Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp phát triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.35 KB, 17 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Có thể nói, “lý luận” và “thực tiễn” là hai phạm trù thường xuyên được
đề cập đến trong các hoạt động của con người. Giữa lý luận và thực tiễn có
mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và nó là một trong những vấn đề cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung và của lý luận nhận thức macxit nói riêng.
Trong bất kỳ một lĩnh vực hoạt động nào của con người thì những vấn
đề về lý luận và thực tiễn phải được đưa ra xem xét trong mối liên hệ với
nhau. Có như vậy hoạt động của con người mới có thể đi đúng hướng và đạt
được hiệu quả cao. Lịch sử phát triển đã chứng minh rằng phải luôn kết hợp
giữa lý luận và thực tiễn trong mọi hoạt động. Nếu có sự vi phạm nguyên tắc
này thì kết quả thu được sẽ không được như mong muốn.
Đối với Việt Nam, chúng ta đã từng đi qua những cuộc chiến tranh để
bảo vệ nền độc lập của đất nước.Sau khi đất nước hoàn tồn giải phóng, nhân
dân ta bắt tay vào khơi phục nền kinh tế và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong
q trình này, chúng ta gặp vơ vàn khó khăn những cũng có những điều kiện
thuận lợi nhất định. Trong từng giai đoạn phát triển, Đảng và Nhà nước có
những đường lối chiến lược phát triển đất nước khác nhau. Trải qua nhiều
thay đổi về đường lối quản lý, hiện nay nền kinh tế nước ta đã tìm được
hướng đi đúng mặc dù vẫn cịn khơng ít sai lầm cần phải sửa đổi. Đạt được
những thành tựu như vậy là do Đảng và Nhà nước ta đã đi từ thực tiễn hồn
cảnh đất nước mà có được những lý luận đúng đắn để đưa ra những chính
sách kinh tế - xã hội phù hợp.
Với mong muốn được tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, em đã chọn đề
tài: “Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn trong sự nghiệp phát
triển kinh tế – xã hội ở Việt Nam”.
Em xin chân thành các thầy cô giáo và các bạn đã giúp em hoàn thành
bài viết này.

1



CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.Thực tiễn:
1.1.1.Khái niệm:
Thực tiễn là tồn bộ những hoạt động vật chất có mục đích mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn là q trình con người sử dụng cơng cụ phương
tiện vật chất, sức mạnh vật chất tác động vào tự nhiên xã hội để cải tạo làm
biến đổi cho phù hợp với nhu cầu của mình. Hoạt động thực tiễn là quá trình
tương tác giữa chủ thể và khách thể trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo
khách thể trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Vì vậy thực tiễn là mắt khâu
trung gian nối liền ý thức của con người với thế giới bên ngoài.
Thực tiễn là hoạt động có tính chất lồi (lồi người). Hoạt động đó
khơng thể tiến hành chỉ bằng vài cá nhân riêng lẻ mà phải bằng hoạt động của
đông đảo quần chúng nhân dân trong xã hội. Đó là hoạt động của nhiều tầng
lớp, nhiều giai cấp . Chủ thể không phải là một vài cá nhân mà là cả xã hội
trong giai đoạn lịch sử nhất định. Cho nên xét về nội dung cũng như về
phương thức thực hiện, thực tiễn có tính lịch sử xã hội.
Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến bộ của tự
nhiên xã hội loài người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhưng hoạt động vật
chất nào đi ngược lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì khơng goị là hoạt
động thực tiễn.
Thực tiễn có ba dạng cơ bản:
- Hoạt động sản xuất vật chất: đây là hoạt động thực tiễn cơ bản và quan trọng
nhất vì nó quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.

2


- Hoạt động chính trị – xã hội: nhằm cải tạo, biến đổi xã hội, phát triển các
quan hệ xã hội, chế độ xã hội.

- Hoạt động thực nghiệm khoa học: là hoạt động nhằm rút ngắn độ dài của
quá trình con người nhận thức và biến đổi thế giới.
1.1.2.Vai trò:
Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở của nhận thức. Mọi nhận thức đều bắt
nguồn từ thực tiễn, tác động vào sự vật hiện tượng buộc nó bộc lộ thuộc tính
trên cơ sở đó khái qt, rút ra bản chất của sự vật hiện tượng, biến nó thành
vật cho ta.
Thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm nhận thức, thước đo để đánh
giá nhận thức. Thước đo không cố định, luôn luôn vận động, phát triển, nhưng
vẫn đủ để kiểm nghiệm nhận thức và lý luận, vừa mang tính tuyệt đối vừa
mang tính tương đối. Từ thực tiễn mà con người sáng tạo ra các phương pháp
để cải tạo chính thực tiễn
1.2.Lý luận:
1.2.1.Khái niệm:
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn phản
ánh mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người,
là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong q trình
lịch sử”. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh
nghiệm, nhưng lý luận khơng hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và
không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát kinh nghiệm. Do tính độc lập
tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy
nhiên điều đó khơng làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó

3


đem lại những hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện
tượng khách quan. Như vậy lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính

xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó
phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến, rộng rãi hơn nhiều so với tri thức
kinh nghiệm.
1.2.2.Vai trị:
Lý luận có các vai trò sau đây:
- Khái quát kinh nghiệm thực tiễn, tổng kết thực tiễn.
- Vạch ra những qui luật vận động phát triển của thực tiễn.
- Liên kết, tập hợp, giáo dục, thuyết phục, động viên, tổ chức thực hiện.
- Chỉ đạo và cải tạo cuộc sống.
1.3.Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
Lý luận và thực tiễn thống nhất với nhau, không chia cắt, không tách
rời, không được coi trọng mặt nào. Lý luận được hình thành khơng phải ở bên
ngồi thực tiễn mà trong mối liên hệ với thực tiễn. Do đó, thực tiễn và lý luận
ln có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn
giữ vai trị quyết định lý luận
1.3.1.Thực tiễn quyết định lý luận:
Vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ thực tiễn là cơ sở
động lực mục đích chủ yếu và trực tiếp của lý luận. Triết học Mác – Lênin
chỉ ra rằng con người quan hệ với thế giới bắt đầu khơng phải bằng lý luận mà
bằng thực tiễn. Chính trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới buộc
con ngươì phải nhận thức thế giới do đó mà lý luận của con người mới được
hình thành và phát triển. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào
thế giới buộc thế giới khách quan phải bộc lộ những tính chất quy luật của nó
trên cơ sở đó mà con người nhận thức được chúng. Thực tiễn cung cấp những

4


tài liệu cho lý luận. Do đó khơng có thực tiễn thì khơng có lý luận và khơng
có cả khoa học. Hiểu biết của con người xét đến cùng phải bắt nguồn từ thực

tiễn.
Quá trình biến đổi thế giới là quá trình con người ngày càng đi sâu vào
nhận thức thế giới, khám phá những bí mật của thế giới làm phong phú sâu
sắc tri thức của mình về thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và giới
hạn phát triển của lý luận và sự phát triển của các ngành khoa học. Nhu cầu
của thực tiễn đòi hỏi phải có tri thức mới. Tổng kết kinh nghiệm, khái quát
nhận thức, thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các ngành khoa học.
Thực tiễn cịn có tác dụng rèn luyện các giác quan của con người. Nó là
cơ sở để chế tạo ra những dụng cụ máy móc hỗ trợ cho nhận thức của con
người.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Triết học Mác – Lênin chỉ ra rằng từ
hoat động thực tiễn mà có tri thức và khoa hoc. Lý luận khoa học sau khi ra
đời phải quay về phục vụ thực tiễn hướng dẫn chỉ đạo thực tiễn, chỉ có ý
nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn, cải tạo thực tiễn, phục
vụ mục tiêu phát triển chung.
Tóm lại sự phân tích trên đây về vai trị của thực tiễn đối với lý luận đòi
hỏi phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu lý luận phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn, nghiên
cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn. Nếu xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai
lầm của bệnh chủ quan, giáo điều, máy móc, quan liêu.
1.3.2.Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn:
Triết học Mác - xít chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn khơng có nghĩa là coi
nhẹ lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận mà phải thấy được vai trị tác động tích
cực của lý luận đối với thực tiễn. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn được
thể hiện ở các điểm sau:

5


- Lý luận khái quát những kinh nghiệm thực tiễn. Do đó lý luận dẫn dắt, chỉ

đạo thực tiễn, điều chỉnh hoạt động thực tiễn đạt kết quả cao. Lý luận khoa
học làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động tự giác, hạn chế tình
trạng mị mẫm tự phát. Chủ tịch Hồ Chí Minh có viết “khơng có lý luận thì
lúng túng nhắm mắt mà đi”. Cịn Lênin khẳng định “ khơng có lý luận cách
mạng thì khơng thể có phong trào cách mạng”.
- Lý luận góp phần vào việc tổ chức giáo dục thuyết phục quần chúng. Lý
luận một khi đã thâm nhập vào quần chúng sẽ trở thành lực lượng vật chất.
- Lý luận có thể dự báo tương lai, từ đó hấp dẫn con người trong cuộc sống
hiện tại.
Do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản ánh hiện thực nên
lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Khả năng ấy càng
tăng lên nếu lý luận đó lại bị chi phối bởi những tư tưởng khơng khoa học
hoặc phản động. Vì vậy, phải coi trọng lý luận, nhưng khơng được cường điệu
hố vài trị của lý luận mà coi thường thực tiễn và tách rời lý luận với thực
tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong lý luận khoa học và hoạt động cách mạng. “Thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin. Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng.
Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận sng”
Tóm lại sự tác động trở lại của Nhận thức đối với thực tiễn theo hai
hướng: nếu nhận thức phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát
triển, nếu nhận thức phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển
thực tiễn.
CHƯƠNG 2. MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM

6



2.1.Thời kỳ trước đổi mới ( trước năm 1987)
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm
1960 cơ bản hồn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn
làm ăn cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia
giai cấp. Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề
kinh tế xã hội của cộng đồng nơng thơn. Do vậy, hợp tác xã hố được thực
hiện đồng nhất với tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại
dưới hình thức kinh tế phụ gia đình, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể,
tổ chức lao động tập trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban chủ nhiệm hợp
tác xã và ban chỉ huy đội, phân phối theo ngày cơng, sau khi trừ chi phí sản
xuất, khấu trừ nộp cho nhà nước và phúc lợi xã hội ở nơng thơn, ban chủ
nhiệm làm cả chức năng của chính quyền cơ sở. Tuy vậy nhờ lao động tập thể
và sử dụng tập trung các nguồn lực nên đã xây dựng được những cơng trình
thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao thơng, trường học... bộ mặt miền
Bắc cũng có những thay đổi đáng kể.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết tật:
- Chế độ công hữu dưới hình thức tập thể dường như khơng có ai là chủ đích
thực dẫn đến tư liệu sản xuất khơng được sử dụng có hiệu quả và bị huỷ hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho người lao động phụ thuộc, bị
động, thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nơng thơn, chi dùng
phung phí, phân chia cho người lao động q ít, khơng khuyến kích người lao
động hăng say sản xuất.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tương đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm lại
gắn liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị trường.

7


- Hệ thống quốc doanh ấy lại được tổ chức theo cấp hành chính. Mỗi xã,

phường cịn có hợp tác xã mua bán tín dụng, nơi có nghề truyền thống cịn có
hợp tác xã tiểu thủ cơng nghiệp.
Những khuyết tật trên của hợp tác xã nông nghiệp đã phát sinh những
tiêu cực ngay từ giai đoạn đầu. Nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực
ấy là do chế độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát
huy tính ưu việt của hợp tác xã, thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ra đã có
quan hệ sản xuất tiên tiến cần phải kéo lực lượng sản xuất lên cho nó phù hợp.
Điều này trái với qui luật lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất của
chủ nghĩa Mác.
Trên cơ lý luận đó, chúng ta mở cuộc vận động cải tiến vòng một, vòng
hai, vận động dân chủ áp dụng điều lệ mẫu vào các hợp tác xã. Các cuộc vận
động ấy, một mặt thực hiện khốn nhóm, ba khốn cho đội sản xuất, mặt khác
lại mở rộng quy mô hợp tác xã, hoàn thiện chế độ thống quản. Qua ba lần
thực hiện cải tiến quản lý, tuy có giảm mức độ nhất định những tiêu cực
trong các hợp tác xã, nhưng về cơ bản chưa khắc phục được.
Trong chiến tranh chống Mỹ cứu nước miền Bắc vừa là hậu phương
lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam, vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh
phá hoại của giặc Mỹ. Do tác động của chiến tranh và có nguồn viện trợ
khơng hoàn lại từ các nước XHCN, các hợp tác xã lại có thêm sức mạnh tư
tưởng, tâm lý và vật chất để củng cố, những tiêu cực vốn có bên trong chưa
bộc lộ ra. Mơ hình tổ chức hợp tác xã kiểu tập trung bao cấp tỏ ra có tác dụng
tích cực. Bởi vì nó có thể huy động tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến
đấu, “ thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”, tất cả cho tiền
tuyến, cho chiến thắng. Hợp tác xã còn hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có
người đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm bảo thực hiện chính sách hậu
phương quân đội.

8



Lênin nói khuyết điểm chính là ưu điểm đã được kéo dài. Đúng vậy,
trong kháng chiến chống Mỹ, mơ hình hợp tác xã ở Miền bắc khá phù hợp,
với quyết tâm tất cả cho tiền tuyến, cho thống nhất đất nước, Đảng ta đã huy
động được sức mạnh toàn dân, miền bắc thi đua sản xuất chi viện sức người,
sức của cho tiền tuyến miền nam. Năm 1975, miền Nam được hồn tồn giải
phóng, đất nước thống nhất, cả dân tộc bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội
trong bối cảnh cuộc chiến tranh lạnh và cấm vận kinh tế, điều kiện thực tiễn
đã thay đổi, mơ hình kinh tế đó dần dần bộc lộ những mâu thuẫn, nền kinh tế
Việt Nam lâm vào khủng hoảng ngày càng trầm trọng. Thực tiễn đòi hỏi
Đảng và Nhà nước phải đổi mới đường lối phát triển kinh tế – xã hội. Tuy
nhiên do chưa nhận thức đúng thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta vẫn vận hành
nền kinh tế kế hoạch tập trung, quan liêu, bao cấp, đã mắc phải những khuyết
điểm như:
- Q nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần
gọi là phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam. Đối với các địa
phương phía Bắc, việc nóng vội đưa hàng loạt hợp tác xã bậc thấp lên bậc cao
chẳng những đã khơng đạt được mục đích đẩy quan hệ sản xuất đi trước để
thúc đẩy lực lượng sản xuất lên theo mà ngược lại đã kìm hãm sự phát triển
của lực lượng sản xuất. Trên mặt trận nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ nông dân
tham gia vào hợp tác xã tăng nhanh qua mỗi năm, nhưng sản lượng lương
thực từ 13,5 triệu tấn năm 1976 cũng chỉ tăng lên được 18,2 triệu tấn năm
1985. Đến năm 1985, mặc dù cả nước có tới 14052 hợp tác xã nơng nghiệp
nhưng một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã ở trong tình trạng “treo biển
hợp tác xã” một bộ phận không nhỏ xã viên hợp tác xã đã quay về làm kinh tế
gia đình, và đa số đã chăm chút cho việc sản xuất và thu hoạch trên phần đất
5% của mình. Trên thực tế đời sống kinh tế xã hội nông thôn ngày càng xuất
hiện nhiều sự so sánh giữa kinh tế tập thể, kinh tế gia đình, kinh tế hộ với
nhau. Tuy chưa có tun bố chính thức, nhưng đã xuất hiện tình trạng tự giải

9



thể của mơ hình hợp tác xã với những quy mơ, hình thức và phạm vi khác
nhau khơng chỉ trong nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ…
- Phát triển tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các ngành của nền
kinh tế quốc dân, vượt quá khả năng của Nhà nước về nhiều phương diện.
Mặc dù tăng mạnh các cơ sở quốc doanh trong nền kinh tế như vậy nhưng
tổng sản phẩm xã hội được tạo ra từ thành phần kinh tế quốc doanh trong giai
đoạn này chỉ tăng 1,5 lần.
- Không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lượng sản xuất to lớn trong xã
hội thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ nghĩa, lực lượng này bao
gồm các hộ nông dân chưa vào hợp tác xã, những người làm ăn cá thể trong
các ngành nghề tiểu thủ công, những người kinh doanh cá thể trong các ngành
thương mại dịch vụ.
- Phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức đổi
hàng trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và bao
vây kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín
như vậy đã làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm
tay của việc sử dụng và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế
đem lại. Trong giai đoạn 1976-1985 , mặc dù đã xây dựng được 1307 xí
nghiệp nhà nước nhưng đó chỉ là những xí nghiệp 100% vốn nhà nước, khơng
có đầu tư trực tiếp hoặc gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Nhược điểm
của những xí nghiệp quốc doanh này là đã đầu tư sử dụng trang thiết bị, công
nghệ lạc hậu vài ba chục năm so với các nước trong khu vực, do vậy đã để lại
những hậu quả rất khó khăn về mặt hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh của
xí nghiệp. Những nguồn vốn này nếu Nhà nước đầu tư vào sửa chữa, nâng
cấp, xây dựng mới các cơng trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho nền kinh tế thì
hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn rất nhiều so với đầu tư vào những xí nghiệp quốc
doanh yếu kém.


10


Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là
kết thúc chiến tranh biên giới phía bắc, Đảng và Nhà nước tập trung hơn vào
mặt trận kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất nhiều khó khăn,
việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất trên các mặt.
Sản xuất bị đình trệ, đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày càng gặp
nhiều khó khăn. Điều đó buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân phải tìm cách
tháo gỡ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương Đảng
khoá IV ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu tháo gỡ cho sản xuất và đời sống.
Trên thực tế nghị quyết này là nấc thang mới đầu tiên cho việc đổi mới
tư duy kinh tế thể hiện ở sự chấp nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá
thể, kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do đến một mức độ nhất định
trong khi đó vẫn giữ quan điểm lâu dài là chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch
hố tập trung. Nhưng dù sao sự chấp nhận đó có thể coi là nấc thang mới, hơn
nữa là bước đột phá trong tư duy, vì sự thay đổi nhận thức đã bắt đầu vượt
qua hai điều tối kị trong mơ hình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan điểm
chính thống lúc đó: kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do. Bước đột phá
đó đã bước đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trước
đó, mọi cải tiến trên mặt trận kinh tế chỉ trong giới hạn cơ chế quản lý, do đó
đã gặp nhiều bế tắc, luẩn quẩn khơng thể tháo gỡ được. Sau nghị quyết 6 của
Ban chấp hành Trung ương khố IV là chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương
về khốn sản phẩm trong nơng nghiệp, quyết định 25CP về quản lý xí nghiệp,
chủ trương kế hoạch hoá từ đơn vị cơ sở, ba phần kế hoạch, bốn nguồn cân
đối, xuất nhập khẩu tự cân đối, tự trang trải, chấp nhận thị trường tự do bên
cạnh thị trường có tổ chức... Tất cả các nghị quyết đó đều dựa trên cơ sở chấp
nhận và triển khai cơ cấu kinh tế hàng hố nhiều thành phần, dù cịn nhiều
hạn chế.

Chính nhờ đó, sản xuất lưu thơng đã bung ra rất sôi động, rộng khắp.
Trên thực tế, một mặt đã diễn ra tình hình chưa từng có, một phong trào quần

11


chúng năng động phát triển sản xuất lưu thông, phong trào nơng dân nhận
khốn, phong trào phát huy tự chủ năng động của đơn vị cơ sở và địa phương
với những điển hình làm ăn có hiệu quả nổi bật. Mặt khác sự bung ra của thị
trường tự do với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ngày càng lấn át
kinh tế quốc doanh và thị trường có kế hoạch. Hợp tác xã ngày càng rệu rã,
mặt trận giá -lương- tiền, phân phối lưu thông cực kỳ rối loạn nóng bỏng. Nhà
nước bị tổn thất về của cải và ngày càng rời vào tình thế gần như mất khả
năng điều khiển. Trước thực trạng đó, đã diễn ra cuộc tranh luận kéo dài và
rất gay gắt về lý luận và chính sách kinh tế trên tất cả các vấn đề. Cuộc tranh
luận ấy có hai xu hướng trái ngược nhau: xu hướng chấp nhận kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần như là chiến lược lâu dài và xu hướng chấp nhận như
bước lùi sách lược tạm thời, gắn với những nhận thức khác nhau về mơ hình
xã hội chủ nghĩa và con đường xây dựng nền kinh tế. Hiện tượng đặc trưng
cho hai xu hướng này là năm 1985 khi trù bị Đại hội VI, đã có hai lần dự thảo
văn kiện. Lần đầu, dự thảo văn kiện vẫn giữ quan điểm cũ về kinh tế, chủ
trương thúc đẩy cải tạo, hợp tác hoá và kế hoạch hoá tập trung. Khi lấy ý kiến
đã không được đông đảo tổ chức đảng xem xét và ra văn kiện kết luận về
quan điểm kinh tế làm cơ sở cho việc tập dự thảo văn kiện lần thứ hai và được
Đại hội thơng qua thành quan điểm chính thống.
2.2.Thời kỳ đổi mới ( từ năm 1987 tới nay).
Đại hội Đảng VI đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế - xã
hội, nhằm đưa đất nước thoát dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối
của thập kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành đổi mới. Muốn đổi
mới thì dứt khốt phải từ bỏ không thương tiếc những cái cũ lạc hậu, lỗi thời.

Trọng tâm của sự đổi mới lúc bấy giờ là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy
kinh tế, là đổi mới các chính sách kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản
trong đường lối đổi mới của Đảng do Đại hội VI đề ra là xây dựng nền kinh tế

12


hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi
mới đó, Đại hội VII và VIII của Đảng tiếp tục hồn thiện và cụ thể hố bằng
các chính sách, cơ chế nhằm kiên trì xây dựng nền kinh tế hàng hố nhiều
thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế
hợp tác trở thành nền tảng trong nền kinh tế, kinh tế cá thể, tiểu thủ công,
kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể, kinh tế tư bản nhà nước dưới
các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến và có vai trị tích cực trong nền kinh
tế. Mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trước pháp
luật. Tháng 4-2001, Đại hội IX của Đảng đã chính thức đưa ra khái niệm
“kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và khẳng định: Phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất
qn, là mơ hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Đây là kết quả sau nhiều năm nghiên cứu, tìm tịi, tổng kết
thực tiễn và là bước phát triển mới về tư duy lý luận của Đảng Cộng Sản Việt
Nam.
Những nét mới trong đường lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành
phần kinh tế như trên chính là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan
hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm lực kinh, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu
nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.
Hơn 10 năm qua, kể từ khi Việt Nam bước vào thực hiện mơ hình kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được

nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng, làm thay đổi khá rõ tình hình đất
nước. Kinh tế ra khỏi khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có
hiệu quả. Của cải xã hội ngày càng nhiều, hàng hoá ngày càng phong phú.
Đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững
được ổn định chính trị trước những chấn động lớn trên thế giới mà cịn có

13


bước phát triển đi lên. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình qn
7%/năm. Giá trị sản xuất cơng nghiệp tăng 13,5%/năm. Hệ thống kết cấu hạ
tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất nhập khẩu phát triển. Quan hệ
đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế không ngừng được mở rộng...Tuy nhiên,
cũng có nhiều vấn đề mới đặt ra cần được nghiên cứu và giải quyết.
Từ thực tiễn phát triển kinh tế – xã hội trong thời gian qua và căn cứ
vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, Đảng và Nhà nước cần tổng kết lại
kinh nghiệm và tiếp tục nghiên cứu đưa ra để thực hiện một số vấn đề có tính
lý luận sau:
- Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh
tế nhiều thành phần
- Giữ vững và tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo
của Đảng Cộng Sản
- Giải quyết các vấn đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hố
xã hội, thực hiện cơng bằng xã hội

KẾT LUẬN
Với những nội dung nghiên cứu trên, chúng ta có thể thấy được vai trò
của lý luận và thực tiễn cũng như sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn
trong mọi hoạt động nói chung của con người và hoạt động kinh tế – xã hội
nói riêng. Đây là một trong những vấn đề quan trọng mang tính định hướng


14


cho hoạt động của chúng ta, đặc biệt trong giai đoạn khi mà cả thực tiễn và lý
luận đã có những biến đổi to lớn như hiện nay.
Từ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ta có thể rút ra một số kết luận
sau:
- Để có nhận thức đúng, có chủ trương chính sách đúng cho hoạt động đổi
mới kinh tế-xã hội nhất thiết phải đảm bảo được sự phù hợp với thực tiễn, gắn
chủ trương chính sách với thực tiễn, phải sâu sát thực tiễn, phải quán triệt sâu
sắc tư tưởng của Lênin, quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm
thứ nhất và cơ bản của lý luận.
- Để khắc phục được sự lạc hậu về nhận thức, về chủ trương chính sách thì
nhất thiết nhận thức cũng như chủ trương chính sách phải thường xuyên được
bổ sung hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn.
- Không được coi trọng lý luận mà xem thường thực tiễn, điều đó sẽ dẫn tới
mắc bệnh chủ nghĩa giáo điều, ngược lại không được coi trọng thực tiễn mà
xem thường lý luận, dẫn tới mắc bệnh chủ nghĩa kinh nghiệm.
Trên đây là toàn bộ nội dung mà em đã tìm hiểu và nghiên cứu về lý
luận và thực tiễn. Vấn đề này cịn rất nhiều khía cạnh để chúng ta có thể bàn
tới, tuy nhiên do có sự hạn chế nhất định nên em chỉ xin đóng góp một số nội
dung cơ bản của vấn đề.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã
giúp em hoàn thành tốt bài viết.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1-Đảng Cộng Sản Việt Nam:”Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
IX”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 2001
2-C.Mác – Ph.Ăngghen:”Biện chứng tự nhiên”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà

Nội – 1994

15


3-Nguyễn Văn Linh:” Đổi mới tư duy”, NXB Sự Thật, Hà Nội - 1998
4-Phạm Ngọc Quang – Trần Đình Nghiêm:” Thời kỳ mới và sứ mệnh của
Đảng ta”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội – 1993
5-Tạp chí Cộng Sản, số 3 – 2002
6-Tạp chí Cộng Sản, số 11 – 2002
7-Tạp chí Cộng Sản, số 9 – 2003
8-Tạp chí Cộng Sản, số 11 - 2003
9-Tạp chí Lý luận chính trị, số 9 – 2003
10-Tạp chí Lý luận chính trị, số 12 – 2003

16


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU......................................................................................1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN.....................................................................2
.............................................................................................................................
1.1.Thực tiễn........................................................................................................2
1.1.1.Khái niệm..................................................................................................2
1.1.2.Vai trò.......................................................................................................3
1.2.Lý luận...........................................................................................................3
1.2.1.Khái niệm..................................................................................................3
1.2.2.Vai trò.......................................................................................................3
1.3.Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn......................................................4
1.3.1.Thực tiễn quyết định lý luận......................................................................4

1.3.2.Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn.......................................5
CHƯƠNG 2.MỐI QUAN HỆ GIỮA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
TRONG SỰ NGHIỆP PHÁT TRIỂN KINH TẾ – XÃ HỘI
Ở VIỆT NAM...................................................................................................6
2.1.Thời kỳ trước đổi mới ( trước năm 1987)....................................................6
2.2.Thời kỳ đổi mới ( từ năm 1987 tới nay).....................................................11

KẾT LUẬN........................................................................................14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...........................................15

17



×