến gia đình, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt q trình thực hiện đề tài.

Tơi xin chân thành cảm ơn!

Tam Kỳ, tháng 4 năm 2017 Sinh viên thực hiện

Võ Thị Thanh Trang

</div><span class="text_page_counter">Trang 4</span><div class="page_container" data-page="4">

<b>Phần 1: MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài </b>

Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là một trong những mục tiêu lớn của ngành Giáo dục và Đào tạo. Cụ thể là đổi mới phương pháp dạy học tức là khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học, từng bước áp dụng các phương pháp tiên tiến vào quá trình dạy và học nhằm đảm bảo điều kiện, thời gian tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Trong những năm gần đây, ngành Giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới về chương trình, sách giáo khoa và phương pháp dạy học. Tuy nhiên, việc dạy học ở nhà trường phổ thơng hiện nay cịn nhiều bất cập, chưa theo kịp yêu cầu của xã hội đặt ra, các phương pháp học tập trong nhà trường dường như vẫn tn theo mơ hình truyền thống nên chưa phát huy tối đa được khả năng sáng tạo của các em.

Đổi mới phương pháp dạy học là một trọng tâm của đổi mới giáo dục. Luật giáo dục (Điều 28) yêu cầu: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.

Để thực hiện yêu cầu trên đây, có thể coi việc chuyển từ dạy học lấy giáo viên làm trung tâm của quá trình dạy học sang dạy học định hướng vào người học (dạy học định hướng học sinh), phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo của học sinh là quan điểm lý luận dạy học có tính định hướng chung cho việc đổi mới phương pháp dạy học.

Việc hình thành cho học sinh một thế giới quan khoa học và niềm say mê khoa học, sáng tạo là một mục tiêu quan trọng của giáo dục hiện đại, khi mà nền kinh tế tri thức đang dần chiếm ưu thế tại các quốc gia trên Thế giới. Có rất nhiều phương pháp dạy học tích cực nhưng xét thấy “Bàn tay nặn bột” là phương pháp mới, thích hợp cho việc giảng dạy các kiến thức khoa học tự nhiên, khi đó, vai trị của người giáo viên ở đây không phải là truyền thụ những kiến thức khoa học dưới dạng thuyết trình, trình bày mà là giúp học sinh xây dựng kiến thức bằng cách cùng hành động với các em.

Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã được nhiều quốc gia trên Thế giới áp dụng vào chương trình giảng dạy. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay phương pháp này còn rất mới và chỉ mới được áp dụng ở các trường tiểu học và THCS mà chưa áp dụng nhiều trong các trường THPT. Trong khi đó Sinh học 10 cơ bản là một trong những nội dung có thể sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”

<i><b>vào trong giảng dạy rất hiệu quả. Chính vì những lý do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Vận </b></i>

<i><b>dụng phương pháp bàn tay nặn bột trong dạy học môn Sinh học lớp 10 cơ bản”. </b></i>

<b>1.2. Mục tiêu của đề tài </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 5</span><div class="page_container" data-page="5">

- Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học theo phương pháp “Bàn tay

<b>1.3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 1.3.1. Đối tượng nghiên cứu </b>

- Nội dung chương trình mơn Sinh học lớp 10 cơ bản theo chuẩn kiến thức kỹ năng để áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào trong quá trình dạy và học.

<b>1.3.2. Phạm vi nghiên cứu </b>

- Đề tài tập trung nghiên cứu soạn một số bài trong chương trình mơn Sinh học lớp 10 cơ bản theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.

<b>1.4. Nhiệm vụ nghiên cứu </b>

- Nghiên cứu đặc điểm của phương pháp BTNB.

- Nghiên cứu các bước của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB.

- Nghiên cứu thực trạng việc dạy học theo phương pháp BTNB trong dạy học môn Sinh học ở trường THPT hiện nay.

- Tổ chức soạn một số bài có nội dung thuộc chương trình mơn Sinh học lớp 10 theo phương pháp “Bàn tay nặn bột”.

<b>1.5. Nội dung nghiên cứu </b>

Các bài soạn theo phương pháp BTNB: bài 11, bài 14, bài 16, bài 17, bài 30 SGK Sinh học 10 cơ bản.

<b>1.6. Phương pháp nghiên cứu </b>

<b>1.6.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết </b>

- Sử dụng phương pháp này để xem xét tìm hiểu những vấn đề có lý thuyết liên quan đến đề tài.

- Lý thuyết nghiên cứu thông qua sách, báo, tạp chí, một số luận văn sau đại học.

<b>1.6.2. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia </b>

- Xin ý kiến của giáo viên hướng dẫn thực tập sư phạm góp ý cho giáo án để phù hợp với học lực của các em, ý kiến của giáo viên hướng dẫn khóa luận về đề tài nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 6</span><div class="page_container" data-page="6">

<b>1.6.3. Phương pháp so sánh </b>

- Đây được xem như là phương tiện để làm rõ những nét khác biệt của phương pháp dạy học tích cực so với phương pháp dạy học truyền thống, đồng thời thấy được sự đổi mới của phương pháp dạy học tích cực mà cụ thể ở đây là phương pháp bàn tay nặn bột vào dạy học trong chương trình Sinh học lớp 10 cơ bản ở trường THPT.

<b>1.6.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm </b>

- Thực hành soạn giáo án theo phương pháp BTNB.

</div><span class="text_page_counter">Trang 7</span><div class="page_container" data-page="7">

<b>Phần 2: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU </b>

<b>Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” TRONG CHƯƠNG TRÌNH </b>

<b> SINH HỌC Ở TRƯỜNG THPT 1.1. Lịch sử nghiên cứu của phương pháp “Bàn tay nặn bột” 1.1.1. Trên Thế giới </b>

Ngay từ khi mới ra đời, phương pháp BTNB đã được tiếp nhận và truyền bá rộng rãi. Nhiều quốc gia trên Thế giới đã hợp tác với Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong việc phát triển phương pháp này như Brazil, Campuchia, Bỉ, Trung Quốc, Thái Lan, Colombia, Hy Lạp, Malaysia, Đức…, trong đó có Việt Nam thơng qua Hội gặp gỡ Việt Nam. Tính đến năm 2009, có khoảng hơn 30 nước tham gia trực tiếp vào chương trình BTNB.

Nhờ sự bảo trợ của Vụ Công nghệ - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp, trang web quốc tế dành cho 9 quốc gia thành lập năm 2003 nhằm đăng tải tài liệu cung cấp bởi các GV, giảng viên theo ngôn ngữ của mỗi nước thành viên tham gia.

Tháng 7 năm 2004, trường hè Quốc tế về BTNB với chủ đề “Bàn tay nặn bột trên Thế giới: trao đổi, chia sẻ, đào tạo” đã được tổ chức tại Erice – Ý dành cho các chuyên gia Pháp và các nước.

Hội đồng Khoa học Quốc tế và Hội các Viện Hàn lâm Quốc tế phối hợp tài trợ để thành lập cổng thông tin điện tử về giáo dục khoa học, trong đó nội dung phương pháp BTNB được đưa vào. Cổng thông tin đa ngôn ngữ này được thành lập vào tháng 4 năm 2004.

Nhiều dự án theo vùng lãnh thổ, châu lục được hình thành để giúp đỡ, hỗ trợ cho việc phát triển phương pháp BTNB tại các quốc gia. Có thể kể đến dự án Pollen (Hạt phấn) của châu Âu, dự án phát triển của phương pháp BTNB trong hệ thống các lớp song ngữ tại Đơng Nam Á của VALOFRASE (Chương trình phát triển tiếng Pháp ở Đông Nam Á), dự án giảng dạy khoa học cho các nước nói tiếng Ả - rập…

<b>1.1.2. Tại Việt Nam </b>

Phương pháp BTNB được đưa vào Việt Nam là một cố gắng nổ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam. Phương pháp BTNB được giới thiệu tại Việt Nam cùng với thời điểm mà phương pháp này mới bắt đầu ra đời và thử nghiệm ứng dụng trong dạy học ở Pháp.

Từ năm 2000 đến 2002, phương pháp BTNB đã được phổ biến cho sinh viên Đại học Sư phạm Hà Nội, được áp dụng thí nghiệm tại trường Tiểu học Đoàn Thị Điểm, Trường Herman Gmeiner Hà Nội và trường thực hành Nguyễn Tất Thành (thuộc Đại học Sư phạm Hà Nội). Chủ đề giảng dạy là: nước, khơng khí và âm thanh.

</div><span class="text_page_counter">Trang 8</span><div class="page_container" data-page="8">

Năm 2002, nhóm nghiên cứu tăng thêm các lớp tiểu học áp dụng phương pháp BTNB tại Hà Nội và mở thêm các lớp tại Huế và tại Thành phố Hồ Chí Minh. Lớp tập huấn về phương pháp BTNB cho GV được tổ chức vào tháng 9/2002 tại Hà Nội.

Từ năm 2002 đến nay, dưới sự giúp đỡ của Hội gặp gỡ Việt Nam các lớp huấn luyện về phương pháp BTNB đã được triển khai cho các GV cốt cán và các cán bộ quản lý tại nhiều địa phương trong toàn quốc. Các giảng viên tập huấn là các Giáo sư tình nguyện tại Pháp đến từ Viện Đào tạo GV (IUFM), Đại học Tây Bretagne có quyết định phê duyệt đề án.

Năm 2011, Bộ GD – ĐT có quyết định phê duyệt đề án “Triển khai phương pháp BTNB ở trường phổ thông giai đoạn 2011 – 2015” với hai giai đoạn: từ 2011 – 2013 thực hiện thí điểm, từ 2014 – 2015 thực hiện đại trà trên toàn quốc.

Phương pháp BTNB đã được nhiều người nghiên cứu và áp dụng vào trong giảng dạy ở các môn khoa học tự nhiên ở các cấp học từ tiểu học đến THCS như: “Phương pháp BTNB trong dạy học các môn khoa học ở trường tiểu học và THCS” của nhóm tác giả Nguyễn Vinh Hiển (chỉ đạo nội dung) – Phạm Ngọc Định – Nguyễn Thị Thanh Hương – Trần Thanh Sơn – Nguyễn Xuân Thành; “Vận dụng phương pháp BTNB trong dạy học mơn Sinh học THCS” của nhóm tác giả Nguyễn Vinh Hiển – Ngô Văn Hưng – Nguyễn Thị Hoa…Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu nào vận dụng phương pháp BTNB vào trong giảng dạy Sinh học ở trường THPT, cụ thể là chương trình Sinh học lớp 10 cơ bản.

<b>1.2. Cơ sở lý luận chung về phương pháp BTNB 1.2.1. Khái quát về phương pháp BTNB </b>

"Bàn tay nặn bột" là mơ hình giáo dục tương đối mới mẻ trên Thế giới, có tên tiếng Anh là "Hands on", tiếng Pháp là "La main à la pâte", đều có nghĩa là "Bắt tay vào hành động". BTNB là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên. BTNB chú trọng đến việc hình thành kiến thức cho học sinh bằng các thí nghiệm tìm tịi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra.

Phương pháp BTNB là ý tưởng sáng tạo của nhà vật lý người Mỹ từng nhận giải Nobel năm 1988 Leon Ledeman. Tiếp đó, Georges Charpak - nhà vật lý có tên tuổi người Pháp đã kế tục và triển khai phương pháp này tại một số trường tiểu học ở Paris và đã đạt được những thành công nhất định. Họ chủ trương cho học sinh tiểu học tiếp xúc với khoa học và cách nghiên cứu một vấn đề khoa học bằng việc chính các em tự tiến hành làm thí nghiệm dưới sự định hướng, giúp đỡ của giáo viên, tránh tình trạng giáo viên dạy học bằng

</div><span class="text_page_counter">Trang 9</span><div class="page_container" data-page="9">

cách thông báo cho học sinh một cách đơn giản “Chân lý là thế đấy” và bắt các em phải chấp nhận. Với một vấn đề khoa học đặt ra, học sinh có thể đặt ra các câu hỏi, các giả thuyết từ những hiểu biết ban đầu, tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu để kiểm chứng và đưa ra những kết luận phù hợp thơng qua thảo luận, so sánh, phân tích, tổng hợp kiến thức.

<b>1.2.2. Đặc điểm của phương pháp BTNB </b>

- Mục tiêu hàng đầu của phương pháp là giúp học sinh tiếp cận dần các khái niệm khoa học và kỹ thuật thực hành, kèm theo sự vững vàng trong diễn đạt nói và viết.

- Phương pháp "Bàn tay nặn bột" đưa ra một tiến trình ưu tiên cho việc xây dựng tri thức bằng hoạt động, thí nghiệm và thảo luận.

- Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tịi, thực nghiệm, xây dựng một tập thể học tập tốt và thu được kiến thức cơ bản để hiểu biết thế giới tự nhiên và kĩ thuật.

- Phương pháp này đặt học sinh vào vị trí của một nhà nghiên cứu khoa học. Các em tự mình tìm tịi, khám phá ra kiến thức của bài học thông qua việc tiến hành các thí nghiệm khoa học, trao đổi, thảo luận nhóm dưới sự hướng dẫn của giáo viên.

- Học sinh học tập nhờ hành động, các em học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi vấn. Bạn bè trao đổi quan niệm về một vấn đề khoa học nào đó với nhau và được kiểm tra (sự đúng sai) bằng cách tiến hành làm các thao tác thực nghiệm.

- Trong phương pháp “Bàn tay bặn bột”, học sinh được thoải mái đưa ra quan điểm của mình về sự vật, hiện tượng. Đó là những hiểu biết ban đầu của học sinh. Những hiểu biết này có thể đúng, chưa đầy đủ, hoặc có thể sai, đôi khi là ngây thơ, ngờ nghệch nhưng vẫn được tôn trọng, động viên và khích lệ. Khi học sinh đưa ra biểu tượng ban đầu của mình về vấn đề đặt ra, giáo viên không đưa ra lời nhận xét đúng sai mà để các em tự nhận thấy được trong quá trình kiểm tra giả thuyết.

<b>1.2.3. Nguyên tắc của phương pháp BTNB 1.2.3.1. Nguyên tắc về tiến trình sư phạm </b>

<i>* HS quan sát một sự vật hay một hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. </i>

Sự vật ở đây được hiểu rộng bao gồm cả những sự vật có thể sờ được bằng tay và tiến hành các thí nghiệm với nó và cả những sự vật khơng thể tiếp xúc được.

<i>* Trong quá trình tìm hiểu, HS lập luận, bảo vệ ý kiến của mình, đưa ra tập thể thảo luận những ý nghĩ và những kết luận cá nhân, từ đó có những hiểu biết mà nếu chỉ có những hoạt động, thao tác riêng lẻ khơng đủ tạo nên. </i>

Nguyên tắc này nhấn mạnh đến sự khuyến khích HS suy nghĩ và đưa ra những lập luận để bảo vệ cho ý kiến cá nhân của mình, nhấn mạnh đến vai trị của hoạt động nhóm trong học tập.

</div><span class="text_page_counter">Trang 10</span><div class="page_container" data-page="10">

Chỉ khi trao đổi những suy nghĩ cá nhân của HS với những HS khác, HS mới nhận thấy những mâu thuẫn trong nhận thức. Việc trình bày của HS là một yếu tố quan trọng để rèn luyện ngôn ngữ. Vai trò của GV là trung gian giữa kiến thức khoa học và HS. GV sẽ tác động vào những thời điểm nhất định để định hướng sự thảo luận và giúp HS thảo luận xung quanh vấn đề mà các em đang quan tâm.

<i>* Những hoạt động do GV đề xuất cho HS được tổ chức theo tiến trình sư phạm nhằm nâng cao dần mức độ học tập. Các hoạt động này làm cho các chương trình học tập được nâng cao lên và dành cho HS một phần tự chủ khá lớn. </i>

Mức độ nhận thức được hình thành theo quy luật từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Để HS hiểu sâu sắc kiến thức, yêu cầu của sự hình thành kiến thức cũng theo quy tắc này. Từ hiểu biết cơ bản, rồi nâng dần lên theo cấp độ tương ứng với khả năng nhận thức của HS sẽ giúp HS tiếp thu kiến thức hiệu quả và chắc chắn.

GV dành sự tự chủ cho HS có nghĩa là tơn trọng và lắng nghe ý kiến của HS, chấp nhận các lỗi sai và sự hiểu lầm ban đầu, HS được chủ động làm thí nghiệm, chủ động trao đổi, thảo luận… GV dành sự tự chủ cho HS cũng chính là thay đổi vai trị của GV trong q trình dạy học từ GV đóng vai trị trung tâm chuyển sang HS đóng vai trị trung tâm, chủ động chiếm lĩnh kiến thức.

<i>* Cần một lượng tối thiểu là 2 giờ/tuần trong nhiều tuần liền cho một đề tài. Sự liên tục của các hoạt động và những phương pháp giáo dục được đảm bảo trong suốt thời gian học tập. </i>

Một chủ đề khoa học được giảng dạy trong nhiều tuần sẽ giúp cho HS có thời gian để tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng và hình thành kiến thức. Điều này cũng có lợi cho HS trong việc khắc sâu, ghi nhớ kiến thức thay vì giảng dạy ồ ạt, nhồi nhét kiến thức, "cưỡi ngựa xem hoa".

Các kiến thức trong chương trình các bậc học, lớp học đều có sự kế thừa, liên quan với nhau. Khi thiết kế hoạt động dạy học, GV cần chú ý đến tính kế thừa của các vấn đề đã được đưa ra ở cấp học dưới. Càng có sự trao đổi thơng tin, thống nhất giữa các GV của các bậc học, các lớp thì hoạt động dạy học càng có hiệu quả. GV dạy môn khoa học ở một lớp nào đó cần tìm hiểu chương trình cũng như những vấn đề đã dạy, các phương pháp mà các GV những năm trước đã áp dụng ở lớp này để tham khảo trong quá trình thiết kế các hoạt động dạy học.

<i>* Bắt buộc mỗi HS phải có một quyển vở thực hành do chính các em ghi chép theo cách thức và ngôn ngữ của các em. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 11</span><div class="page_container" data-page="11">

Vở thực hành là một đặc trưng quan trọng của phương pháp BTNB. Ghi chép trong vở thực hành được thực hiện bởi từng cá nhân HS. Thơng qua vở thực hành, GV cũng có thể tìm hiểu sự tiến bộ trong nhận thức hay biết mức độ nhận thức của HS để điều chỉnh hoạt động dạy học và hàm lượng kiến thức cho phù hợp. Ghi chép trong vở thực hành không những giúp HS làm quen với công tác nghiên cứu khoa học mà còn giúp HS rèn luyện ngơn ngữ (xem thêm phân tích ở phần "Vở thực hành").

<i>* Mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngôn ngữ viết và nói của HS. </i>

Nguyên tắc này nhấn mạnh mối liên hệ giữa dạy học kiến thức và rèn luyện ngơn ngữ (nói và viết) cho HS. Sự hiểu kiến thức nội tại bên trong HS sẽ được biểu hiện ra bằng ngôn ngữ khi HS phát biểu, trình bày, viết. GV cần quan tâm, tơn trọng và lắng nghe HS cũng như yêu cầu các HS khác lắng nghe ý kiến của bạn mình. Các thuật ngữ khoa học, khái niệm khoa học cũng được hình thành dần dần, giúp HS nắm vững và hiểu sâu sắc.

<b>1.2.3.2. Những đối tượng tham gia </b>

<i>* Các gia đình và/hoặc khu phố được khuyến khích thực hiện các công việc của lớp học. </i>

Nguyên tắc này nhấn mạnh vai trị của gia đình và xã hội trong việc phối kết hợp với nhà trường để thực hiện tốt q trình giáo dục HS. Ví dụ khi học về chủ đề mơi trường thì có thể đề nghị phụ huynh HS có hiểu biết sâu rộng về vấn đề này đến nói chuyện hay hướng dẫn cho HS cả lớp (hay tồn khối/trường); cũng có thể mở chiến dịch tuyên truyền bảo vệ môi trường chống biến đổi khí hậu ở xã/phường,…

<i>* Ở địa phương, các cơ sở khoa học (Trường Đại học, Cao đẳng, Viện nghiên cứu…) giúp các hoạt động của lớp theo khả năng của mình. </i>

Các trường học có thể mời các chuyên gia, các nhà khoa học, các giáo sư tới nói chuyện với HS trong lớp học hay giúp đỡ GV trong việc thiết kế hoạt động dạy học (kiến thức, thí nghiệm). Điều này là thực sự cần thiết, nhất là đối với các GV tiểu học và trung học cơ sở vì trong chương trình đào tạo chưa được tìm hiểu sâu về các kiến thức khoa học. Cần chú ý đến một số vấn đề mấu chốt rằng GV là người không thể thay thế trong hoạt động dạy học ở lớp, sự giúp đỡ tham gia vào lớp học (nếu có) của các nhà khoa học, chuyên gia chỉ dừng lại ở mức độ hỗ trợ GV. Đặc biệt nên khuyến khích các em HS giỏi lớp cuối cấp tiến hành nghiên cứu khoa học dưới sự hướng dẫn của một nhà khoa học để tập cho các em tư duy khoa học và ước mơ khoa học.

<i>* Ở địa phương, các viện đào tạo GV (Trường Cao đẳng Sư phạm, Đại học Sư phạm) giúp các GV về kinh nghiệm và phương pháp dạy học. </i>

</div><span class="text_page_counter">Trang 12</span><div class="page_container" data-page="12">

Cũng tương tự nguyên tắc trên, nguyên tắc này nhấn mạnh sự hợp tác giúp đỡ về mặt sư phạm, phương pháp, kinh nghiệm của các giảng viên, chuyên gia nghiên cứu về phương pháp BTNB giúp đỡ GV thiết kế giảng dạy, tư vấn giải đáp những vướng mắc của GV.

<i>* GV có thể tìm thấy trên internet các website có nội dung về những môđun kiến thức (bài học) đã được thực hiện, những ý tưởng về các hoạt động, những giải pháp thắc mắc. GV cũng có thể tham gia hoạt động tập thể bằng trao đổi với các đồng nghiệp, với các nhà sư phạm và với các nhà khoa học. GV là người chịu trách nhiệm giáo dục và đề xuất những hoạt động của lớp mình phụ trách. </i>

Từ sự cần thiết phải có nguồn thơng tin, các tư liệu giúp đỡ cho GV được đặt ra cấp thiết. GV cần được quan tâm giúp đỡ và hỗ trợ trong quá trình chuẩn bị các tiết học. Internet và các trang web là một kênh hỗ trợ quan trọng cho GV, nơi mà GV có thể trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm với nhau, đề xuất những vấn đề vướng mắc, các câu hỏi cho các chuyên gia, các nhà nghiên cứu để được giải đáp và giúp GV thực hiện tốt kế hoạch dạy học của mình.

<b>1.2.4. Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB 1.2.4.1. Cơ sở sư phạm của tiến trình dạy học </b>

Phương pháp BTNB đề xuất một tiến trình sư phạm ưu tiên xây dựng những tri thức (hiểu biết, kiến thức) bằng quan sát, thực nghiệm và thảo luận. Đó là sự thực hành khoa học bằng hành động, hỏi đáp, tìm tịi, thực nghiệm, xây dựng tập thể chứ không phải phát biểu lại các kiến thức có sẵn trong sách giáo khoa xuất phát từ sự ghi nhớ thuần túy. HS tự mình thực hiện các thí nghiệm, các suy nghĩ và thảo luận để hiểu được các kiến thức cho chính mình.

HS học tập nhờ hành động, cuốn hút mình trong hành động. HS học tập tiến bộ dần bằng cách tự nghi vấn. HS học tập bằng hỏi đáp với các HS cùng lớp (theo nhóm làm việc 2 người hoặc với nhóm lớn), bằng cách trình bày quan điểm cá nhân của mình, đối lập với quan điểm của bạn và về các kết quả thực nghiệm để kiểm tra sự đúng đắn và tính hiệu lực của nó.

GV, tùy theo tình hình, từ một câu hỏi của HS có thể đề xuất những tình huống cho phép tìm tịi một cách có lí lẽ. GV hướng dẫn HS chứ không làm thay. GV giúp đỡ HS làm sáng tỏ và thảo luận quan điểm của mình, đồng thời chú ý tuân thủ việc nắm bắt ngôn ngữ; GV cho HS phát biểu những kết luận có ý nghĩa từ các kết quả thu được, đối chiếu chúng với các kiến thức khoa học; GV điều hành hướng dẫn HS tập luyện để tiến bộ dần.

Các buổi học ở lớp được tổ chức xung quanh các chủ đề theo hướng tiến trình có thể đồng thời giúp HS tiếp thu được kiến thức, hiểu được phương pháp tiến hành và rèn luyện được ngôn ngữ viết và nói. Một thời lượng đủ cần thiết cho phép nắm bắt, tái tạo và tiếp thu một cách bền vững nội dung kiến thức.

</div><span class="text_page_counter">Trang 13</span><div class="page_container" data-page="13">

<b>1.2.4.2. Các bước của tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB </b>

<b>Bước 1: Tình huống xuất phát - câu hỏi nêu vấn đề </b>

Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS. Tình huống xuất phát nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Tình huống xuất phát càng rõ ràng thì việc dẫn nhập cho câu hỏi nêu vấn đề càng dễ. Tuy nhiên có những trường hợp khơng nhất thiết phải có tình huống xuất phát mới đề xuất được câu hỏi nêu vấn đề (tùy vào từng kiến thức và từng trường hợp cụ thể).

Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học (hay môdun kiến thức mà HS sẽ được học). Câu hỏi nêu vấn đề cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tị mị, thích tìm tịi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối khơng được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc khơng) đối với câu hỏi nêu vấn đề. Câu hỏi nêu vấn đề càng đảm bảo các yêu cầu nêu ra ở trên thì ý đồ dạy học của GV càng dễ thực hiện thành công.

<b>Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu của HS </b>

Tình huống xuất phát – câu hỏi nêu vấn đề

Hình thành biểu tượng ban đầ của HS

Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết

Thí nghiệm tìm tịi – nghiên cứu nhằm kiểm chứng giả thuyết

Kết quả kiểm tra

Kết luận và hệ thống hóa kiến thức Đúng

Sai

</div><span class="text_page_counter">Trang 14</span><div class="page_container" data-page="14">

Làm bộc lộ quan niệm ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi của HS là pha quan trọng, đặc trưng của phương pháp BTNB. Trong pha này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình trước khi được học kiến thức mới. Để làm bộc lộ quan niệm ban đầu của HS, GV có thể yêu cầu HS nhắc lại kiến thức cũ đã học có liên quan đến kiến thức mới của bài học. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có thể là bằng lời nói (thơng qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. Từ những quan niệm ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất các câu hỏi. Chú ý xoáy sâu vào những quan niệm liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học (hay mô đun kiến thức).

GV cần khéo léo chọn lựa một số quan niệm ban đầu khác biệt trong lớp để giúp HS so sánh, từ đó giúp HS đặt câu hỏi liên quan đến nội dung bài học. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các quan niệm ban đầu tiêu biểu trong số hàng chục quan niệm của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển sự thảo luận của HS nhằm giúp HS đề xuất các câu hỏi từ những sự khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Việc chọn lựa các quan niệm ban đầu không tốt sẽ dẫn đến việc so sánh và đề xuất câu hỏi của HS gặp khó khăn.

<b>Bước 3: Đề xuất giả thuyết và phương án kiểm chứng giả thuyết </b>

Từ các câu hỏi được đề xuất, GV nêu câu hỏi cho HS, đề nghị các em đề xuất các giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu để kiểm chứng các giả thuyết nhằm tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó. Các phương án thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu ở đây là các phương án để tìm ra câu trả lời như quan sát, thực hành thí nghiệm, nghiên cứu tài liệu…

Tùy theo kiến thức hay vấn đề đặt ra mà HS có thể đề xuất các phương án thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu khác nhau. Trong quá trình đề xuất phương án thực nghiệm, nếu ý kiến của HS nêu lên có ý đúng nhưng ngơn từ chưa chuẩn xác hoặc diễn đạt chưa rõ thì GV nên gợi ý và từng bước giúp HS hoàn thiện diễn đạt. GV cũng có thể yêu cầu các HS khác chỉnh sửa cho rõ ý. Đây là một vấn đề quan trọng trong việc rèn luyện ngôn ngữ cho HS. Trường hợp HS đưa ra ngay phương án đúng nhưng vẫn còn nhiều phương án khác khả thi thì GV nên tiếp tục hỏi các HS khác để làm phong phú các phương án tìm câu trả lời. GV có thể nhận xét trực tiếp nhưng yêu cầu các HS khác cho ý kiến về phương pháp mà HS đó nêu ra thì tốt hơn. Phương pháp BTNB khuyến khích HS tự đánh giá ý kiến của nhau hơn là của GV nhận xét.

Sau khi HS đề xuất được phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu, GV nêu nhận xét chung và quyết định tiến hành phương án với các dụng cụ đã chuẩn bị sẵn.

<b>Bước 4: Thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu nhằm kiểm chứng giả thuyết </b>

Từ các phương án thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu.

</div><span class="text_page_counter">Trang 15</span><div class="page_container" data-page="15">

Nếu phải làm thí nghiệm thì ưu tiên thực hiện thí nghiệm trực tiếp trên vật thật. Một số trường hợp không thể tiến hành thí nghiệm trên vật thật có thể làm trên mơ hình, hoặc cho HS quan sát tranh vẽ. Đối với phương pháp quan sát, GV cho HS quan sát vật thật trước, sau đó mới cho HS quan sát tranh vẽ khoa học hay mơ hình để phóng to những đặc điểm khơng thể quan sát rõ trên vật thật.

Khi tiến hành thí nghiệm, GV nêu rõ yêu cầu và mục đích thí nghiệm hoặc yêu cầu HS cho biết mục đích của thí nghiệm chuẩn bị tiến hành. Sau đó GV mới phát các dụng cụ và vật liệu thí nghiệm tương ứng với hoạt động. Nếu để sẵn các vật dụng thí nghiệm trên bàn HS sẽ nghịch các đồ vật mà không chú ý đến các đồ vật khác trong lớp; hoặc HS tự ý thực hiện thí nghiệm trước khi lệnh thực hiện của GV được ban ra; hoặc HS sẽ dựa vào đó để đốn các thí nghiệm cần phải làm (trường hợp này mặc dù HS có thể đề xuất thí nghiệm đúng nhưng ý đồ dạy học của GV khơng đạt).

Các thí nghiệm được tiến hành lần lượt tương ứng với từng môđun kiến thức. Mỗi thí nghiệm được thực hiện xong, GV nên dừng lại để HS rút ra kết luận (tìm thấy câu trả lời cho các vấn đề đặt ra tương ứng). GV lưu ý HS ghi chép vật liệu thí nghiệm, cách bố trí và thực hiện thí nghiệm (mơ tả bằng lời hay vẽ sơ đồ), ghi chú lại kết quả thực hiện thí nghiệm, kết luận sau thí nghiệm vào vở thực hành. Phần ghi chép này GV để HS ghi chép tự do, khơng nên gị bó và có khuôn mẫu quy định, nhất là đối với những lớp mới làm quen với phương pháp BTNB. Đối với các thí nghiệm phức tạp và nếu có điều kiện, GV nên thiết kế một mẫu sẵn để HS điền kết quả thí nghiệm, vật liệu thí nghiệm. Ví dụ như các thí nghiệm phải ghi số liệu theo thời gian, lặp lại thí nghiệm ở các điều kiện nhiệt độ khác nhau…

Khi HS làm thí nghiệm, GV bao qt lớp, quan sát từng nhóm. Nếu thấy nhóm hoặc HS nào làm sai theo u cầu thì GV chỉ nhắc nhỏ trong nhóm đó hoặc với riêng HS đó, khơng nên thơng báo lớn tiếng chung cho cả lớp vì làm như vậy sẽ phân tán tư tưởng và ảnh hưởng đến công việc của các nhóm HS khác. GV chú ý yêu cầu HS thực hiện độc lập các thí nghiệm trong trường hợp các thí nghiệm được thực hiện theo từng cá nhân. Nếu thực hiện theo nhóm thì cũng yêu cầu tương tự như vậy. Thực hiện độc lập theo cá nhân hay nhóm để tránh việc HS nhìn và làm theo cách của nhau, thụ động trong suy nghĩ và cũng tiện lợi cho GV phát hiện các nhóm hay các cá nhân xuất sắc trong thực hiện thí nghiệm nghiên cứu, đặc biệt là các thí nghiệm được thực hiện với các dụng cụ, vật liệu thí nghiệm giống nhau nhưng nếu bố trí thí nghiệm khơng hợp lý sẽ

<b>không thu được kết quả thí nghiệm như ý. </b>

<b>Bước 5: Kết luận và hệ thống hóa kiến thức </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 16</span><div class="page_container" data-page="16">

Sau khi thực hiện thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học.

GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm (rút ra kiến thức của bài học). GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại với các ý kiến ban đầu (quan niệm ban đầu) trước khi học kiến thức. Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau q trình thực nghiệm tìm tịi - nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ lâu hơn, khắc sâu kiến thức.

Nếu có điều kiện, GV có thể in sẵn tờ rời tóm tắt kiến thức của bài học để phát cho HS dán vào vở thực hành hoặc tập hợp thành một tập riêng để tránh mất thời gian ghi chép. Vấn đề này hữu ích cho HS các lớp nhỏ tuổi ở tiểu học. Đối với các lớp trung học cơ sở thì GV nên tập làm quen cho các em tự ghi chép, chỉ in tờ rời nếu kiến thức phức tạp và dài.

<b>1.2.5. Ý nghĩa của phương pháp BTNB </b>

Ý nghĩa của phương pháp BTNB là tạo nên tính tị mị, kích thích sự ham muốn tìm tịi khám phá, say mê khoa học của HS. Ngoài việc chú trọng đến kiến thức khoa học, phương pháp BTNB còn chú ý nhiều đến việc rèn luyện kỹ năng diễn đạt thông qua việc rèn luyện ngơn ngữ nói và ngơn ngữ viết cho HS.

<b>1.2.6. Mối quan hệ giữa phương pháp BTNB với các phương pháp dạy học khác </b>

Ngày nay, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông, chúng ta thấy xuất hiện khá nhiều phương pháp và hình thức dạy học mới như: Dạy học giải quyết vấn đề; Dạy học nêu và giải quyết vấn đề; Dạy học theo lí thuyết kiến tạo; Dạy học dự án, Dạy học theo trạm; Dạy học theo góc... với nhiều kĩ thuật tố chức hoạt động học tích cực cho HS. Tuy có những điểm khác biệt nhau nhưng nhìn chung thì các chiến lược dạy học, phương pháp dạy học đó đều được xây dựng trên tinh thần dạy học giải quyết vấn đề thông qua việc tổ chức cho HS hoạt động tự chủ chiếm lĩnh kiến thức, hình thành và phát triển năng lực trí tuệ cũng như quan điểm đạo đức, thái độ.

Đối chiếu với tiến trình sư phạm của phương pháp BTNB, chúng ta có thể nhận thấy điểm tương đồng của phương pháp này so với các phương pháp dạy học tích cực khác là ở chỗ đều nhằm tổ chức cho HS hoạt động tích cực, tự lực giải quyết vấn đề. Về cơ bản thì tiến trình dạy học cũng được diễn ra theo 3 pha chính là: chuyển giao nhiệm vụ cho

</div><span class="text_page_counter">Trang 17</span><div class="page_container" data-page="17">

HS; HS hoạt động tự chủ giải quyết vấn đề; báo cáo, hợp thức hóa và vận dụng kiến thức mới. Điểm khác biệt của phương pháp BTNB so với các phương pháp khác là ở chỗ các tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề là những sự vật hay hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với đời sống, dễ cảm nhận và các em sẽ thực hành trên những cái đó. Đặc biệt, phương pháp BTNB chú trọng việc giúp cho HS bộc lộ quan niệm ban đầu để tạo ra các mâu thuẫn nhận thức làm cơ sở đề xuất các câu hỏi và giả thuyết. Hoạt động tìm tịi - nghiên cứu trong phương pháp BTNB rất đa dạng, trong đó các phương án thí nghiệm nếu được tiến hành chủ yếu là các phương án được đề xuất bởi chính HS, với những dụng cụ đơn giản, dễ kiếm. Phương pháp BTNB, HS bắt buộc phải có mỗi em một quyển vở thực hành do các em ghi chép theo cách thức và ngơn ngữ của chính các em. Thơng qua các hoạt động như vậy, phương pháp BTNB nhằm đạt được mục tiêu chính là sự chiếm lĩnh dần dần của HS các khái niệm khoa học và kĩ thuật được thực hành, kèm theo là sự củng cố ngơn ngữ viết và nói.

<b>1.2.7. Những u cầu cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tịi – nghiên cứu trong phương pháp BTNB </b>

Dạy học theo phương pháp BTNB hoàn toàn khác nhau giữa các lớp khác nhau và phụ thuộc vào trình độ của HS. Giảng dạy theo phương pháp BTNB bắt buộc GV phải năng động, không theo một khuôn mẫu nhất định (một giáo án nhất định). GV có thể chủ động tồn quyền biên soạn tiến trình giảng dạy của mình cho phù hợp với từng đối tượng HS, từng lớp học. Tuy vậy, việc giảng dạy theo phương pháp BTNB khơng phải hồn tồn tự do mà bên cạnh đó cần đảm bảo một số các yêu cầu cơ bản sau đây:

- HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. - Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học.

- Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi HS nhiều kỹ năng. Một trong các kỹ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích.

- Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà HS cịn cần phải biết lập luận, trao đổi, biết viết cho mình và cho người khác hiểu.

- Dùng tài liệu khoa học để kết thúc q trình tìm tịi- nghiên cứu. - Khoa học là một công việc cần sự hợp tác.

<b>1.2.8. Một số lưu ý khi áp dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học </b>

- Để tiện lợi cho việc tổ chức hoạt động nhóm thì khơng nên chia nhóm HS q đơng, lớp học nên được sắp xếp bàn ghế theo nhóm cố định, có chỗ dành riêng để các vật dụng dự kiến làm thí nghiệm cho HS.

</div><span class="text_page_counter">Trang 18</span><div class="page_container" data-page="18">

- Trong q trình HS thảo luận sẽ có nhiều ý kiến đưa ra trái ngược nhau. Vì vậy, GV cần hướng dẫn cho HS thảo luận, giúp các em tìm thấy sự thống nhất ý kiến và khuyến khích HS thảo luận tích cực.

- Trong các tiết học theo phương pháp BTNB, GV cần nhanh chóng nắm bắt ý kiến phát biểu của từng HS và phân loại các ý tưởng đó để thực hiện ý đồ dạy học.

- Mỗi HS phải có một quyển vở thí nghiệm. GV hướng dẫn HS sử dụng phần ghi chép trong vở thí nghiệm như một cơng cụ hữu ích để so sánh kết quả, ý tưởng với các HS khác, theo dõi kết quả của cá nhân, tìm thấy những lý lẽ để giải thích cho thí nghiệm của mình…

- Khơng nêu tên bài học trước khi học. Không nên cho HS biết trước kiến thức của bài học mà phải để các em tự khám phá ra chúng.

- Không nên để các em sử dụng SGK để trả lời câu hỏi mà GV đưa ra vì như vậy sẽ làm cho HS có thói quen ỷ lại, khơng chịu suy nghĩ, tìm tịi trong học tập. SGK có thể chỉ được sử dụng làm tài liệu để so sánh với kết quả nghiên cứu của HS ở cuối tiết học.

<b>1.3. Cơ sở thực tiễn về phương pháp BTNB </b>

<b>1.3.1. Đặc điểm của môn Sinh học và việc sử dụng phương pháp BTNB trong dạy học môn Sinh học </b>

<b>1.3.1.1. Đặc điểm của môn Sinh học </b>

- Là một môn Khoa học, được chứng minh bằng những hiện tượng tự nhiên, với những thí nghiệm thực tế, trên nền tảng Toán học.

- Là một môn dùng nhiều lý luận, lập luận để đặt vấn đề và phản biện dẫn đến kết quả. Nên mỗi câu, mỗi ý đều phải chặt chẽ nhau.

<b>1.3.1.2. Việc sử dụng phương pháp BTNB trong dạy học môn Sinh học ở trường THPT </b>

Phương pháp “Bàn tay nặn bột” đã được nhiều quốc gia trên Thế giới áp dụng vào chương trình giảng dạy. Tuy nhiên, ở nước ta hiện nay phương pháp này còn rất mới và cụ thể, phương pháp BTNB chỉ mới được áp dụng ở các trường tiểu học và THCS mà chưa áp dụng nhiều trong các trường THPT. Trong khi đó Sinh học 10 cơ bản là một trong những nội dung có thể sử dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” vào trong giảng dạy rất

<b>hiệu quả. </b>

<b>1.3.2. Thực trạng của việc dạy học theo phương pháp BTNB ở trường THPT hiện nay </b>

HIện nay, Bộ GD – ĐT đang thực hiện đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục, trong đó đổi mới phương pháp dạy học là một trong những nhiệm vụ cấp bách. Cùng với các phương pháp dạy học tích cực khác đang tiếp tục thực hiện, phương pháp BTNB đã được bộ GD – ĐT

</div><span class="text_page_counter">Trang 19</span><div class="page_container" data-page="19">

quyết định đầu tư nghiên cứu, biên soạn tài liệu, tổ chức tập huấn dần đưa vào việc giảng dạy ở các trường phổ thông.

Phương pháp BTNB là một phương pháp có tiến trình dạy học rõ ràng, dễ hiểu, có thể áp dụng được ở điều kiện của Việt Nam. Đội ngũ cán bộ quản lý và GV ln nhiệt tình, ham học hỏi là điều kiện tốt thúc đẩy việc áp dụng phương pháp BTNB vào trong dạy học. Qua quá trình thử nghiệm áp dụng giảng dạy phương pháp BTNB vào trong các lớp học, có thể nhận thấy sự ham học và yêu thích của HS. Các em hứng thú với những hoạt động tìm hiểu kiến thức mới. Điều này chứng tỏ HS luôn ham thích được học tập, hăng say và tìm tịi sáng tạo. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên thì vẫn tồn tại một số vấn đề. Đó là, lâu nay, việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng rất hạn chế, đa phần chỉ dạy theo phương pháp truyền thống, mà cách dạy chưa phát huy được sự tư duy, sáng tạo, chưa thực sự kích thích, lơi cuốn được các em trong việc tích cực, chủ động tìm tịi, phát hiện và chiếm lĩnh kiến thức của bài dạy.

Qua tìm hiểu cho thấy tỷ lệ GV giảng dạy theo các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng là cịn rất ít. Nguyên nhân của tình trạng trên, về phía GV đó là: GV có trình độ chun mơn và nghiệp vụ sư phạm còn chưa đồng đều, GV còn chưa được tiếp cận hoặc chưa được tập huấn để hiểu rõ về phương pháp BTNB, đối với các em HS thì trình độ logic của các em cịn rất hạn chế, lớp có sỉ số đơng nên khi thảo luận nhóm rất dễ ồn ào, hơn nữa HS cấp THPT cịn ì, lười hoạt động và suy nghĩ…

<b>Chương 2: VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP “BÀN TAY NẶN BỘT” TRONG DẠY HỌC MÔN SINH HỌC LỚP 10 CƠ BẢN </b>

<b>2.1. Xác định cấu trúc, nội dung kiến thức dạy theo phương pháp BTNB trong dạy học môn Sinh học lớp 10 cơ bản </b>

<b>* Cấu trúc </b>

Cấu trúc chương trình Sinh học lớp 10 cơ bản bao gồm 3 phần với 33 bài. Phần 1: Giới thiệu chung về thế giới sống gồm 2 bài; phần 2: Sinh học tế bào gồm 19 bài, phần 3: Sinh học vi sinh vật gồm 12 bài.

- Trong phạm vi nghiên cứu, tôi chỉ tiến hành tổ chức soạn 1 số bài theo phương pháp BTNB đó là: bài 11, bài 14, bài 16, bài 17, bài 30.

- Tôi chọn dạy một số bài trên theo phương pháp BTNB vì đặc trưng của phương pháp BTNB là: HS phải tự đề xuất được các phương án thí nghiệm và tự lực tiến hành các thí nghiệm

</div><span class="text_page_counter">Trang 20</span><div class="page_container" data-page="20">

tìm tịi – nghiên cứu.

<b> * Nội dung </b>

Hệ thống các kiến thức đi từ thấp đến cao: giới thiệu chung về thế giới sống, sinh học tế bào và sinh học vi sinh vật. Nội dung khung chương trình Sinh học 10 phù hợp để áp dụng phương pháp BTNB vào trong giảng dạy nhằm giúp HS chủ động, tích cực hơn trong việc tìm kiếm kiến thức.

<b>2.2. Lựa chọn chủ đề dạy học Sinh học lớp 10 cơ bản theo phương pháp BTNB </b>

Những yêu cầu mang tính nguyên tắc của phương pháp BTNB là sự định hướng quan trọng cho việc lựa chọn các chủ đề dạy học. Việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải đảm bảo một số yêu cầu:

- Các chủ đề dạy học phải gần gũi với đời sống mà HS dễ cảm nhận và đã có ít nhiều những quan niệm ban đầu về chúng.

- Việc lựa chọn các chủ đề dạy học cần phải được tổ chức thành hệ thống từ thấp đến cao trong phạm vi một lớp cũng như cả cấp học.

- Việc lựa chọn các chủ đề dạy học theo phương pháp BTNB cần phải chú ý đến một điểm rất quan trọng của phương pháp này là HS phải tự đề xuất được các phương án thí nghiệm và tự lực tiến hành các thí nghiệm tìm tịi – nghiên cứu.

Thiết bị dạy học góp phần làm cho tiết học trở nên sinh động, dễ hiểu, giúp HS tri giác trực tiếp đối tượng, phát triển năng lực nhận thức, khả năng quan sát, tư duy. Trong phương pháp BTNB, thiết bị dạy học được sử dụng bao gồm các thiết bị dạy học truyền thống và các thiết bị dạy học hiện đại. Việc kết hợp hài hòa các loại thiết bị dạy học sẽ tạo được hứng thú, tăng hiệu quả học tập cho HS và giảm sự vất vả cơ bản của GV trong quá

- Đặt câu hỏi "Tại sao?".

- Tái hiện kiến thức cũ, liên tưởng đến các hiện tượng thực tế có liên

- Nêu các câu hỏi gợi ý.

- Thông báo các kiến thức có liên quan. - Chỉnh lí, giúp HS diễn đạt giả thuyết.

- Liên tưởng các hiện tượng thực tế. - Suy nghĩ, thảo luận thêm về các kiến thức đã có nhằm giải đáp câu

</div><span class="text_page_counter">Trang 21</span><div class="page_container" data-page="21">

- Yêu cầu HS thiết kế thí nghiệm. - Gợi ý về nguyên tắc của thí nghiệm. - Hướng dẫn thiết kế thí nghiệm. - Hướng dẫn lập mẫu phiếu học tập. - Làm mẫu một số thao tác khó.

hỏi "Tại sao?".

- Có suy luận mới (giả thuyết). - Tiếp nhận nhiệm vụ thiết kế thí nghiệm.

- Xác định nguyên tắc làm thí nghiệm.

- Suy nghĩ, hình dung và mơ tả cách làm thí nghiệm, dự đốn kết quả thí nghiệm hoặc làm sẵn thí nghiệm ở nhà đem đến lớp biểu diễn, trình bày kết quả cho HS xem.

Làm thí nghiệm ở nhà hoặc quan sát thí nghiệm do GV biểu diễn trên lớp, thảo luận, rút ra nhận xét, kết luận sơ bộ, ghi vào phiếu học tập.

<b>Rút ra kết luận </b>

- Tổ chức việc báo cáo, trình bày kết quả thí nghiệm. Bổ khuyết các thiếu sót Đọc tài liệu, tìm hiểu thực tế, thảo luận để lĩnh hội kiến thức sinh thái, kĩ thuật tổng hợp, làm lại thí nghiệm được GV biểu diễn cho quan sát trên lớp.

<b>2.4. Điều kiện để thực hiện việc dạy học theo phương pháp BTNB có hiệu quả * Về điều kiện, cơ sở vật chất </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 22</span><div class="page_container" data-page="22">

Hiện nay, việc bố trí bàn ghế trong lớp học là theo dãy, nối tiếp nhau, không thuận lợi cho việc tổ chức học nhóm. Trong khi đó, phần lớn các trường học chưa có phịng học bộ mơn và phịng thí nghiệm để thuận lợi cho việc giảng dạy các bộ mơn khoa học.

Trang thiết bị nói chung trong các lớp học chưa đầy đủ để phục vụ cho việc tổ chức các hoạt động dạy học, nhất là còn thiếu các phương tiện hỗ trợ hoạt động báo cáo, thảo luận của HS như máy tính, máy chiếu… Dụng cụ thí nghiệm cịn chưa đồng bộ và độ chính xác khơng cao nên rất khó khi HS tự làm thí nghiệm. Nguồn tài liệu bổ trợ cho hoạt độngt ìm tịi – khám phá của HS cịn rất nhiều hạn chế.

<b>* Về chương trình SGK </b>

Cấu trúc, chương trình SGK hiện nay bố trí theo bài, khơng theo chủ đề có tính hệ thống: một số kiến thức của bài dạy còn dài dịng và có nhiều phần chưa phù hợp dạy theo phương pháp BTNB. HS thường lệ thuộc vào nội dung có sẵn trong SGK, hạn chế việc tìm tịi, tự bộc lộ quan điểm, ý kiến cá nhân.

<b>* Về đội ngũ GV </b>

Trình độ GV hiện nay chưa đồng đều cả về chuyên môn và năng lực sư phạm. Kiến thức chuyên sâu về khoa học, năng lực sư phạm của một số GV trong việc áp dụng một số phương pháp dạy học mới cịn nhiều hạn chế. Vì vậy, GV thường gặp nhiều khó khăn trong việc trả lời, giải đáp các câu hỏi cũng như khó khăn trong việc nêu ra tình huống mở đầu cho mỗi bài dạy trong phương pháp BTNB. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp BTNB nói riêng.

<b>* Về HS </b>

Số HS trên một lớp tương đối đông nên việc tổ chức cho HS làm việc theo nhóm rất khó khăn. Điều này cũng gây khó khăn trong tổ chức các hoạt động thực tế cho HS.

Trình độ của HS khơng đồng đều, khó tiếp cận với phương pháp giảng dạy mới. Nếu lớp học thụ động, kiến thức yếu thì tình huống đưa ra các em sẽ khơng tìm được vấn đề cần đặt ra, không đề xuất được thực nghiệm, sẽ không dự báo được kết quả thực nghiệm… và tiết dạy theo phương pháp này không đạt hiệu quả.

<b>2.5. Thiết kế soạn một số mục/bài trong chương trình Sinh học lớp 10 cơ bản theo phương </b>

</div><span class="text_page_counter">Trang 23</span><div class="page_container" data-page="23">

- Phân biệt được các hình thức vận chuyển thụ động, vận chuyển chủ động, nhập bào và

- Kỹ năng tư duy: khái quát hóa nội dung kiến thức, giải thích được một số hiện tượng trong cuộc sống như muốn giữ rau tươi, chúng ta cần phải thường xuyên vẩy nước vào rau.

- Kỹ năng khoa học: làm thí nghiệm về cơ chế vận chuyển thụ động.

<b>3. Thái độ. </b>

- Hình thành lịng hăng say u thích học tập bộ mơn. - Áp dụng những điều học được vào trong cuộc sống. - Giải thích được một số hiện tượng trong cuộc sống.

<b>II. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC. 1. Phương pháp dạy học. </b>

- Hoạt động tìm hiểu cơ chế vận chuyển thụ động: Phương pháp bàn tay nặn bột.

<b>2. Phương tiện dạy học. </b>

- 4 quả trứng gà, dấm, cân, nước cất, đường 5%, đường 20%, CuSO<small>4</small> 5%.

<b>III. NỘI DUNG TRỌNG TÂM. </b>

- Vận chuyển thụ động. - Vận chuyển chủ động.

<b>IV. TIẾN TRÌNH DẠY HỌC. 1. Ổn định lớp. </b>

<b>2. Kiểm tra bài cũ. </b>

Câu hỏi: Nêu cấu trúc và chức năng của khung xương tế bào, màng sinh chất. Thành tế bào thực vật khác với thành tế bào của vi khuẩn và nấm ở những điểm nào?

<b>3. Bài mới. </b>

<b>Hoạt động: Tìm hiểu cơ chế vận chuyển thụ động </b>

<b>Bước 1: Tình huống xuất phát – câu hỏi nêu vấn đề </b>

- GV: Mang trứng gà Bách thảo ra và hỏi các em có biết trứng gà này khơng? Trứng gà này

- Làm việc chung cả lớp:

+ Theo dõi, tiếp nhận tình huống.

</div><span class="text_page_counter">Trang 24</span><div class="page_container" data-page="24">

khác với trứng gà chúng ta ăn thường ngày là lịng trắng của chúng có màu đen, người ta gọi đây là trứng gà Bách thảo. Tại sao lịng trắng trứng gà Bách thảo lại có màu đen?

+ Thảo luận chung, đi tới vấn đề cần giải quyết.

<b>Bước 2: Hình thành biểu tượng ban đầu của HS </b>

- GV yêu cầu HS viết câu trả lời vào vở thí nghiệm và thảo luận trong nhóm để thống nhất các ý kiến của nhóm và chuẩn bị trình bày trước lớp.

- Làm việc cá nhân viết quan niệm ban đầu của mình vào vở thí nghiệm và trao đổi với các thành viên khác trong nhóm.

- Dự đốn các giả thuyết có thể:

+ Do vỏ trứng mỏng nên hỗn hợp có bồ kết tán mịn (màu đen) xâm nhập vào làm lòng trắng trứng chuyển sang màu đen.

+ Do hiện tượng khuếch tán, trứng ngâm trong hỗn hợp bồ kết lâu ngày khuếch tán vào trong làm lòng trắng trứng chuyển sang màu đen. + Do có hiện tượng thẩm thấu, hỗn hợp nước từ bên ngoài qua lớp vỏ trứng vào bên trong gây ra màu đen của bồ kết.

<b>Bước 3: Đề xuất giả thuyết và phương án thực nghiệm </b>

- GV điều khiển thảo luận chung cả lớp, ghi các ý kiến lên bảng.

- Hướng dẫn HS so sánh các ý kiến, nhất là các ý kiến trái ngược nhau để làm nổi bật lên các giả thuyết cần làm rõ.

- Yêu cầu HS thảo luận đề xuất phương án thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết vừa nêu, cử đại diện nhóm trình bày.

- Các nhóm cử đại diện lên trình bày kết quả thảo luận của nhóm.

- Thảo luận để loại bỏ những ý kiến không hợp lý.

- HS làm việc theo nhóm: Đưa ra những phương án nghiệm lại tất cả những giả thuyết hợp lý, chọn đại diện trình bày phương án

</div>

×